Cái Chết Huy Hoàng

Chương 3

Eve không phí thời giờ. Mệnh lệnh công việc đầu tiên khi cô đến văn phòng là liên lạc với Nadine Furst. Tín hiệu điện thoại truyền đi tanh tách qua kênh ngân hà. Các vệt đen mặt trời, trục trặc vệ tinh, hoặc đơn giản là một thiết bị cũ kỹ đã làm chậm cuộc kết nối trong vài phút. Cuối cùng, một hình ảnh chập chờn trên màn hình, rồi hiện ra rõ ràng.

Eve sung sướng thấy khuôn mặt lảo đảo và tái mét của Nadine. Cô không để ý đến sự chênh lệch thời gian.

“Dallas.” Cái giọng nhão nhoét của Nadine nói rời rạc và yếu ớt. “Chúa ơi, ở đây đang nửa đêm đấy.”

“Xin lỗi. Cô tỉnh chưa, Nadine?”

“Đủ tỉnh để ghét cô.”

“Ở trên kia cô có nhận được tin tức từ Trái Đất không?”

“Tôi hơi bận.” Nadine vuốt ngược mái tóc rối bời và với tay lấy thuốc.

“Cô hút thuốc từ bao giờ thế?”

Nadine cau mặt, hít hơi thuốc đầu tiên. “Nếu cảnh sát Trái Đất các người đến đây thì các người cũng hút thôi. Thậm chí cái thứ cứt đái này cô cũng có thể mua ở cái hang chuột này. Bất cứ cái gì khác cô cũng có thể mua được. Thật là chỗ ô nhục.” Cô ta lại rít thuốc. “Ba người trong một buồng giam, hầu hết bị bỏ tù vì buôn lậu ma túy. Các cơ sở y tế cũng giống như cái thứ ở thế kỷ hai mươi. Người ta vẫn dùng chỉ để khâu người.”

“Và quyền xem video bị hạn chế,” Eve chốt. “Thử tưởng tượng xem, đối xử với bọn giết người như tội phạm. Tôi đau lòng quá.”

“Cô không thể có được bữa ăn tử tế ở bất cứ đâu trên toàn xứ này,” Nadine gào xiết. “Cô muốn quái gì nào?”

“Muốn cô vui, Nadine. Cô sẽ xong việc sớm trên kia và quay về Trái Đất chứ?”

“Còn tùy.” Khi tỉnh hẳn, giác quan của Nadine trở nên sắc sảo. “Cô có gì cho tôi à.”

“Ủy viên Công tố Cicely Towers bị giết cách đây chừng ba mươi tiếng.” Chẳng để ý đến tiếng rú của Nadine, Eve tiếp tục với giọng mạnh mẽ, “Bà ấy bị cắt cổ, xác được phát hiện bên hè đường, khu 144, giữa phố Chín và phố Mười.”

“Towers. Chúa lòng lành. Tôi đã nói chuyện trực tiếp với bà ta cách đây hai tháng, sau vụ DeBlass. Khu 144?” Bánh xe đã lăn. “Cướp giật à?”

“Không. Bà ấy vẫn mang nữ trang và thẻ tín dụng. Một vụ cướp giật xảy ra trong khu đó sẽ chẳng để lại cho bà ấy dù chỉ đôi giày.”

“Không.” Nadine nhắm mắt một lúc. “Khỉ thật. Bà ta là người tốt. Cô phụ trách chính à?”

“Chuẩn.”

“Được rồi.” Nadine thở dài. “Thế, tại sao điều tra viên chính trong một vụ án hàng đầu ở đất nước này lại liên lạc với tôi?”

“Ma xui, Nadine ạ. Đồng nghiệp Morse nổi tiếng của cô đang phì nước dãi lên cổ tôi đấy.”

“Tên khốn,” Nadine lầm bầm, dằn dằn dập tắt điếu thuốc. “Thế ra đấy là lý do tôi không biết gì cả. Hắn đã cản tôi.”

“Cô sòng phẳng với tôi, Nadine, thì tôi cũng sòng phẳng với cô.”

Mắt Nadine sắc lẹm, lỗ mũi gần như phồng lên. “Độc quyền?”

“Chúng ta sẽ thỏa thuận các điều khoản khi cô quay về. Nhanh lên.”

“Tôi hầu như đã về Trái Đất rồi.”

Eve mỉm cười trước màn hình trắng xóa. Điều đó hẳn sẽ làm cho mày cáu tiết, C. J., cô nghĩ. Cô còn lẩm nhẩm khi rời khỏi bàn. Cô phải gặp vài người.

Chín giờ sáng, Eve đang đứng tại phòng khách sang trọng trong căn hộ của George Hammett ở ngoại ô. Thị hiếu của ông ta gây ấn tượng mạnh, cô nhận xét. Những tấm gạch lát vuông cỡ lớn màu đỏ thẫm và trắng, mát lạnh dưới chân cô. Tiếng nhạc nước róc rách vỗ lên đá phát ra từ bức tranh ba chiều về vùng nhiệt đới choán toàn bộ một bức tường. Những cái đệm bạc lấp lánh trên ghế sofa dài, thấp, và khi cô nhấn ngón tay lên một cái đệm, nó tạo ra màu da thịt có ánh bạc.

Cô quyết định tiếp tục đứng.

Các tác phẩm nghệ thuật được bày biện rất chọn lọc xung quanh căn phòng. Một pháo đài được chạm khắc giống như di tích lâu đài cổ, chiếc mặt nạ khuôn mặt một phụ nữ lồng trong tấm kính mờ màu hồng, lớp kính ấy ánh lên rực rỡ, biến đổi màu sắc theo hơi ấm bàn tay cô.

Khi Hammett từ phòng bên cạnh bước vào, Eve nhận định mỗi một phần nhỏ trong ông ta cũng bi kịch như không gian xung quanh ông.

Trông ông ta tái nhợt, mắt sũng xuống, nhưng như thế chỉ làm tăng vẻ quyến rũ của ông. Dáng ông cao, gầy, thanh mảnh. Khuôn mặt ông hõm xuống một cách hoàn mỹ nơi gò má. Không giống như những người cùng tuổi - Eve biết ông ta ở tuổi lục tuần - ông thích để tóc hoa râm tự nhiên. Một lựa chọn tuyệt vời với ông, cô nghĩ, vì bờm tóc dày tỏa ra ánh bạc giống như một trong những cây đèn nến thời George ở nhà Roarke.

Mắt ông cũng có màu nổi bật như vậy, mặc dù giờ đây chúng uể oải vì nỗi đau khổ hoặc do mệt mỏi.

Ông ta đến chỗ cô, hai tay nắm tay cô. “Eve.” Khi ông hôn lên má cô, Eve cau mặt. Ông vừa có một cử chỉ riêng tư.

Cô nghĩ cả hai đều biết điều đó.

“George,” cô cất tiếng, khéo léo lùi lại. “Cảm ơn ông đã dành thời gian.”

“Đừng nói thế. Tôi rất tiếc vì để cô phải đợi. Có một cuộc gọi tôi phải thực hiện cho xong.” Ông ra cử chỉ hướng về ghế sofa, tay áo sơ mi của ông cuốn theo cùng cử động. Eve đành ngồi xuống. “Cô muốn uống gì?”

“Không, tôi không uống gì.”

“Cà phê nhé.” Ông hơi cười. “Tôi nhớ cô rất thích cà phê. Tôi có loại cà phê của Roarke.” Ông ta nhấn nút trên bành ghế sofa. Một màn hình nhỏ nổi lên. “Một bình Argentine Gold,” ông ra lệnh, “hai tách.” Rồi, vẫn với nụ cười nhợt nhạt và điềm đạm, ông quay về phía cô. “Nó sẽ giúp tôi thư thái,” ông giải thích. “Tôi không ngạc nhiên khi thấy cô ở đây sáng nay, Eve. Hoặc có lẽ trong hoàn cảnh này, tôi nên gọi cô là Trung úy Dallas.”

“Vậy là ông hiểu tại sao tôi đến đây.”

“Tất nhiên. Về Cicely. Tôi không thể quen với chuyện này.” Giọng nói ngọt ngào của ông ta run nhẹ. “Tôi đã nghe tin đó vô số lần trên bản tin. Tôi đã nói chuyện với các con bà ấy và với Marco. Nhưng tôi dường như không thể đón nhận sự thật là bà ấy đã ra đi.”

“Ông đã gặp bà ấy vào đêm bà bị giết.”

Cơ mặt trên má ông giật giật. “Đúng. Chúng tôi đã ăn tối. Chúng tôi thường làm thế khi thời gian cho phép. Ít nhất mỗi tuần một lần. Nhiều hơn nếu chúng tôi sắp xếp được. Chúng tôi rất thân thiết.”

Ông dừng lại khi một người máy phục vụ nhỏ bé mang cà phê đến. Hammett tự rót lấy, tập trung vào công việc vặt vãnh đó một cách hầu như là mãnh liệt. “Gần gũi đến mức nào ư?” Ông lẩm nhẩm, và Eve nhận thấy tay ông không vững khi nâng tách cà phê lên. “Thân thiết. Chúng tôi là tình nhân, tình nhân của riêng nhau, đã nhiều năm nay. Tôi rất yêu bà ấy.”

“Ông và bà ấy vẫn ở riêng.”

“Đúng, bà ấy - cả hai chúng tôi muốn như thế. Nói một cách hoa mỹ là sở thích của chúng tôi khác biệt, và sự thật đơn giản là chúng tôi thích sự độc lập và không gian riêng tư của mình. Tôi nghĩ chúng tôi càng yêu nhau nhiều hơn bằng cách duy trì một khoảng cách nhất định.” Ông thở dài. “Nhưng mối quan hệ của chúng tôi không có gì bí mật, ít nhất là trước gia đình và bạn bè.” Ông lại thở dài. “Trước công chúng, chúng tôi muốn giữ kín đời sống riêng. Tôi không nghĩ giờ điều đó còn có thể nữa.”

“Tôi cũng nghĩ vậy.”

Ông lắc đầu. “Không quan trọng. Quan trọng là tìm ra kẻ đã giết bà ấy. Tôi không sao chịu nổi sự thể này. Không điều gì có thể thay đổi được sự thật là bà ấy đã ra đi. Cicely là,” ông nói chậm rãi, “người phụ nữ tuyệt vời nhất mà tôi từng biết.”

Mọi bản năng, của con người và của cảnh sát, đều nói với cô rằng người đàn ông này đang đau khổ sâu sắc, nhưng cô biết thậm chí bọn giết người cũng đau buồn cho nạn nhân của chúng. “Tôi cần biết lần cuối ông gặp bà ấy là lúc mấy giờ. George, tôi đang ghi âm cuộc nói chuyện này.”

“Vâng, tất nhiên. Lúc đấy tầm mười giờ. Chúng tôi ăn tối tại nhà hàng Robert ở đường Đông Mười hai. Sau đó chúng tôi đi chung taxi. Tôi để bà ấy xuống xe trước. Khoảng mười giờ,” ông nhắc lại. “Tôi phải về nhà mười lăm phút sau, vì có một vài tin nhắn đang chờ tôi.”

“Lịch trình của hai người thường như vậy à?”

“Gì cơ? À.” Ông thoát ra khỏi thế giới nội tâm. “Chúng tôi không có lịch trình cụ thể. Chúng tôi thường quay về đây, hoặc đến nhà bà ấy. Thỉnh thoảng, khi thích phiêu lưu, chúng tôi sẽ thuê một phòng ở Palace trong một đêm.” Ông dừng lại, mắt ông đột nhiên trống rỗng và vô vọng khi ông ngồi bật dậy khỏi chiếc ghế sofa ánh bạc mềm mại. “Ôi Chúa ơi. Lạy Chúa tôi.”

“Tôi rất tiếc.” Chẳng ích gì trước nỗi đau, cô biết. “Tôi rất tiếc.”

“Tôi bắt đầu tin điều đó,” ông nói bằng giọng trầm đục. “Tôi nhận ra sự việc càng tồi tệ hơn khi ta bắt đầu tin. Bà ấy đã cười khi ra khỏi taxi, hôn gió tôi. Đôi tay bà ấy thật đẹp. Tôi về nhà, và quên đi bà ấy vì tôi có tin nhắn. Tôi đi ngủ lúc nửa đêm, dùng một viên an thần loại nhẹ vì tôi có cuộc hẹn vào sáng sớm. Khi tôi đang ngủ, an toàn, bà ấy nằm chết dưới trời mưa. Tôi không biết liệu tôi có thể chịu đựng được điều đó không.” Ông quay lại, khuôn mặt tái xanh giờ đã thành trắng bợt. “Tôi không biết liệu tôi có thể chịu đựng được không.”

Cô không thể giúp ông. Thậm chí nếu nỗi đau đó là hữu hình mà cô có thể cảm nhận thì cô cũng không giúp gì ông được. “Tôi ước có thể làm việc này muộn hơn, để ông có thêm thời gian, nhưng tôi không thể. Như chúng ta biết, ông là người cuối cùng thấy bà ấy còn sống.”

“Ngoại trừ tên giết người.” Ông ngước lên. “Tất nhiên là trừ phi tôi giết bà ấy.”

“Sẽ tốt hơn cho mọi người nếu tôi loại trừ ngay được khả năng đó.”

“Đúng, tất nhiên là thế, Trung úy.”

Cô chấp nhận sự chua xót trong giọng nói của ông và thực hiện công việc của mình. “Ông có thể cho tôi biết tên của hãng taxi để tôi xác minh lộ trình của ông.”

“Nhà hàng đã gọi taxi. Tôi nghĩ là hãng Rapid.”

“Ông có gặp hoặc nói chuyện với ai trong khoảng từ nửa đêm đến hai giờ sáng không?”

“Tôi nói rồi, tôi dùng thuốc và đi ngủ lúc nửa đêm. Một mình.”

Cô có thể xác minh điều đó bằng đĩa an ninh của tòa nhà, mặc dù cô có lý do để biết những thứ như thế có thể bị làm giả. “Ông có thể cho tôi biết tâm trạng của bà ấy lúc chia tay ông không?”

“Bà ấy hơi lơ đãng, chắc mải nghĩ tới vụ việc bà ấy đang khởi tố. Lạc quan về vụ đó. Chúng tôi nói đôi điều về các con của bà ấy, đặc biệt là con gái. Mirina sắp thành hôn vào mùa thu tới. Cicely vui với ý nghĩ ấy, và phấn khích nữa bởi vì Mirina muốn một đám cưới thật lớn với mọi thứ được sắp xếp theo lối truyền thống.”

“Bà ấy có đề cập đến điều gì làm bà lo lắng không? Bất cứ cái gì hoặc bất cứ ai khiến bà ấy bận tâm?”

“Không có gì liên quan cả. Váy cưới phù hợp, hoa cưới nữa. Bà ấy hy vọng có thể nâng hình phạt trong vụ án này lên cao nhất.”

“Bà ấy có nhắc đến mối đe dọa nào không, các cuộc gọi, tin nhắn, hoặc cuộc tiếp xúc bất thường?”

“Không.” Ông đưa tay dụi mắt, rồi thả tay xuống bên hông. “Cô không nghĩ là nếu tôi biết bất cứ ý nghĩ nào dù nhỏ nhất liên quan đến việc tại sao chuyện này xảy ra thì tôi đã nói với cô sao?”

“Tại sao bà ấy lại đến Khu Thượng Tây vào giờ đó trong đêm?”

“Tôi không biết.”

“Liệu có phải bà ấy đi gặp người đưa tin không?”

Ông mở miệng rồi khép lại. “Tôi không biết,” ông lẩm nhẩm, bị vò xé vì ý nghĩ này. “Lẽ ra tôi không nên nghĩ... nhưng bà ấy thật ngoan cố, quá tự tin vào bản thân.”

“Mối quan hệ của bà ấy với chồng cũ. Ông mô tả thế nào?”

“Thân thiện. Hơi chút dè dặt, nhưng hòa nhã. Cả hai người đều tận tụy với con cái và điều đó đoàn kết họ lại. Ông ấy hơi khó chịu khi chúng tôi bắt đầu qua lại, nhưng...” Hammett dừng nói, nhìn chằm vào Eve. “Cô đừng nghĩ thế...” Ông đưa tay che mặt, dường như để giấu một nụ cười. “Marco Angelini lén lút quanh khu vực đó, cầm theo một con dao, âm mưu giết vợ cũ? Không, Trung úy.” Ông bỏ tay xuống. “Marco cũng có những tật xấu, nhưng ông ấy không bao giờ làm tổn thương Cicely. Nhìn thấy máu thôi cũng khiến ông ấy mất bình tĩnh rồi. Ông ấy quá lạnh lùng, quá bảo thủ, không thể xuống tay làm việc dữ được. Và ông ấy không có lý nào, không có động cơ nào muốn làm hại bà ấy.”

Điều đó, Eve nghĩ, là để cô quyết định.

Cô vượt từ thế giới này sang thế giới khác bằng cách rời căn hộ của Hammett và đến khu West End. Ở đây cô sẽ không nhìn thấy những cái đệm màu bạc, không thác nước róc rách. Thay vào đó là những vỉa hè lởm chởm, bất chấp chiến dịch chỉnh trang đô thị gần đây, những tòa nhà đầy rẫy hình vẽ graffiti mời gọi người xem tỏ hết mọi hỉ nộ ái ố. Các cửa hàng mặt tiền chắn hàng rào kim loại, vốn ít tốn kém hơn và cũng ít hiệu quả hơn so với lực lượng cảnh sát tại chỗ ở những khu vực xa xỉ hơn.

Cô không ngạc nhiên khi nhìn thấy một vài loài gặm nhấm được lũ mèo máy đi rong nơi ngõ hẻm lờ đi.

Cô thấy rất nhiều loài gặm nhấm hai chân. Một gã du côn nhe răng cười với cô, và cọ cọ vào đũng quần hắn đầy vẻ tự hào. Một tay bán hàng rong nhìn cô khắp lượt một cách nhanh chóng và chính xác như cớm, rồi chui tọt đầu dưới lớp lông mà hắn ta quấn xung quanh mái tóc nhuộm đỏ, và vội vã chạy biến tới những bãi cỏ an toàn hơn.

Một danh sách các loại thuốc vẫn còn bất hợp pháp. Một vài cảnh sát thực sự muốn can thiệp.

Lúc này, Eve không phải là một trong số họ. Ngoại trừ chút thôi thúc nghề nghiệp giúp cô có câu trả lời.

Trời mưa đã quét sạch vết máu. Các nhân viên kiểm tra hiện trường của Sở Cảnh sát đã lấy đi bất cứ thứ gì ở vùng lân cận có thể xem xét làm bằng chứng. Nhưng cô đứng đó một lúc, ngay tại chỗ Towers đã chết, và cô không khó khăn để hình dung ra cảnh tượng.

Giờ, cô cần quay ngược thời gian. Bà ấy đã đứng đây, Eve tự hỏi, đối mặt với kẻ giết người? Hầu như chắc chắn là thế. Bà ấy có thấy con dao trước khi nó cứa ngang cổ bà? Có thể lắm. Nhưng không đủ nhanh để có chút phản ứng nào hơn là một cái giật mình, thở gấp.

Eve ngước đầu, quan sát con phố. Da cô như thể bị gai đâm, nhưng cô lờ đi ánh mắt của những người đang dựa lưng vào các tòa nhà hoặc tha thẩn quanh mấy chiếc xe gỉ.

Cicely Towers đã đến khu ngoại vi này. Không phải bằng taxi. Cho đến nay, không có thông tin gì về việc đón hoặc trả khách của bất cứ công ty chính thống nào. Eve không tin bà ấy ngờ nghệch đến mức muốn bắt taxi dù.

Tàu điện ngầm, cô suy diễn. Nó nhanh và, với các máy quét và người máy cảnh sát, an toàn như một nhà thờ, ít nhất là cho đến khi ta chạm chân lên mặt đường. Eve nhìn thấy bảng hiệu xuống tàu điện ngầm cách chưa đến nửa tòa nhà.

Tàu điện ngầm, cô quả quyết. Có lẽ bà ấy đang vội chăng? Bực bội vì phải ra khỏi nhà lúc đêm mưa. Tự tin vào bản thân, như Hammett nói. Có lẽ bà ấy chẳng sợ sệt.

Bà ấy bước qua bậc thềm, lên đường trong bộ quần áo quyền uy, đôi giày đắt tiền. Bà ấy...

Dừng lại, Eve nhíu mắt. Không có ô sao? Cái ô chết tiệt của bà ấy đâu? Một người phụ nữ cẩn thận, một người thực tế và có óc tổ chức sẽ không đi ra ngoài trời mưa mà không mang theo ô. Eve vội lôi ngay máy ghi âm và ghi lại điều này để nhắc nhở cô kiểm tra.

Kẻ giết người đợi bà ấy trên đường phố? Trong một căn phòng? Cô quan sát bức tường gạch nham nhở của tòa nhà của người không tái hòa nhập được với cộng đồng. Một quán bar? Một câu lạc bộ thoát y?

“Ê, cô nàng da trắng.”

Eve nhíu mày, quay về phía tiếng nói quấy nhiễu. Một người đàn ông cao lớn như một ngôi nhà và xét độ đậm của nước da thì có thể nói đó là một gã đen thuần chủng. Gã đeo lông chim trên tóc, như nhiều người trong khu phố này. Một bên má có hình xăm màu xanh óng ánh hình sọ người nhe răng. Gã mặc chiếc áo vest suông màu đỏ, còn chiếc quần thì chật đến mức hạ bộ lồi lên.

“Chào anh chàng da đen,” cô nói cũng bằng cái giọng xấc xược thản nhiên y như thế.

Gã nhe rộng miệng, một cái cười rạng rỡ trên bộ mặt xấu xí đến khó tin. “Cô tìm việc à?” Gã nghếch đầu về phía biển hiệu sặc sỡ của câu lạc bộ thoát y bên kia đường. “Cô hơi gầy, nhưng họ sẽ thuê thôi. Không có nhiều người da trắng như cô. Chủ yếu là người lai.” Gã đưa tay nắn cằm, những ngón tay to như loại xúc xích đậu tương. “Tôi làm bảo vệ, tôi sẽ nói hộ cô.”

“Sao anh làm thế?”

“Không phải vì lòng tốt, năm phần trăm tiền boa, cô em. Người da trắng như cô em sẽ kiếm được kha khá đấy.”

“Cảm ơn ý tốt, tôi có việc làm rồi.” Với vẻ tiếc nuối, cô lôi phù hiệu ra.

Gã huýt gió qua kẽ răng. “Sao tôi không nhận ra nhỉ? Một cô nàng da trắng, chỉ là cô không toát ra mùi cớm.”

“Chắc do loại xà phòng mới tôi đang dùng. Có tên không?”

“Gọi tôi là Crack. Là âm thanh phát ra khi tôi bóp những cái sọ.” Gã lại nhe răng, và để minh họa gã ép hai bàn tay khổng lồ lại. “Crack! Hiểu chứ?”

“Hiểu rồi. Đêm hôm kia anh có đứng gác không, Crack?”

“Tiếc là lúc ấy tôi bận việc khác, lỡ mất chuyện hay ho. Hôm đấy tôi nghỉ, đi xem mấy sự kiện văn hóa.”

“Sự kiện nào?”

“Lễ hội ma cà rồng dưới Grammercy, với con vẹo trẻ trung hiện tại của tôi. Tôi thích xem bọn hút máu đấy. Nhưng tôi nghe nói ở ngay đây cũng có trò hay. Một luật sư bị giết. Một nhân vật tầm cỡ, quan trọng, và xinh đẹp nữa. Cũng da trắng đúng không? Giống như cô, cô em.”

“Đúng thế. Anh còn nghe gì nữa?”

“Tôi á?” Gã vạch một ngón tay xuôi xuống trước ngực áo. Móng tay trên ngón trỏ được cắt sắc, nhọn và sơn đen. “Tôi là người có phẩm giá, đâu phải hạng đi nghe mấy chuyện vỉa hè.”

“Cá là anh có.” Hiểu được luật lệ, Eve móc phiếu tín dụng một trăm đồng từ trong túi. “Nếu tôi muốn mua một chút phẩm giá ấy thì sao?”

“À, cái giá đó, có vẻ ổn đấy.” Bàn tay to lớn của gã nắm trọn lấy mấy cái phiếu tín dụng làm chúng biến mất hút. “Tôi nghe bảo bà ta la cà trong quán Five Moons lúc nửa đêm, khoảng tầm đấy. Vẻ như đang chờ ai đó, người không ai biết. Rồi bà ta bỏ đi.”

Gã nhìn xuống vỉa hè. “Bà ta đi không xa lắm, đúng không?”

“Không. Bà ấy có hỏi tìm ai không?”

“Theo tôi nghe thì không.”

“Có ai thấy bà ấy đi với người nào không?”

“Thời tiết xấu. Hầu hết mọi người không ra đường. Có thể vài kẻ du côn vẫn lang thang, nhưng nói chung là chả mấy ai.”

“Anh biết ai quanh đây thích trò cắt cổ không?”

“Rất nhiều người mang theo dao, cô nàng da trắng ạ.” Mắt gã trợn tròn thích thú. “Sao ta phải mang nếu ta không định dùng?”

“Bất kỳ ai thích cắt cổ,” cô nhắc lại. “Ai đó mà nếu có phải cứa cổ ai thì cũng chẳng bận tâm.”

Gã lại cười nhăn nhở. Hình xăm hộp sọ trên má gã dường như gật gù theo điệu nhăn nhở đó. “Ai lại chẳng sẵn sàng cứa cổ một ai đó mà chẳng thèm bận tâm. Cô thì không sao?”

Cô chấp nhận lập luận này. “Anh có biết ai quanh đây mới ra trại gần đây không?”

Gã cười như súng cối. “Cô em nên hỏi tôi biết người nào không ra trại thì hơn. Tiền của cô hết rồi.”

“Thôi được.” Cô rút trong túi ra một tấm danh thiếp thay vì phiếu tín dụng, khiến gã thất vọng. “Sẽ có thêm tiền nếu anh nghe được cái gì có ích cho tôi.”

“Hãy nhớ nhé. Cô em mà quyết định muốn kiếm thêm tí xiền như những cô ti trắng nho nhỏ xinh xinh ấy thì cho Crack này biết.” Sau câu đó, gã nhảy sang bên kia đường với dáng vẻ đường hoàng của một con linh dương đen to lớn.

Eve quay người và bước vào quán Five Moons để thử vận may.

Quán này có vẻ ăn nên làm ra, nhưng cô nghi ngờ điều đó.

Đây chỉ đơn thuần là một quán rượu: không vũ công, không màn hình, không buồng video. Khách hàng lui tới Five Moons không phải để giao thiệp. Cái mùi phả vào người Eve lúc cô bước qua cửa đủ cho thấy đốt cháy thành dạ dày là hoạt động đặc trưng nơi đây.

Thậm chí vào giờ này, căn phòng nhỏ hình vuông vẫn đông nghẹt. Đám người uống rượu lặng lẽ ngồi trên những chiếc ghế nhỏ nốc thứ chất độc hại mà họ lựa chọn. Đám người khác túm tụm nơi quầy bar, gần những chai rượu. Eve dò xét vài ánh nhìn khi cô bước qua sàn nhà nhớp nháp, rồi mọi người quay lại cuộc rượu say sưa.

Phục vụ quầy là một người máy, như hầu hết phục vụ bàn, nhưng cô ngờ rằng gã người máy này đã được lập trình để lắng nghe một cách vui vẻ câu chuyện không đâu của khách hàng. Nhiều khả năng hơn đó là một lực sĩ, cô nghĩ khi rụt rè tiến đến quầy. Nhà sản xuất tạo cho hắn ta đôi mắt xếch, bề ngoài da vàng giống lai. Không như hầu hết khách khứa, người máy không diện lông vũ hay để râu, mà mặc chiếc áo blu trắng toát trên một cơ thể lực lưỡng.

Không thể lót tiền bọn người máy được, cô nghĩ với chút tiếc rẻ. Đe dọa là cách thông minh và hợp logic.

“Uống gì?” Người máy hỏi. Giọng gã bị ngắc, một tiếng vọng nhẹ cho thấy vấn đề quá hạn bảo dưỡng.

“Không.” Eve muốn giữ sức khỏe. Cô xuất trình phù hiệu và đẩy một vài khách hàng về phía góc. “Cách đây hai tối có một vụ giết người.”

“Không phải trong này.”

“Nhưng nạn nhân đã ở đây.”

“Lúc đó bà ta còn sống.” Trước một dấu hiệu Eve không bắt kịp, gã người máy cầm chiếc cốc dính rượu từ một khách hàng ở giữa quầy, rót thứ chất lỏng trông độc hại vào trong cốc, rồi đẩy nó ngược trở lại.

“Lúc đó anh đang phục vụ.”

“Tôi làm việc hai bốn trên bảy,” hắn nói với cô, cho cô biết rằng hắn được lập trình để hoạt động toàn thời gian không cần nghỉ ngơi hoặc phục sức định kỳ.

“Anh đã từng thấy nạn nhân trước đây, tại đây, hoặc xung quanh đây?”

“Không.”

“Bà ấy gặp ai ở đây?”

“Không ai cả.”

Eve gõ ngón tay lên mặt quầy bar đầy khói. “Được, thế này cho đơn giản nhé. Anh cho tôi biết bà ấy vào lúc mấy giờ, làm gì, đi lúc nào, và đi bằng cách nào.”

“Tôi không có nhiệm vụ phải giám sát hành động của khách hàng.”

“Thôi được.” Eve từ từ nhấn ngón tay trên bàn. Khi nhấc ngón tay lên, cô nhúm môi trước vết bẩn nhớp dính nơi đầu ngón tay. “Tôi là cảnh sát điều tra giết người, nhưng tôi không có nghĩa vụ phải bỏ qua chuyện vi phạm quy định vệ sinh. Anh biết, nếu tôi gọi Sensor Bugs đến đây để họ soi một lượt, họ sẽ sốc đó. Sốc đến mức họ sẽ hủy giấy phép bán rượu.”

Đe dọa được đưa ra, cô không nghĩ đó là hành động đặc biệt thông minh, nhưng nó hợp logic.

Gã người máy mất một lúc để ước tính xác suất. “Người phụ nữ đi vào khoảng không giờ mười sáu phút. Bà ta không uống gì. Bà ta rời quán lúc một giờ mười hai phút. Một mình.”

“Bà ấy có nói chuyện với ai không?”

“Bà ta không nói gì cả.”

“Bà ấy có chờ đợi ai không?”

“Tôi không hỏi.”

Eve nhướn mày. “Anh đã quan sát bà ấy. Bà ấy có trông giống như đang tìm ai đó không?”

“Có vẻ thế, nhưng bà ta không thấy ai cả.”

“Nhưng bà ấy ở đây gần một tiếng. Bà ấy làm gì?”

“Đứng, nhìn, cau mày. Xem đồng hồ liên tục. Đi.”

“Có ai theo bà ấy ra ngoài không?”

“Không.”

Eve lơ đãng chà ngón tay bẩn lên quần jean. “Bà ấy có mang ô không?”

Gã người máy trông ngạc nhiên vì câu hỏi đó, ngạc nhiên hết cái mức mà người máy có thể biểu lộ. “Có, một chiếc màu tím, giống màu bộ trang phục.”

“Lúc đi ra bà ấy có mang nó theo không?”

“Có, lúc ấy trời mưa.”

Eve gật gù, rồi đi qua quầy bar, hỏi những khách hàng không vui.

Điều duy nhất cô thực sự muốn khi quay về Sở Cảnh sát là tắm một trận thật lâu. Một giờ đồng hồ ở trong Five Moons như đã để lại trên da cô một lớp bùn mỏng nhầy nhụa. Thậm chí cả răng, cô nghĩ, rà lưỡi lên hàm răng.

Nhưng phải báo cáo đã. Cô đi vào văn phòng, rồi dừng lại, nhìn chằm vào người đàn ông tóc cứng đang ngồi nơi bàn cô, đang bốc tay trong túi đựng những hạt dẻ bọc đường.

“Nếu cô bắt được thì tài.”

Feeney bắt chéo chân trên thành bàn cô. “Gặp cô mừng quá, Dallas. Cô thật bận rộn.”

“Một số cảnh sát thực sự làm việc để kiếm sống. Những người khác lại chơi game máy tính cả ngày.”

“Cô nên nghe lời tôi mà sử dụng các kỹ năng máy tính của cô.”

Với cử chỉ thiện cảm hơn là tức giận, cô đẩy chân ông ta khỏi bàn và đặt mông cô lên chỗ trống. “Ông đến chơi à?”

“Tôi đến chào mời sự phục vụ của mình, cô bạn ạ.” Ông ta hào phóng giơ ra túi hạt dẻ.

Cô nhai tóp tép và nhìn ông ta. Khuôn mặt ông ta thật xấu xí, khuôn mặt không bao giờ tỏ ra quyến rũ được. Mắt lồi, phần đầu của xương hàm, tai hơi to so với đầu. Cô thích nó như vốn có.

“Tại sao?”

“À, tôi có ba lý do. Trước hết, Chỉ huy đưa ra một đề nghị không chính thức; thứ hai, tôi rất ngưỡng mộ bà công tố.”

“Whitney gọi cho ông à?”

“Không chính thức,” Feeney giải thích lại. “Ông ấy nghĩ rằng nếu cô được ai đó có khả năng tuyệt hảo như tôi để làm việc cùng cô về đường truyền dữ liệu, chúng ta sẽ kết thúc vụ việc nhanh hơn. Chẳng bao giờ tổn hại gì khi có đường liên lạc trực tiếp với Ban Điều tra Điện tử.”

Cô suy xét, và vì biết các kỹ năng của Feeney thực sự xuất sắc, cô hưởng ứng. “Ông định tham gia vụ này chính thức hay không chính thức?”

“Tùy cô.”

“Thế thì chính thức nhé, Feeney.”

Ông ta nhe răng, nheo mắt. “Tôi biết cô sẽ nói thế.”

“Trước tiên tôi cần ông kiểm tra điện thoại của nạn nhân. Không có báo cáo nào trong nhật ký cuộc gọi hoặc trong đĩa an ninh cho thấy rằng bà ấy có khách vào đêm bị giết. Vậy là có ai đó gọi cho bà ấy, sắp xếp cuộc gặp.”

“Cứ coi như làm xong rồi.”

“Tôi cần ông kiểm tra những người bị bà ấy cho vào tù...”

“Tất cả?” Ông ta xen vào, hơi hoảng.

“Tất cả.” Cô cười tươi. “Tôi biết ông có thể làm việc đó bằng nửa thời gian so với tôi làm. Tôi cần biết những người thân, người tình, cả đồng bọn nữa. Và cả những vụ đang xét xử và chờ xét xử.”

“Lạy Chúa, Dallas.” Nhưng ông ta nhún vai, gập các ngón tay như nghệ sĩ dương cầm chuẩn bị cho buổi hòa nhạc. “Vợ tôi sẽ nhớ tôi đây.”

“Cưới phải cảnh sát thật tệ,” cô nói, vỗ nhẹ vai ông ta.

“Roarke nói thế à?”

Cô thả tay ra. “Chúng tôi đã cưới đâu.”

Feeney hắng họng. Ông ta thích nhìn vẻ cau mày thoáng qua, nét tức giận thoáng qua của Eve. “Anh ta thế nào?”

“Anh ấy ổn. Đang ở Australia.” Cô cho tay vào túi. “Anh ấy ổn.”

“Ừ ừ. Thấy cô và anh ta trên báo cách đây mấy tuần. Tại một sự kiện vui vẻ gì đó ở Palace. Trông cô thật nổi bật trong chiếc váy, Dallas.”

Cô dịch người vẻ khó chịu, khoanh tay ôm lấy mình, rồi lắc vai. “Tôi không biết là ông cũng xem mấy kênh lá cải ấy đấy.”

“Tôi thích lắm,” ông ta nói không chút ăn năn. “Hẳn thú vị nhỉ, cuộc sống xa xỉ thế mà.”

“Cái đó chỉ tạm thời thôi,” cô lẩm nhẩm. “Chúng ta sẽ bàn về đời sống xã hội của tôi hay là về điều tra tội phạm đây Feeney?”

“Chúng ta sẽ có thời gian để làm cả hai việc.” Ông ta đứng lên và vươn người. “Tôi sẽ kiểm tra điện thoại của nạn nhân trước khi bắt đầu tìm hiểu về những kẻ mà bà ta cho vào tù. Tôi sẽ liên lạc.”

“Feeney này.” Khi ông ta quay ra cửa, cô ngước đầu. “Ông bảo có ba lý do ông muốn tham gia. Ông mới nói có hai.”

“Thứ ba, tôi nhớ cô, Dallas.” Ông ta cười. “Chúa sẽ trừng phạt nếu tôi không nhớ cô.”

Cô cũng cười khi ngồi xuống làm việc. Chúa cũng sẽ trừng phạt nếu cô không nhớ ông ta.