Cát Bụi Thời Gian

Chương 14

Họ gọi cô là “Megan kinh hoàng.”.

Họ gọi cô là “Megan quỷ mắt xanh”.

Họ gọi cô là “Megan bất tử.”.

Cô lên mười tuổi.

Cô đã được mang tới trại mồ côi này khi còn là đứa trẻ sơ sinh, bị bỏ rơi trên bậc cửa nhà một cặp vợ chồng nông dân, những người đang không đủ sức nuôi chính bản thân mình.

Trại trẻ mồ côi là một tòa nhà hai tầng quét vôi trắng đơn sơ ở ngoại ô Avila, tại một khu nghèo của thành phố, cách xa quảng trường Desan Vicente. Trại này do Merceđes Angeles, một người đàn bà hộ pháp cùng bản tính dữ tợn mà nhiều khi làm cho những đứa trẻ được bảo trợ hiểu nhầm tình cảm thân mật bà dành cho chúng.

Megan nom khác hẳn những đứa bé cùng trại, một kẻ xa lạ với mớ tóc vàng, cặp mắt xanh sáng, nổi bật so với những đứa trẻ tóc đen, mắt đen.

Nhưng ngay ngày đầu, Megan cũng tỏ ra lạ lùng cả trong nhiều thứ khác nữa. Cô là một đứa trẻ có tính cách độc lập mạnh mẽ, một người cầm đầu, một kẻ chuyên gây rối.

Bất cứ có chuyện gì lộn xộn trong trại thì Mercedes Angeles cũng biết ngay rằng đó là do Megan đầu têu ra.

Suốt nhiều năm, Megan cầm đầu các cuộc đấu tranh đòi thức ăn. Cô tập hợp bọn trẻ lại thành một cộng đồng và bày ra những trò phản kháng hết sức thông minh, đủ làm đau đầu các nhà quản lý, gồm cả hàng chục vụ trốn trại. Chẳng cần phải nói, Megan trở nên gần gũi với mọi đứa trẻ. So với chúng, nới chung, cô nhỏ tuổi và nhỏ về cả vóc dáng hơn, nhưng chúng đều đến với cô, tìm sự chỉ dẫn. Cô tự nhiên trở thành kẻ cầm đầu. Còn những đứa bé hơn lại thích được nghe cô kể chuyện. Cô có một trí tưởng tượng kỳ lạ.

Chị Megan, bố mẹ em là ai vậy? .

À! Bố mày là một tên kẻ trộm vàng bạc thông minh. Nửa đêm ông ấy leo lên mái một khách sạn để lấy trộm kim cương của một nữ diễn viên nổi tiếng.

Nhưng khi đang nhét kim cương vào túi thì cô diễn viên tỉnh dậy.

Thế bà ấy tóm được me à?

Không. Ông ấy rất đẹp trai.

Thế rồi sao nữa?

Họ phải lòng nhau, rồi lấy nhau. Thế là mày ra đời.

Nhưng sao họ lại đưa em vào trại mồ côi? Họ không yêu em à?

Đây luôn luôn là phần khó giảng giải!

Tất nhiên là họ yêu mày. Nhưng … ờ … họ đi trượt tuyết ở Thụy Điển và bị chết trong một vụ tuyết sụp khủng khiếp.

Tuyết sụp là như thế nào?

Là khi một đám tuyết lớn bỗng tụt xuống và chôn bố mẹ mày ở dưới đó.

Thế cả bố lẫn mẹ em đều chết à?

Chứ sao. Và những lời cuối cùng của họ là họ yêu mày. Nhưng chẳng còn ai để trông nom mày, nên mày phải vào đây.

Megan cũng khao khát như những đứa trẻ khác muốn biết cha mẹ mình là ai.

Đêm đêm cô thường đến với giấc ngủ bằng những câu chuyện tự bịa ra cho mình:

Bố mình là một người lính tham gia cuộc nội chiến. Bố là một đại úy, chiến đấu rất dũng cảm. Bố bị thương trong một trận đánh và được mẹ là y tá chăm sóc Hai người lấy nhau, rồi bô trở lại mặt trận và hy sinh. Mẹ nghèo quá không nuôi nổi mình, nên phải để mình ở một nhà nông dân, và điều đó làm cho mẹ tan nát cõi lòng. Cô thường khóc một cách ngốc nghếch cho người cha dũng cảm đã chết và người mẹ, một quả phụ đáng thương. .

Hoặc, Bố mình là một người đấu bò, một trong những matadore vĩ đại. Bố nổi tiếng khắp Tây Ban Nha. Mọi người đều kính phục bố. Mẹ là một vũ nữ Flameco xinh đẹp. Họ cưới nhau, nhưng một hôm bố đã bị chết bởi một con bò to lớn, hung dữ Mẹ buộc phải từ bỏ mình.

Hoặc, Bố mình là gián điệp cừ khôi từ một nước …

Dòng tưởng tưởng chẳng bao giờ cạn.

Trong trại có ba chục trẻ, từ những đứa mới sinh bị từ bỏ đến những đứa tuổi mười bốn. Hầu hết là dân Tây Ban Nha, nhưng cũng có những đứa đến từ sáu nước khác, thế nên Megan trở nên thông thạo vài thứ tiếng. Cô ngủ trong cùng phòng với hơn một chục cô bé khác. Có những cuộc nói chuyện thì thầm trong đêm về những con búp bê và quần áo. Khi các cô gái lớn lên, họ nói về giới tính. Chuyện đó nhanh chóng trở thành mục chính để trao đổi.

Mình rồi sẽ lấy chồng, nhưng mình sẽ không để chồng làm cái ấy đâu, mình cho rằng làm thế là xấu.

Một đêm, vào lúc mọi người đều đã ngủ, Primo Conde, một trong những cậu bé của trại bò đến phòng các cô gái. Cậu rón rén đến bên giường cô.

Megan … – giọng cậu thì thào.

Primo? Có chuyện gì thế? – Megan tỉnh ngay.

Cho mình vào giường cậu với, được không? Cậu ta sụt sịt sợ hãi.

Được Khẽ thôi.

Primo mười ba tuổi, bằng với Megan, nhưng nhỏ con so với tuổi và là đứa trẻ đã từng bị đánh đập tàn nhẫn. Cậu bé luôn phải chịu những cơn ác mộng và thường thức dậy giữa đêm rồi kêu thét. Những đứa trẻ khác thì ghét bỏ nhưng Megan lại luôn bảo vệ cậu.

Primo leo lên nằm cạnh Megan và cô cảm thấy những giọt nước mắt chảy xuống má cậu. Cô ôm chặt lấy bạn trong tay.

– Thôi, nín đi. nào, – cô thì thầm. – Nín nào.

Tiếng sụt sịt nhỏ dần rồi tắt hẳn. Người cậu nép sát vào cô và cô cảm thấy được sự xúc động của cậu đang lớn dần.

Primo …

Mình xin lỗi. Mình … mình không thể nén được. Mình yêu bạn, Megan. Bạn là người duy nhất trên thế gian này mà mình nghĩ đến.

Bạn vẫn chưa được ra thế giới bên ngoài kia mà.

Xin bạn đừng cười.

Đâụ …. – Mình chẳng có ai ngoài bạn.

Mình biết.

Mình yêu bạn.

Mình cũng yêu cậu, Primo.

Im lặng.

Xin lỗi vì đã làm phiền bạn. Mình về giường mình đây Giọng Primo đầy vẻ đau xót. Cậu ta ngồi dậy.

Đêm đó giấc ngủ đã không đến với Megan.

Thỉnh thoảng, một đứa trẻ lại được gọi lên phòng quản lý để gặp cha mẹ nuôi tương lai. Đó luôn là phút giây xúc động đối với chúng, vì đó cũng có nghĩa là một cơ hội để thoát khỏi sự buồn thảm của trại mồ côi, một cơ hội để có được mái ấm thật sự và được thuộc về một người khác.

Nhiều năm trôi qua, Megan đã thấy nhiều những đứa trẻ mồ côi được lựa chọn. Họ về nhà của những thương gia, nông dân, chủ nhà băng, chủ cửa hiệu.

Luôn luôn chỉ là những đứa trẻ khác, chẳng bao giờ là cô Tiếng tăm của cô luôn đi trước, như một cảnh báo. Cô thường nghe những bậc cha mẹ tương lai nói chuyện với nhau.

Con bé nom xinh đẹp, nhưng nghe nói nó khó bảo lắm, – Có phải nó là đứa đã mang lén mười hai con chó vào trại trẻ tháng trước không?

Họ nói nó đầu têu những trò quái quỷ. Tôi sợ … nó không hợp với bọn trẻ ở nhà.

Họ chẳng biết gì về những đứa trẻ khác đã yêu mến cô thế nào. Mỗi tuần cha Berrendo đến thăm bọn trẻ được bảo trợ một lần và Megan luôn mong ngóng gặp ông. Cô ham đọc sách và linh mục cùng Mercedes Angeles đều chú ý cung cấp sách cho cô. Megan có thể thổ lộ với linh mục nhiều điều mà cô không dám, hoặc không thể, nói với ai khác. Chính cha Berrendo là người mà hai vợ chồng nông dân nọ đã mang đứa trẻ sơ sinh Megan đến – Sao họ không muốn giữ con vậy?

Họ muốn lẳm, Megan, nhưng họ già và ốm đau luôn. Ông linh mục già nói nhỏ nhẹ.

Thưa cha, tại sao bố mẹ thật của con lại bỏ con ở nhà nông dân đó?

Cha chắc chắn là vì họ nghèo, không đủ sức nuôi con.

Lớn lên, Megan bỗng trở nên sùng đạo. Cô bị khuấy động bởi phần trí tuệ của Thiên Chúa giáo. Cô đọc Xưng tội của Thánh Augustine, những tác phẩm của Thánh Francis, Thomas More, Thomas Merton.,. và vô số cuốn sách khác.

Megan tới nhà thờ đều đặn, và cô thích những nghi thức lễ Met, . lễ Ban Thánh thể, lễ trước bứa ăn. Có lẽ cô, yêu hơn cả là cảm giác thanh bình huyền diệu luôn bao toả quanh mình mỗi khi cô trong nhà thờ.

Con muốn làm một người công giáo. – Một ngày nọ Megan nói với cha Berrendo. Ông nắm tay cô trong tay mình, nheo nheo mắt:

Có lẽ con đã là người công giáo, Megan. Nhưng chúng ta sẽ làm lễ tiếp nhận con. Con có tin vào Chúa. Đấng tối cao, Người tạo ra trời và đất không?

Có, con tin.

Con có tin vào Giêsu Kitô, con trai duy nhất của Người, đã được sinh ra và chịu đựng không?

Có, con tin.

Con có tin vào linh hồn thiêng liêng, vào giáo hộI Thiên Chúa thiêng liêng, xã hội của các vị Thánh, tha thứ cho tội lỗi không?

Có, con rất tin.

Exiabea, spriritus immunde. Hãy thoát khỏi người này. Những tinh thần nhơ bẩn hãy nhường chỗ cho ý Chúa. – Ông lại thổi vào mặt cô.

Megan, hãy nhận lấy Chúa lòng lành qua hơi thở này và hãy nhận lấy sự phù hộ của Chúa bằng an ở bên mình.

Mười lăm tuổi, Megan trở thành cô gái trẻ đẹp. Mớ tóc vàng mượt mà và nước da trắng khiến cô nổi bật trong đám bạn gái của mình.

Một hôm, cô được gọ lên phòng Merceđes Anges. Cha Berrendo cũng ở đó.

Chào cha!

Chào con, Megan!

Đáng tiếc, ta có một việc phải nói với con, Megan. – Merceder Angeles lên tiếng.

Sao ạ? Cô lục lại trong óc, cố nhớ sai sót mới nhất của mình.

Lứa tuổi giới hạn ở đây là mười lăm, và đã tới sinh nhật lần thứ mười lăm của con. – Bà hiệu trưởng tiếp tục.

Tất nhiên Megan đã biết luật lệ đó, nhưng cô gạt nó ra khỏi đầu, bởi không muốn đối mặt với thực tế rằng mình chẳng có một nơi nào trên thế giới này để đến rằng chẳng có ai cần cô, rằng cô sắp bị bỏ rơi một lần nữa.

Con phải … con phải rời khỏi đây ạ?

Mercedes Anges thấy khó xử nhưng cũng không có cách nào khác.

– Ta nghĩ … phải tuân theo luật lệ thôi. Chúng ta có thể tìm một chỗ cho con làm cô hầu.

Megan chẳng biết nói sao.

Thế con muốn đi đâu? – Cha Berrendo lên tiếng.

Suy nghĩ về điều đó, một ý nghĩ chợt đến với Megan. Đã có một nơi dành cho cô.

Kể từ khi mười hai tuổi, Megan phải góp phần cho trại trẻ bằng việc mang hàng đến các nơi trong thị trấn, nhiều lần mang cả tới tu vlện Cistercian:

Hàng luôn được chuyển đến Mẹ Bentina. Cô đã lén nhìn những hình ảnh các nữ tu khi họ cầu kinh hay đi đi lại lại và cô nhận thấy trong họ một cảm giác thanh bình, hầu như thoát tục. Cô ghen tỵ với niềm hân hoan dường như được toả ra từ họ.

Với Megan, tu viện này gíông như một ngôi nhà của tình thương.

Mẹ Nhất mến cô gái trẻ trung tóc vàng này ngay, và suốt mấy năm, giữa hai người có những cuộc trao đổi dài:

Sao người ta lại vào tu viện? – Một lần Megan hỏi.

Người ta đến tu viện vì nhiều lý do, hầu hết là để dâng mình cho Chúa.

Cũng một số đến trong tuyệt vọng, chúng ta cho họ hy vọng. Số khác đến vì thấy không còn lý do gì để sống, chúng ta chỉ cho họ rằng: còn Chúa! Lại có những người đến đây bởi lẽ họ đang trốn chạy. Còn những người khác thì bị đời ruồng bỏ nên họ muốn được thuộc về Chúa.

Điều đó vang lên câu trả lời trong cô gái trẻ. Mình chưa bao giờ thực sự thuộc về ai, Megan nghĩ.

Đây là một cơ hội.

Con nghĩ con sẽ vào tu Viện.

Sáu tuần sau, Cô thực hiện lời thề nguyện.

Và cuối cùng, Megan đã được sở nguyện. Đây là Mẹ, là các chị và em cô, một gia đình cô chưa hề có. Và tất cả họ chỉ là một, dưới Đức Cha của họ.

Megan làm kế toán trong tu viện. Cô hết sức thích thú thứ ngôn ngữ bằng cử chỉ mà các bà sơ sử dụng khi cần giao tiếp với Mẹ Nhất. Có bốn trăm bảy mươi hai cử chỉ, đủ để diễn đạt với nhau mọi thứ họ cần bày tỏ. Khi đến lượt một sơ nào đó phải lau rửa các căn phòng, Mẹ Nhất Bentina đưa bàn tay phải ra phía trước và đập vào mu bàn tay kia. Nếu một tu sĩ bị sốt, người đó tới Mẹ và đập đầu ngón tay trỏ và ngón giũa bàn tay phải vào phía bên ngoài cổ tay trái.

Nếu một yêu cầu nào đó bị trì hoãn Mẹ Nhất Bentina sẽ đưa cùi tay phải lên trước tay trái của bà và nhẹ nhàng hạ xuống:

Ngày mai.

Một sáng tháng Mười một, Megan được giới thiệu những lễ nghi của đám tang. Một nữ tu đang hấp hối và tiếng chuông gỗ vang lên trong điện thờ báo hiệu bắt đầu của một lễ nghi vẫn được giữ gìn nguyên vẹn từ năm 1030. Tất cả những ai có thể đáp lại tiếng gọi này đều vội đến quỳ trong phòng bệnh xá để xức dầu thơm và cầu nguyện.

Họ thầm cầu kinh để các vị thánh giúp cho phần hồn của nữ tu sĩ được siêu thoát, để biểu thị đã đến lúc ban những lễ phước cuối cùng:

Mẹ Trưởng tu viện chìa bàn tay trái, lòng bàn tay ngửa ra và dùng đầu ngón cái của bàn tay phải vạch lên đó một dấu thập.

Khi đọc xong bài kinh cuối cùng, cái xác vẫn được đặt nguyên chỗ đó một giờ nừa cho linh hồn có thể lìa xa. Tại chân giường, một cây nến Phục sinh lớn, biểu tượng Thiên Chúa của nguồn sáng vĩnh cửu được thắp lên trong chiếc đế gỗ. Người y tá của tu viện lau rửa sạch xác nữ tu rồi mặc vào cho chiếc áo choàng đen quen thuộc, trùm cho chiếc mũ trắng, đi cho đôi tất xù dài và đôi đép bện lấy. Một trong số các nữ tu mang vào vòng hoa tươi, hái ngoài vườn.

Khi liệm xong, một đoàn sáu nữ tu mang thi thể người quá cố tới nhà thờ, đặt lên chiếc bục phủ vải trắng trước bệ thờ. Không được để cái xác đó đơn côi mà hai tu sĩ phải ngồi đọc lễ cầu kính bên ghế của mình, còn phía bên kia xác chết, cây nến Phục sinh vẫn cháy lập loè.

Chiều hôm sau, xong lễ cầu hồn, người chết được đưa qua điện thờ ra nghĩa địa riêng, tường bao quanh, nơi các tu sĩ ngay cả lúc đã qua đờI vẫn giữ được sự cách biệt. Các sơ, ba người một bên dùng những băng vải trắng, thận trọng hạ huyệt. Theo tập quán của dòng tu Cistercian, người chết không được che đậy gì trong lòng đất, nên chôn cất không có quan tài. Hai tu sĩ bắt đầu nhẹ nhàng thả đất lên cái xác đã cứng đờ. Đó là công việc cuối cùng họ với người nữ tu quá cố, trước khi tất cả trở về nhà thờ đọc những bài kinh hối lỗi.

Họ ba lần cầu xin Chúa rủ lòng thương linh hồn người đã qua đời.

Domine miserere superpeccatrice.

Domine miserere superpeccatrice.

Domine miserere superpeccatrice.

Đôi lúc, cô gái trẻ Megan chìm trong u sầu. Tu viện đã cho cô sự thanh bình song dẫu vậy cô vẫn không thấy mình hoàn toàn thanh thản. Cứ như một phần đời cô còn lạc ở nơi nào đó. Những khao khát mà đúng ra cô đã phải quên từ lâu lại trỗi dậy. Cô thấy mình nghĩ về đám bạn mà cô bỏ lại ở trại trẻ mồ côi và tự hỏi điều gì đã đến với họ. Cô luôn tự h ỏi cái gì đang xảy ra ở thế giới bên ngoài, cái thế giớI mà cô đã từ bỏ, nơi có tiếng nhạc, có những điệu nhảy, và tiếng cười.

Megan tới tìm Mẹ Betina.

Thỉnh thoảng điều dó lại xảy đến, với tất cả mọi chúng ta. – Bà trấn an Megan. – Nhà thờ gọi nó là aceđia – tội lỗi. Đ ó là tình trạng phiền muộn về tinh thần, vũ khí của quỷ sa tăng. Đ ừng lo nghĩ về nó, con ạ. Nó sẽ qua thôi.

Và nó đã qua.

Nhưng có một thứ không sao qua đi, đó là nỗi khao khát cháy bỏng muốn được biết cha mẹ mình là ai.

Mình sẽ chẳng bao giờ biết, Megan tuyệt vọng nghĩ. Hết đời cũng chẳng biết.