Biên hoang truyền thuyết - tập 1

Hồi 20

Lưu Dụ và Thác Bạt Khuê hai người ngồi chồm hổm ở cuối bậc cấp, lén nhìn qua cửa ra có cái chảo sắt che đậy, nghe tiếng hô hấp của địch nhân bên trên.

Trên sự thật bọn họ đã sớm đoán định sẽ gặp phải tình huống này, thử hỏi thích khách lúc nào cũng có thể xuất hiện, nơi Phù Kiên đến bảo an tất phải nghiêm mật bậc nhất, nhà bếp là đường tiến nhập hậu viện phải đi ngang, làm sao mà không có Tần binh canh phòng cho được?

Lưu Dụ hai mắt nhìn lên, thì thào: “Chỉ có bốn người, mệt đừ lắm rồi, hơi thở nặng nề, ít nhất có một người ngủ li bì”.

Thác Bạt Khuê cúi đầu ngẫm nghĩ, nhắm mắt nói: “Hai phiến cửa dẫn tới Đệ Nhất Lâu và hậu viện đều đóng kín, để tránh bụi bặm gió máy lọt vào lâu, cho nên tiếng động cũng khác với hồi nãy”.

Lưu Dụ vẫn tròn mắt nhìn qua cái chảo, như muốn nhìn thấu huyền cơ bên trên: “Ngươi đoán thủ vệ là người cánh nào?”.

Thác Bạt Khuê đáp: “Rất có thể là người của Phù Kiên, nếu không đâu có mệt nhọc đến mức ngủ vùi, hơn nữa nhà bếp thuộc nội bộ Đệ Nhất Lâu, chắc do tùy binh của Phù Kiên phụ trách bảo an, ngoài lâu tất là người của Phù Dung”.

Lưu Dụ nói: “Hai người thủ cửa trước, hai người còn lại thủ cửa sau, ngươi đoán nếu bọn chúng bất chợt thấy hai huynh đệ từ địa đạo chui ra, lại hô nhỏ quân lệnh, sẽ có phản ứng gì không?”.

Thác Bạt Khuê lắc đầu: “Thân tùy của Phù Kiên không có ai không phải là cao thủ chọn ra từ ngàn người, bằng vào sức của ba người bọn ta, lại phải chui từng người ra, tuyệt không có khả năng im hơi lặng tiếng mà chế phục bọn chúng”.

Bất chợt thanh âm y phục lòa xòa trên đất từ bên trên truyền xuống.

Thác Bạt Khuê hai mắt trợn trừng, tinh quang ngời bắn, Lưu Dụ vừa hay đưa mắt nhìn hắn, mục quang chạm nhau, hai người đều sinh ra cảm giác quái dị, tựa như thình lình ngay giờ phút này không ngờ lại thâm nhập thấu hiểu đối phương, nhìn ra đấu chí kiên nghị bất biến, sự phấn đấu không lùi trong nghịch cảnh của đối phương.

Lưu Dụ thốt: “Có người ngồi xuống!”.

Tiếp đó là tiếng ba người khác ngồi xuống, có người còn thư thả thở phào một hơi, lầm bầm một hai câu, bất quá không có ai đáp lời.

Thác Bạt Khuê nói: “Chắc là vậy! Trước khi Phù Kiên đi, người của Phù Kiên trong Đệ Nhất Lâu không thể đến nhà bếp, người của Phù Dung càng không thể tiến vào, nếu không làm sao dám lén lút xao lãng lười biếng đang lúc canh gác”.

Lưu Dụ hít một hơi sâu: “Ta hy vọng nghe tiếng ngáy ngủ”.

Thác Bạt Khuê mỉm cười: “Tình huống này một khi bắt đầu thì khó lòng khống chế, rất mau chóng sẽ như sở nguyện của ngươi, ta đi thông tri cho Yến Phi một tiếng”. Nói xong cẩn thận rón rén bước xuống bậc cấp không để thoát ra một tiếng động nào.

o0o

Phù Kiên lúc này đã thế Yến Phi, ngồi bên cái bàn gỗ lớn trông ra đường trên lầu hai, đối diện với con đường cái thông ra Giản môn, lẳng lặng uống trà sữa dê do thị vệ dâng lên, lắng nghe Phù Dung cúi đầu cung kính đứng một bên báo cáo tình huống hiện thời của Biên Hoang Tập, cùng tình báo từ tiền tuyến Hoài Thủy truyền về.

Đường trường thủ vệ sâm nghiêm, chỗ nào lầu phòng cao đều có người canh gác, một đội tuần kỵ đang rong ruổi ra cửa Đông, Biên Hoang Tập đâu đâu cũng sát khí ngút trời.

Phù Kiên dào dạt sóng lòng, nghĩ tới quá khứ của mình, tình tự trong tim tràn trề kịch liệt, từ khi tiến vào Biên Hoang Tập, y biết rõ bá nghiệp của mình đã đạt đến thời khắc quan trọng nhất, bất cứ một quyết định nào cũng đều có thể ảnh hưởng đến mệnh vận tương lai thiên hạ, cho nên y cần tìm một chỗ tốt, tĩnh lặng tâm tư sách tính.

Vốn ngôi hoàng đế Đại Tần đâu đến phiên y, cha y Phù Hùng là thừa tướng của Đại Tần chi chủ Phù Kiện, chết trận trong chiến dịch Hoàn Ôn bắc phạt, y phận con thừa kế chức vụ của cha, được phong làm Đông Hải Vương.

Sau khi Phù Kiện chết, Phù Sinh kế vị, người này vũ dũng cái thế, lại tàn bạo bất nhân, còn hơn cả Kiệt Trụ, quần thần trên dưới bất mãn, chúng bạn người thân rời xa. Phù Kiên y từ bé thông minh hơn người, bác học đa tài, tinh thông Hán tịch điển chương, ôm ấp đại chí, rất được lòng người.

Cuối cùng có một ngày y lợi dụng Phù Sinh say rượu giết người trong cung mà chém chết Phù Sinh, tiếp đó đăng lên đế vị, xưng là Đại Tần Thiên Vương.

Thuở y mới lên ngôi, do Phù Sinh vô đạo, dân chúng điêu linh, quyền thần hào tộc hoành hành bá đạo, vào thời khắc bá tánh rục rịch nổi dậy đó, y phá lề lối đi dùng Hán nhân Vương Mãnh, thúc đẩy quốc sách cơ bản “dùng pháp trị đất nước loạn lạc”, không lý gì tới sự phản đối của bất cứ một ai, toàn lực chống lưng cho Vương Mãnh, thậm chí nội trong một năm liên tục năm lần gia quan tấn tước cho Vương Mãnh, giúp cho Vương Mãnh có thể lơi tay tại vị, cho dù là dòng quý tộc trong Đê tộc cũng tuyệt không lưu tình, kiến lập một chính quyền thanh liêm có triển vọng, đạt được cục diện đỉnh cao từ trên xuống dưới đều nghiêm minh, kẻ quý tộc giàu có cũng phải nín thở sợ hãi, đồ rơi trên đường không dám nhặt, phong hóa phát triển thịnh vượng.

Thành tựu một đời của y toàn là trông vào một ý mà hành sự, độc tài bài bác nghị luận của đám đông mà đi. Y lần này Nam phạt, cũng là một quyết định trong đầu nghĩ gì là làm, một khi đã quyết định, y vĩnh viễn không sửa đổi.

Thanh âm của Phù Dung truyền vào tai y: “Theo thám tử hồi báo, Thọ Dương hoàn toàn không tăng cường công sự phòng ngự, thật kỳ quái”.

Phù Kiên từ trong cơn trầm tư vụt quay về, nghĩ ngợi một hồi, chợt khà khà cười: “Đạo lý rất đơn giản, người Tấn binh lực bạc nhược, biết căn bản không thể giữ Thọ Dương, cho nên không làm chuyện vô vị, tránh lãng phí nhân lực vật lực”.

Phù Dung cau mày: “Chỉ sợ có gì trá ngụy”.

Phù Kiên nhìn hắn, điềm đạm thốt: “Ngươi nói cho ta xem, người Tấn bằng vào cái gì có thể cố thủ Thọ Dương? Thành trì Hiệp Thạch trong Bát Công Sơn, lại bị Phì Thủy ngăn cách, Thọ Dương chỉ là một tòa cô thành, nếu như bọn ta tấn công ngày đêm không ngừng, nó có thể cầm cự được bao lâu?”.

Phù Dung không nói gì, hắn hiểu tính cách của Phù Kiên rõ nhất, một khi đã hình thành ý tưởng, không ai có thể cải biến được y.

Phù Kiên mục quang xoay sang đường trường, trầm giọng: “Bên Kiến Khang có động tĩnh gì không?”.

Phù Dung đáp: “Tư mã Diệu giao cho Tạ An toàn quyền chủ lý, Tạ An cho Tạ Thạch làm chủ soái, Tạ Huyền, Tạ Diễm làm phó tướng, tập kết Bắc Phủ binh ở Quốc Lăng và Lịch Dương xung quanh Kiến Khang, cho nên tôi mới cảm thấy bọn chúng nếu buông bỏ Thọ Dương thì thật không có lý”.

Phù Kiên ngạc nhiên một hồi, gật đầu: “Quả thật có điều cổ quái, Hồ Bân thật ra là người ra sao? Mau truyền Chu Tự đến đây cho ta!”.

o0o

Lưu Dụ và Thác Bạt Khuê khổ não chờ đợi một lúc lâu, vẫn chỉ có một tên phát ra tiếng ngáy, khiến cho hai người không dám mạo hiểm.

Lưu Dụ nhớ tới đề tài nói chuyện trước khi cửa ra bị phá, đến gần Thác Bạt Khuê nhỏ giọng: “Hiện tại ta đã nắm được tình báo chính xác có liên quan đến đại quân Đê Tần, việc tìm Chu Tự không còn trọng yếu nữa, đã là như vậy, bọn ta đâu cần mạo hiểm, đợi đoạt được quân phục, giả làm thân binh bá đạo nhất dưới trướng Phù Kiên, có thể bằng vào khẩu lệnh mà ngang nhiên đi ra”.

Thác Bạt Khuê thần sắc trào lộng nhìn gã: “Lưu huynh có dám mở phong thư Tạ Huyền sai huynh giao cho Chu Tự ra xem thật hư không?”.

Lưu Dụ có cảm giác thân thiết với Thác Bạt Khuê như đã là chiến hữu chung vai phấn đấu, lại ẩn hàm quan hệ thù địch cạnh tranh kỳ dị, hỏi nhẹ: “Ngươi nói trong thư có mật kế khác?”.

Thác Bạt Khuê thốt: “Đầu óc của ngươi xoay chuyển cũng rất mau, Nam phương từ sau khi Tạ Huyền nắm chức thống soái Bắc Phủ binh, đánh đâu thắng đó, cho nên có thể thấy được y trí dũng song toàn. Y sai ngươi vượt trăm ngàn gian khổ đưa một phong thư cho Chu Tự, trong đó đương nhiên có sự vụ khẩn yếu, hơn nữa không cho phép Chu Tự cự tuyệt. Nếu cứ nghĩ tới bề mặt của tình huống, ta cũng nghĩ Chu Tự khó có thể chịu nhận, nhưng Tạ Huyền là người phi thường, có thủ đoạn phi thường, cho nên ta vẫn nghĩ tất cần phải đem thư giao tận tay Chu Tự”.

Tiếp đó cười khan: “Xem ra ta đối với Tạ Huyền còn có lòng tin hơn là ngươi đối với y”.

Lưu Dụ bị hắn châm chọc thấy khó chịu, trong lòng tức uất, lại không thể phát tác, cười khổ: “Được thôi! Tất cả y theo lời ngươi!”.

Thác Bạt Khuê chợt thò tay nắm vai gã, thấp giọng: “Nói thẳng với ngươi: ta vốn không quá coi trọng Tạ Huyền, mãi cho đến khi từ miệng ngươi biết Tạ Huyền độc đoán buông bỏ Thọ Dương mặc cho số đông nghị luận, lập tức cải biến ấn tượng về y, đầy lòng tin đối với y. Nếu đổi lại không phải là Tạ Huyền mà là bất cứ tướng lãnh nào của Nam Tấn chủ sự, ngươi thấy tình huống sẽ ra sao chứ?”.

Lưu Dụ cảm thấy được ngón tay dài mạnh của hắn, ngầm rùng mình. Thác Bạt Khuê nhìn cực chuẩn, người Tấn lúc nghe tin đại quân Đê Tần nam hạ, trong quân quả thật có hai ý kiến. Một là cứng cỏi dựa vào Trường Giang cố thủ thành trì lấy Kiến Khang làm trung tâm, còn một kia là tử thủ Thọ Dương, không để đại quân Đê Tần vượt sông Hoài nam hạ. Chiến lược của Tạ Huyền lại nằm ngoài hai ý kiến đó, làm cho người ta khó lường cao thâm. Trong số các tướng lãnh người Tấn, Lưu Dụ là một trong vài người đủ tài trí để nhận xét về Tạ Huyền, biết cái Tạ Huyền dùng đích thị là sách lược khiến cho địch nhân “không biết lực lượng công kích ở đâu”, Thác Bạt Khuê là người ngoại tộc, chỉ bằng vào việc Tạ Huyền buông bỏ Thọ Dương là liền nhìn ra sự cao minh của Tạ Huyền, có thể thấy Thác Bạt Khuê quả là một kẻ tài trí hơn người.

Thác Bạt Khuê nói tiếp: “Người Tần rành mã chiến, kỵ binh lợi hại nhất là vận dụng xích hậu tiêm binh, đội binh mũi nhọn dò xét tình hình địch quân, nếu để bọn chúng có đồng trống rộng rãi để phát huy, Bắc Phủ binh làm sao là địch thủ cho được? Chỉ có để chúng hãm thân vào vùng sông hồ rừng núi giao nối, các ngươi mới có hy vọng thắng”.

Xích hậu là đội thám tử xem gió biết tình thế, mã thuật của người Hồ tinh thông, đến đi như gió, có thể quan sát địch nhân cách xa mà rõ như chỉ tay, hơn nữa điều động linh hoạt, lúc nào cũng có thể bằng vào kỳ binh đột tập địch thủ, một khi để cho bọn chúng tung hoành như chỗ không người ở vùng đồng trống bao la, người phương Nam chỉ còn nước cố thủ thành trì, hãm vây vào ách vận bị truy đuổi kích phá. Mà Thọ Dương ở vùng giao nối của hai con sông Hoài Thủy và Phì Thủy, quân Tần công hãm Thọ Dương sẽ từ không hình tích biến thành có hình tích, tính linh hoạt của kỵ binh vì vậy mà giảm yếu đi nhiều, cho nên lời nói của Thác Bạt Khuê là vậy.

Lưu Dụ không thể không nói: “Lời nói của Thác Bạt huynh thật cao thâm”. Đồng thời nghĩ đến khuyết điểm duy nhất của Thác Bạt Khuê có lẽ là sự kiêu ngạo tự phụ và thích người ta chịu phục của hắn.

Bên trên thình lình truyền tới tiếng mở cửa.

Hai người giật bắn mình, nghe bốn tên lính bên trên hoang mang đứng dậy, bọn họ trong lòng đang thảng thốt, đám binh sĩ đó làm sao còn có thể ngủ vùi được nữa. Có người bên trên thấp giọng nói: “Ta không nhìn thấy gì hết, khà khà!”. Tiếp đó có thanh âm mở cánh cửa thông ra hậu viện, người đó đi thẳng ra hậu viện, lớn tiếng: “Chuẩn bị ngựa!”.

Lưu Dụ và Thác Bạt Khuê thất thần nhìn nhau, Yến Phi hiện thân cuối bậc cấp, bước lên nghe hai phiến cửa trước sau nặng nề mở ra, khe khẽ thốt: “Ta biết chỗ Chu Tự ở rồi!”.

o0o

Tạ An đứng ở đầu thuyền, Tống Bi Phong lơi tay đứng kề sau lưng ông ta, gió sông lùa qua, tà áo của hai người lất phất, phành phạch vang động.

Cũng là sông Tần Hoài, cũng là đi thăm Tần Hoài Lâu, tâm tình của âm ta so với đêm hôm qua còn chìm đắm nặng nề hơn nữa.

Gánh nặng quốc gia hưng vong đè nén đến mức tức thở. Biến cục có thể đến theo chiến thắng hoặc chiến bại càng khiến cho ông ta có cảm giác sâu đậm khó thể gánh đương nổi.

Ông ta rất muốn tìm Vương Thản Chi, nói rõ cho họ Vương biết chuyện làm ám muội của con trai y, lại biết làm như vậy là bất trí phi thường. Vương Thản Chi là đại thần chức trọng quyền cao, nhưng tính khí có chỗ đoản, luôn đem sự vinh diệu của gia tộc đặt trên. Cái độc hại nhất là y nghi kỵ Tạ Huyền, sợ Tạ Huyền trở thành một Hoàn Ôn khác. Tạ An để Tạ Thạch nắm ngôi chủ soái chính là có nỗi khổ bất đắc dĩ. Ông ta cự tuyệt không cho Vương Quốc Bảo tham chiến, khẳng định đã khuấy động sự hoài nghi và bực dọc của Vương Thản Chi, nếu còn kể cho y về lầm lỗi của con trai y chỉ có thể gia tăng thêm vết rạn vỡ giữa hai đại gia tộc, cho nên chuyện Di Lặc giáo tất cần phải cẩn thận xử lý.

Tạ An ngấm ngầm thở dài, bình tĩnh hỏi: “Giang Hải Lưu có phải đang ở Kiến Khang?”.

Tống Bi Phong giật mình, Giang Hải Lưu ở phương Nam là nhân vật giậm chân có thể làm chấn động cả vùng Giang Tả. Y bản thân võ công cao cường không thua một ai, nhưng cái làm cho người ta kính sợ đích thị là ý nắm giữ địa vị long đầu lão đại của Đại Giang Bang.

Giang Hải Lưu quật khởi nhằm thời đại Hoàn Ôn nắm quyền, sáng lập Đại Giang Bang, thủ hạ hơn vạn người, thiết lập phân đà khắp thành trấn hai bờ Trường Giang, chuyên làm nghề mua bán muối, làm ăn rất có lời, càng khiến cho thế lực của Đại Giang Bang bành trướng không ngừng. Do có Hoàn Ôn chống lưng, y đối với Hoàn gia cũng một lòng trung thành. Hơn nữa Giang Hải Lưu biết lo cho tròn đều với người người, cho nên Đại Giang Bang vững như Thái Sơn, cho dù là triều đình Nam Tấn cũng phải nể mặt y.

Năm Hoàn Ôn bị bệnh chết, Tư mã Diệu vẫn không dám tước binh quyền của Hoàn gia, một trong những nguyên nhân chủ chốt chính là có Giang Hải Lưu đứng về phía Hoàn gia. Đến khi Hoàn Xung trở thành đầu não của Hoàn gia, vì Hoàn Xung chi trì triều đình, Đại Giang Bang sống hòa bình vô sự cùng triều đình, hơn nữa nạp đủ lương thuế, trái lại còn trở thành chủ lực áp bức thế lực thổ hào địa phương phía Nam.

Tạ An luôn luôn giữ khoảng cách với Giang Hải Lưu, tránh tạo sự hoài nghi của triều đình và Hoàn gia, bây giờ đột nhiên hỏi về y, tỏ ra tình huống dị thường cực kỳ.

Tống Bi Phong đáp: “Giang long đầu luôn luôn hành tung quỷ bí, bất quá y nếu ở Kiến Khang, nhất định có thể hiệu triệu đến gặp An gia, An gia có phải muốn Bi Phong truyền lời cho người?”.

Tạ An gật đầu: “Nếu y có ở Kiến Khang, ta đêm nay muốn gặp y ở Tần Hoài Lâu”.

o0o

Ba người lui xuống thạch cấp nói chuyện.

Yến Phi giải thích: “Phù Kiên hiện tại tâm huyết lai láng, muốn triệu Chu Tự đến hỏi dò về tình huống Thọ Dương, Phù Dung sai người đến Tây Uyển bên Tây môn đại nhai triệu Chu Tự đến gặp, bọn ta có thể đợi đến khi Chu Tự gặp Phù Kiên xong, sau khi quay lại Tây Uyển, để cho Lưu huynh tiềm nhập giao mật hàm cho gã”. Tiếp đó nói rõ vị trí của Tây Uyển.

Hai người trong lòng khen hay, chỉ cần bọn họ đến Tây Uyển trước khi Chu Tự quay về, có thể dễ dàng tìm ra chỗ nghỉ ngơi của gã, bất thình lình không quen không biết xông ra gặp gã, đó đương nhiên còn trông vào sự hợp tác “thân tại Tào doanh tâm tại Hán” của Chu Tự, nếu không, Chu Tự tính kế hại bọn họ, ba người không còn chỗ thoát thân.

Thác Bạt Khuê nói: “Chỉ cần bọn ta có thể học theo tên tiểu tử hồi nãy từ cửa sau đi đến hậu viện, quát lớn một tiếng ‘chuẩn bị ngựa’, chắc có thể qua khỏi, vấn đề là làm sao đến đó được”.

Lưu Dụ nói: “Một phương pháp ổn thỏa khác là đợi Phù Kiên bỏ đi, bọn ta mới ly khai. Ài! Bất quá tịnh không hợp tình lý”.

Thác Bạt Khuê gật đầu: “Đúng! Ngươi nói chuyện không đâu”.

Phải biết cho dù Phù Kiên dẫn thân binh bỏ đi, ngoài Đệ Nhất Lâu vẫn trùng trùng trạm canh, đột nhiên lại lòi ra hai “thân binh”, cho dù biết quân lệnh, không bị người ta hoài nghi mới là lạ.

Yến Phi nói: “Các ngươi nghe kìa!”.

Hai người dõng tai lắng nghe, chỗ cửa ra thấp thoáng truyền đến tiếng ngáy. Thác Bạt Khuê mừng thốt: “Chắc là tiếng ngáy của hai người”.

Yến Phi quyết đoán: “Không mạo hiểm một chút không được, lợi dụng cơ hội bốn tên thủ vệ bên trên ngủ vùi hoặc nửa tỉnh nửa mê, bọn ta lén ra, chế ngự bọn chúng, tốt nhất là dùng thủ pháp điểm huyệt, bọn chúng thần trí mù mờ, làm cho bọn chúng ngủ say, cho dù bọn chúng tỉnh lại cũng chỉ nghĩ mình mệt quá mà ngủ thiếp đi”.

Lưu Dụ nhíu mày: “Vậy ngươi muốn làm sao?”.

Thác Bạt Khuê đang ngưng thần lắng nghe, cười nói: “Người thứ ba cũng ngủ luôn rồi! Có khi bọn ta không cần đụng tới tay chân”.

Yến Phi nói: “Các ngươi từ cửa sau cứ ngang nhiên đi ra, kiếm cách thu hút sự chú ý của đám vệ sĩ ngoài hậu viện, ta từ cửa sổ lén chui ra, lợi dụng cây cối yểm hộ mà ly khai, sẽ gặp lại các ngươi ở Tây Uyển”.

Lưu Dụ lo lắng: “Ngươi có nắm chắc không?”.

Yến Phi cười khổ: “Cho nên ta nói phải mạo hiểm, bất quá An đại tiểu thư đã có thể làm được, hiện tại thủ vệ tuy đã được tăng cường, nhưng bởi bọn chúng không nghĩ tới địch nhân có thể từ Đệ Nhất Lâu lén lút đi ra, thêm vào ai ai cũng mệt mỏi muốn chết, ta có tám chín phần tin chắc là có thể qua khỏi”.

Lưu Dụ chợt nhớ tới An Ngọc Tình mà ba người chừng như đã quên bẳng đi: “An yêu nữ quả thật có nghề, không biết ả trốn đi đâu?”.

Thác Bạt Khuê căm tức: “Tốt nhất là ả bị Khất Phục Quốc Nhân bắt được, lúc đó sẽ hối hận đã bán đứng bọn ta”.

Thật ra hắn lại biết mình không thật sự hy vọng An Ngọc Tình lọt vào tay địch nhân, có cảm giác mâu thuẫn thật cổ quái.

Yến Phi đi lên thạch cấp, lên đến bậc mười, tiếng ngáy của người thứ tư cuối cùng cũng đã vang lên, hợp tấu với tiếng ngáy của ba người kia.

Yến Phi nhẹ nhàng nâng cái chảo sắt lên, ló đầu ra nhìn, thấy bốn tên thân binh của Phù Kiên đang chia thành cặp dựa ngồi kề cửa trước cửa sau nhà bếp, nhắm mắt ngủ say, binh khí đặt dưới đất, tình huống khiến cho người ta bật cười lên.

Yến Phi biết thời cơ khó có, bởi bốn tên lính là tinh binh đã trải qua huấn luyện nghiêm khắc, cho dù ngủ vẫn có tính cảnh giác rất cao, hễ có tiếng động lạ là lúc nào cũng có thể sực tỉnh, liền rón rén nâng cái chảo phóng nhẹ ra.

Hai ngọn đuốc cắm ở cửa trước cửa sau đang phừng cháy, chiếu sáng nhà bếp đồ đạc bể nát.

Một tên binh Tần trong hai kẻ ngủ gần cánh cửa thông ra Đệ Nhất Lâu hơn giật mình, tiếp đó mí mắt láy động, ngừng ngáy, lập tức muốn mở mắt ra.

Yến Phi thầm kêu không hay, nhanh trí quăng cái chảo lên cao, phóng ngang qua, một chỉ điểm ngay my tâm của gã, tên đó trúng chỉ ngã xuống, hôn mê liền. Lưu Dụ đằng sau giơ tay tiếp lấy cái chảo rớt xuống, vừa phóng ra vừa ngầm la nguy hiểm quá, tiếp đó tới phiên Thác Bạt Khuê, ba tên binh Tần kia vẫn ngủ vùi.

Lưu Dụ cầm cái chảo không hơi không tiếng đặt lại trên cửa vào, tất cả hồi phục lại nguyên trạng, ba người đều có cảm giác thở phào, ít ra đã thành công qua được cửa thứ nhất.

Yến Phi ra hiệu cho hai người đi ra.

Hai người gật đầu biểu thị đã hiểu, Yến Phi sẽ ở lại giám thị ba tên kia, bảo đảm không cho ai tỉnh dậy thành loạn.

Thác Bạt Khuê hít một hơi sâu, chỉnh lý lại quân phục trên mình hoàn toàn không khác gì bốn tên lính trong nhà bếp, cẩn thận mở cửa sau, cùng Lưu Dụ ngang nhiên cất bước đi ra.

Yến Phi nhẹ nhàng đóng cánh cửa sau cho bọn họ.