Charlie Bone 3: Charlie Bone Và Cậu Bé Vô Hình

Chương 10

NHỮNG CON MÈO LỬA VÀ MỘT CHUYẾN DU HÀNH

Ở đằng sau nhà bếp xanh da trời, có một tủ âm tường để chổi. Những thứ chứa bên trong tủ âm tường này, giẻ lau, đồ hốt rác, cây lau nhà và chổi, che giấu cho một cánh cửa thấp, có nắm cửa giống như một cái mắc áo nhỏ bằng gỗ. Một cái chổi lau nhà treo thường trực ở đó để ngụy trang. Nhưng nếu vặn tay nắm thì cánh cửa sẽ mở vô một hành lang sáng lờ mờ.

Ngày trước, khi bà bếp trưởng tới Học viện Bloor, bà được phân một căn phòng lạnh lẽo ở chái phía đông, những bà không hề có ý định ở đó. Gia đình Bloor không hế biết đến tông tích thật sự của bà, họ không bao giờ tưởng tượng được rằng bà bếp trưởng biết rành rẽ về tòa nhà cổ này hơn cả chính họ nữa. Chẳng bao lâu sau, bà chuyển vô căn phòng bí mật dưới lòng đất mà họ không hề biết tới.

Làm sao gia đình Bloor có thể đoán được rằng bà bếp trưởng tới đây với một mục đích duy nhất là giúp đỡ những đứa trẻ, con cháu của Vua Đỏ? Bản thân cũng có phép thuật (một điều nữa mà gia đình Bloor chẳng mảy may biết), bà bếp trưởng luôn có một niềm thôi thúc mãnh liệt là phải bảo vệ những đứa trẻ có thể gặp rắc rối vì tài phép của chúng. Và bà suy đoán chắc chắn rằng trong tất cả những đứa trẻ có phép thuật học ở Học viện Bloor, thì Charlie Bone, với tính nhiệt thành và vụng về khi cố gắng giúp người khác, là đứa cần bà để mắt tới nhất.

Charlie có khuynh hướng cứ đâm đầu vô mọi việc mà không cân nhắc gì cả, và bây giờ nó vừa làm một điều ngu ngốc nhất. Với sự trợ giúp của bà bếp trưởng, nó cần phải sửa chữa lại sai lầm đó.

May Phúc dẫn đường cho Charlie tới nhà bếp, nhưng chỉ thế thôi nó không chịu đi xa hơn nữa. Nó nằm ì ra trước cửa, gác đầu lên hai bàn chân trước, rõ ràng con chó này có thói quen canh gác lãnh địa của bà bếp trưởng vào ban đêm.

Charlie mò mẫm qua những tủ âm tường để chổi. Trước kia nó đã từng vô căn phòng dưới đất của bà bếp trưởng hai lần rồi, nhưng theo như nó biết, thì chỉ có thêm Gabriel là một người nữa trong trường biết về căn phòng này và anh ấy đã thề giữ bí mật.

Charlie khó nhọc lách qua những chai dầu đánh bóng, những thùng can, chổi và những đống giẻ lau. Nó vặn nắm đắm trên cánh cửa nhỏ. Cửa rít lên, mở ra. Charlie bước vô hành lang đằng sau cánh cửa và chạy về phía một dãy cầu thang. Nó đi vô một tủ âm tường khác và gõ vô một ô ván ở lưng cánh cửa.

“Phải con đó không, Charlie Bone?” Giọng của bà bếp trưởng.

“Dạ,” Charlie đáp khẽ.

“Thế thì vô đi.”

Charlie bước vô một căn phòng trần thấp, với những ghế bành thoải mái, sờn cũ và đồ đạc bằng gỗ bóng sáng. Vào mùa đông, những lò sưởi của bà bếp trưởng rực than hồng nhưng hôm nay lửa tắt và căn phòng có bầu không khí tù túng của mùa hè.

Một trong những chiếc ghế bành quay mặt vô lò sưởi nguội lạnh và, trong ánh sáng đèn dầu, Charlie trông thấy một chiếc giày đen và cái vạt áo thụng đen. Có người nào đó nữa ở trong phòng.

Bà bếp trưởng đặt một ngón tay lên môi:

“Suỵt!”

Charlie rón rén đi vòng qua chiếc ghế và giật mình, hết hồn hết vía. Kìa, đang ngủ say sưa, là Skarpo, thầy phù thủy.

“Ông ấy tới đây bằng cách nào vậy?” Charlie thì thào.

“Ta cũng định hỏi con câu đó đó. Con đã làm gì vậy, Charlie Bone.”

“Đó không phải là lỗi của con, thiệt đấy. Con không nghĩ là việc này lại xảy ra được. Bà biết đấy…”

Charlie cảm thấy hơi ngượng ngùng, khai tiếp:

“Con đi vô bức tranh vẽ ông ấy. Và chắc ông ấy đã ra theo cùng con. Nhưng lúc đó con không trông thấy ông ấy”.

“Chậc, chậc!” Bà bếp trưởng lắc đầu. “Người đàn ông đáng thương này trong tình trạng hoảng loạn kinh khủng lúc ta tìm thấy ông ta. Đang nằm bẹp trong tủ âm tường để chổi của ta, khóc lóc và nài nỉ ta đưa về nhà. Ông ấy không thể chịu nổi ở đây. Ồn ào và đèn điện nhoang nhoáng, quá nhiều người. Ông ấy hoảng sợ.”

“Chính ông ấy đã gây ra những việc khủng khiếp mà,” Charlie nói, quên cả thì thầm.

Mắt Skarpo thình lình mở bừng ra.

“Mi!” Ông ta thét lên, nhìn trân trân vô Charlie Bone.

“Phải, là cháu,” Charlie bảo.

Thầy phù thủy xổ ra một tràng những từ gì đó mà Charlie không thể hiểu nổi.

“Ông ấy nói gì vậy ạ?” Nó hỏi bà bếp trưởng.

Bà bếp trưởng mỉm cười nghiêm nghị.

“Ông ấy nói bằng biệt ngữ cổ xưa, nhưng hên là ta có xuất xứ cùng một nơi trên thế giới với ông ấy. Vì vậy ta có thể hiểu. Người đàn ông tội nghiệp này năn nỉ con đưa ông ấy về nhà.”

“Làm sao con làm được điều đó?” Charlie kêu lên. “Bức vẽ đang ở nhà, đến thứ Sáu con mới ra khỏi đây được.”

Skarpo nhìn chằm chằm vô môi Charlie, quay qua bà bếp trưởng nhíu mày. Rồi bằng giọng lạ lùng như hát, bà bếp trưởng giải thích vấn đề của Charlie.

Skarpo rên rỉ.

“Vì vụ này mà cháu đã bị rầy rà rồi,” Charlie nói.

“Giáo sư Bloor cho rằng đó là lỗi của cháu - tất cả vụ chuông đổ, và ếch, và gà, và các thứ. Cháu sẽ bị làm thịt ngay nếu những thứ đó không ngừng lại. Vậỵ tốt hơn, ông hãy ngừng yểm bùa lên các vật, không thì cháu sẽ không sống được để mà giúp ông đâu.”

Skarpo nhăn nhó và lúng búng cái gì đó.

“Ta nghĩ là ông ấy hiểu,” bà bếp trưởng nói.

Rồi bà buông một tiếng thở dài.

“Ta nghĩ phải giữ ông ấy ở lại đây cho tới thứ Sáu. Mặc dù ta thật lòng nói với con rằng, ta chẳng thích thú gì việc phải chia phòng mình với một thầy phù thủy. Tưởng tượng coi! Cha của ông ấy đã giong buồm từ Ý tới cùng với Rizzo, tức Mary, bạn chí cốt của Nữ hoàng xứ Scots.”

“Chứ không phải ông ấy bị giết à?” Charlie nói.

“Kinh khủng lắm,” bà bếp trưởng hạ giọng xuống.

“Tốt hơn con nên quay về giường đi, Charlie, không thì con sẽ không bao giờ thức dậy nổi vào sáng mai đâu.”

Charlie định đi thì có một vấn đề bỗng bật ra trong đầu nó.

“Ông ấy sẽ rời khỏi đây bằng cách nào để không bị thấy?”

“Bằng đúng cách mà ông ấy đã vô đây,” bà bếp trưởng nói bí hiểm. “Chúc ngủ ngon, Charlie.”

Charlie không tin Skarpo. Sáng hôm sau, nó chờ đợi điều kinh khủng gì đó diễn ra. Nhưng không có voi hay mưa ếch nữa. Bầu trời trong và xanh, xúc xích vẫn là xúc xích, và không có gì xảy ra với ổ bánh mì thịt buổi tối.

“Quá tệ,” Fidelio, kẻ ăn chay, than thở.

Suốt bữa ăn tối, Charlie có thể cảm nhận đôi mắt lạnh băng của Giáo sư Bloor bám theo nó, và nó có cảm tưởng là hình như ông hiệu trưởng thất vọng. Ông ta hẳn đã thích thú suy nghĩ về một hình phạt khủng khiếp nào đó dành cho Charlie.

Trong phòng Nhà Vua sau bữa tối, bầu không khí nặng chịch, tựa như có thể cắt được bằng dao, theo như cách diễn tả của nội Bone. Charlie nghe Zelda thì thầm về “Ngày Thứ Hai Đen Tối Của Bone”, và Asa bật cười hô hố bằng một trong những tràng cười ghê hồn nhất của nó.

Đó là một tiếng đồng hồ thật khó chịu, với những tiếng trống vẫn còn đập thình thịch của Lysander làm nền, và cơn gió rít giận dữ của Tancred thổi giấy bay khỏi bàn. Như để đặt Tancred vô đúng vị trí của mình, Zelda bắt đầu di chuyển sách vở, và bút ra khỏi tầm với của những chủ nhân. Tệ hơn cả là ánh nhìn thôi miên của Manfred dường như cứ chĩa liên tục vô Charlie.

Belle cũng đang nhìn Charlie. Nhưng gương mặt nó toát lên vẻ sưng sỉa và hằn học. Nó đang âm mưu gì thế nhỉ? Charlie tự hỏi.

Charlie không hé răng với ai về chuyến viếng thăm bà bếp trưởng lúc đêm khuya của mình, nhưng khi nó đang cùng Gabriel và Fidelio trên đường về phòng ngủ chung, Fidelio nói:

“Này, Charlie, chuyện gì xảy ra vậy? Em kiếm được ông bạn cũ rồi hả?”

“Ờ,” Charlie đáp.

Nó ngoái lại phía sau. Không có trong tầm nghe được, vì vậy nó miêu tả cuộc gặp với thầy phù thủy. Đám bạn nó đứng bất động giữa hành lang, dỏng tai lên chăm chú nghe.

“Vì thế mà dơi không biến thành vàng nữa,” Gabriel lầm bầm.

Ba giám thị sải bước về phía bọn chúng, la om tỏi:

“Tại sao ba đứa bây còn lớ xớ ở đây? Đi ngủ. Ngay!” Bà ta vỗ vỗ tay coi thật hung hãn.

Charlie thở phào nhẹ nhõm, những ngày còn lại trong tuần trôi qua mà không gặp phải những biến cố yêu thuật hay khốn đốn nào nữa. Mọi người thôi không nhìn nó một cách kì cục, cũng không xì xầm sau lưng nó nữa, và cho đến chiều thứ Sáu thì hầu hết cả trường đều bận rộn với vở kịch cuối học kì, họ đã quên hẳn “Ngày Thứ Hai Đen Tối Của Bone” rồi.

Charlie vẫn thường ao ước nó có thể tham gia vở kịch. Tất cả đám bạn đều có tham dự, nếu chúng không diễn xuất, thì cũng trang trí phông nền, may trang phục hay chơi nhạc. Ngay cả Billy Raven cũng được lôi kéo vô vai một tay trống tinh nghịch. Nhưng Charlie thì bị coi là vô dụng khi liên quan đến vui chơi, giải trí.

Thế nhưng hôm nay, Charlie vui mừng vì được ra khỏi trường trong khi nhiều đứa khác phải ở lại để diễn tập.Tuy vậy, khi chiếc xe buýt trường về đến đường Filbert, bụng nó bỗng quặn lên, bồn chồn. Nếu Skarpo đã lẻn vô nhà mà nội Bone không trông thấy, thì ông ta đang ở đâu? Và ông ta đang làm gì?

Charlie xuống xe buýt và bước đi thật chậm dọc theo đường Filbert. Nó đang nghĩ đến cuộc mặc cả mà nó muốn thực hiện với Skarpo. Nó sẽ chỉ đồng ý vô bức tranh khi nào ông ta có thể khuyên nó cách nào để Ollie Sparks hiện hình trở lại. Chắc chắn thầy phù thủy nào cũng phải biết cách làm điều đó.

Charlie leo lên những bậc cấp nhà số 9, vừa tính đi vô thì cửa đột ngột bật mở ra, và đứng sựng trước mặt nó là Skarpo.

“AAAA!” Charlie hét lên.

Thầy phù thủy cười, nhe hàm răng đen, và Charlie vội nhìn quanh xem có ai đang nhìn không. Nhưng chẳng có ai trên đường chú ý tới nó. Họ vốn đã quen với những cảnh tượng lạ lùng xảy ra ở nhà số 9 rồi.

Thầy phù thủy nói cái gì đó, nghe như là “Vút!” và lôi Charlie qua ngưỡng cửa.

“Ông có thấy ai không?” Charlie thì thào. “Một phụ nữ? Một phụ nữ già ấy?”

“Không có phụ nữ nào,” Skarpo đáp.

Ông ta chụp cánh tay Charlie và lôi nó vô nhà bếp, nơi bức tranh đang dựng tựa vô một tô trái cây trên bàn. Skarpo hất đầu về phía bức tranh và nói:

“Ngay!”

“Không phải ở đây,” Charlie nói. “Có người đi vô thì sao. Lên lầu.” Nó chỉ lên trần nhà.

Skarpo chụp lấy bức tranh và đẩy Charlie đi qua cửa. Ông ta vừa đi vừa nói liến thoắng, nhưng Charlie chẳng nhận ra được một từ nào. Vừa lầm rầm trong miệng, thầy phù thủy vừa đẩy Charlie lên lầu và đi dọc theo chiếu nghỉ tới phòng riêng của nó. Khi đã vô trong, Skarpo ngồi lên giường, để bức tranh trên đùi, quay mặt nhìn Charlie.

Thật kỳ quặc khi thấy thầy phù thủy ngồi đó, bộ râu quai nón đen bạc nhảy nhót lên xuống trong lúc nói, trong khi Skarpo của bức vẽ đứng bất động hoàn toàn trong căn phòng đầy ánh nến.

“Ngay bây giờ!” Skarpo gầm vang. “Đi mau!”

“Thật ra thì, sẽ không thực hiện theo cách đó được,” Charlie nói. “Ông phải làm một điều cho cháu trước đã.”

“Ậy!” Skarpo quẳng bức tranh xuống.

“Ông không nên phá hủy nó, nếu không thì ông sẽ không bao giờ trở về được đâu.”

Thầy phù thủy quắc mắt nhìn Charlie.

Lựa lời thật cẩn thận, Charlie giải thích về tình trạng trớ trêu của Ollie.

Skarpo nhăn mặt.

“Cái mà con rắn đữ làm, con rắn phải làm hoàn lại.”

Lần này thì thật không thể hiểu sai lời Skarpo, nhưng để chắc chắn, Charlie hỏi.

“Con rắn nào? Con rắn phải làm cái gì?”

“Ậy ậy. Con rắn,” Skarpo nói. Rồi ông ta năn nỉ Charlie:

“Mày phởi man ta da khửi đây.”

“Từ từ,” Charlie nói. “Còn một việc khác…”

“Không thêm nữ,” thầy phù thủy Skarpo quát.

Charlie đứng tấn chân xuống đất.

“Thêm chứ. Ông nói ông có thế giúp Ông cậu cháu nếu ông gặp ông ấy. Ừm, Ông cậu cháu đang ở phòng kế bên.”

“Ầy!”

Skarpo gầm gừ, nhưng không la lối thêm nữa, ông ta chỉ nhưngảy dựng lên và bước ra khỏi phòng.

“Chờ chút!”

Charlie hét lên, sợ Skarpo sẽ đụng phải nội Bone. Nhưng thầy phù thủy đã đi phăm phăm và lọt qua cửa phòng Ông cậu Paton rồi. Sang đến nơi, Charlie thấy ông ta đang đùng đùng xem xét những đồ vật trên chiếc bàn bên cạnh giường, trong khi từ trên giường, Ông cậu Paton há hốc miệng nhìn thầy phù thủy.

Không hề mấy máy môi, Ông cậu Paton hỏi:

“Charlie, phải đây là người ta nghĩ không?”

“È… phải,” Charlie nói. “Ông ấy có thể sẽ giúp Ông cậu.”

“Hắn định sẽ làm điều đó bằng cách nào?” Ông cậu Paton run run hỏi.

Thình lình, Skarpo thò tay vô chiếc áo chùng lụng thụng của mình và lôi ra một sợi dây xích. Ông ta mỉm cười với Ông cậu Paton và quay sợi xích trong không khí.

“Trời ơi! Ngươi không tính trói ta vô giường đấy chứ!” Ông cậu Paton la hoảng.

Nụ cười của Skarpo rộng ngoác ra thêm. Ông ta nhét sợi xích trở vô túi và lôi ra một chiếc chuông nhỏ bằng bạc, rồi rung chuông ở ngay phía trên đôi bàn chân của Ông cậu Paton. Nó kêu leng keng vui tai khi thầy phù thủy bắt đầu hát ngân nga.

“Gì thế? Thần chết gióng chuông gọi ta hả?” Ông cậu Paton rền rĩ.

“Con không nghĩ vậy đâu, Ông cậu,” Charlie trấn an. “Ông cậu à, thật tức cười, khi đi vô bức tranh thì con hiểu gần hết ông ấy nói gì, nhưng bây giờ con gần như chẳng hiểu lấy một chữ ông ấy nói.”

“Cả ta cũng chẳng hiểu. Ta đoán là khi mày ‘đi vô’, theo như mày nói, mày sẽ hòa nhập với nơi mày tới. Lúc đó, khi mày nghĩ tới việc gì, thì việc đó cứ thế mà xảy ra thôi.”

“À, con hiểu rồi,” Charlie tư lự.

Skarpo bây giờ đang bước quanh phòng, rung chuông và ề à một bài hát trầm. Đột nhiên ông ta tới tì xuống bên cạnh Ông cậu Paton và ra lệnh :

“Le lữi ra!”

Ông cậu Paton cau có ngước nhìn thầy phù thủy và bắt buộc phải làm theo.

Thầy phù thủy lùi lại, giật giọng:

“Hum rồi ngưi ử đao?”

“Nếu tôi hiểu đúng ý ông muốn nói, thì hôm rồi tôi ở Lâu đài Yewbeam,” Ông cậu Paton nói.

“Quỷ thần ôi!” Thầy phù thủy kêu lên. Một gia đình trôi dạt – lừa đảo, côn đồ, giết người. Tai ưng cho ngươi!”

“Đúng là tai ương thật,” Ông cậu Paton lầm bầm.

“Cỏ roi ngựa!” Thầy phù thủy nói. “Thảo mộc linh thiêng. Tắm, gội đầu, uống, hít nó vô.”

Đúng lúc đó, nắm cửa xoay và trước khi Charlie kịp ngăn lại, thì Skarpo đã xông vút ra mở cửa. Cánh cửa bung ra, để lộ nội Bone. Trong tích tắc, bà ta nhìn trân trối vô thầy phù thủy, rồi không thốt được một lời, bà nhắm mắt lại và từ từ đổ ụp xuống sàn.

“Ngứt!” Skarpo tuyên bố.

“Chuyện gì vậy?” Ông cậu Paton hỏi, ông không thể nhìn xa hơn bên ngoài cánh cửa.

“Nội Bone,” Charlie nói. “Bà ấy xỉu rồi. Nhìn thấy Skarpo bằng xương bằng thịt chắc là phải sốc thôi!”

“Đặt bà ấy lên giường bà ấy,” Ông cậu Paton bảo. “Bà ấy sẽ chỉ nghĩ là mình vừa gặp ác mộng.”

Skarpo đang đứng trước họ một bước. Ông ta lẳng nội Bone lên vai, và rồi, với Charlie dẫn đường, ông khiêng người phụ nữ bất tỉnh vô phòng bà, tại đây ông thảy bà xuống giường.

“Cẩn thận,” Charlie la lên. “Xương người già, ông biết đấy.”

Skarpo bật cười hích hích thật lớn rồi ra lệnh:

“Giờ, đua ta vè nhà!”

“Được,” Charlie nói.

Nhưng khi họ trở lại phòng của Charlie, Charlie bỗng nghi ngờ.

“Ông sẽ để cháu ra trở lại chứ?” Nó hỏi thầy phù thủy.

“Cháu không muốn bị kẹt lại với ông mãi đâu.”

“Khong đau,” thầy phù thủy nói. “Ta sẽ cho ngưi ba cú đảy.”

“Được,” Charlie nói, lòng hồ nghi.

Nó đặt bức tranh tưạ vô cây đèn bên cạnh giường và nhìn vô đôi mắt vẽ của thầy phù thủy. Không có gì xảy ra. Thế thì, làm sao được? Charlie nhận ra là, Skarpo thật đang ở đây, bên cạnh nó, đang túm lấy cánh tay nó. Đằng sau những con mắt vẽ kia không có linh hồn, không có ý chí để lôi nó vô bức tranh.

“Cháu nghĩ chắc ông phải muốn cháu đi vô mới được,” Charlie nói.

“Ừm.”

Hai bàn tay xương xẩu bấu chìm vô hai bả vai Charlie. Skarpo bước một bước lại gần bức tranh, và rồi thêm một bước nữa.

“Đảy đi, đò ngu, đò quáy vặt,” cái giọng đằng sau tai Charlie thúc giục.

“Ông làm ơn, cháu đang cố…”

Charlie đột nhiên thấy mình bay bổng về phía trước. Đó là một cảm giác quái dị nhất, vì đôi bàn tay ở sau lưng hình như đang thọc hẳn vô cơ thể nó, để chúng có thể vừa kéo vừa đẩy. Charlie lao vùn vụt, lẹ đến nỗi nó không kịp thở. Nó bắt đầu nghẹt thở trong đám mây bụi đang trôi ào ạt vô mặt. Nó nhắm mắt lại và hắt hơi dữ dội.

Hỗn hợp quen thuộc của sáp đèn cầy và đồ thối rữa xộc đầy lỗ mũi Charlie. Nó dụi mắt và thấy, xa xa phía trước, ánh đèn cầy lập lòe. Giờ thì đã gần hơn, và rồi tới căn phòng của thầy phù thủy, chiếc bàn dài, những biểu tượng trên tường, cái đầu lâu dưới sàn. Và ở giữa phòng chính là Skarpo, với ánh nhìn vô hồn trong đôi mắt vàng tối.

Chắc mẩm là mình sẽ rớt vô phòng của thầy phù thủy, Charlie ngạc nhiên thấy mình bỗng dưng đang giật lùi lại. Nó vươn tay ra, cố túm lấy người đàn ông ở trong bức tranh, nhưng hai tay nó chỉ chụp được không khí. Nó đạp hai chân về phía trước, cố gắng chạm cho được mặt đất, rồi với một cứ giật choáng váng, nó bị lật úp và rớt xuống.

Nó đáp xuống một cái “bịch”, đau điếng, vập mặt xuống sàn phòng. Đứng kế bên là thầy phù thủy đang nằm mẹp, với áo thụng trùm ngược lên kín tới đầu. Từ bên dưới áo thụng thoát ra một tiếng rên rỉ bị nghẹt lại.

“Chuyện gì vậy?” Charlie thở dốc.

Thầy phù thủy tốc áo thụng ra khỏi mặt và ngồi lên. Ông ta lắc đầu một hồi và nói:

“Chụt!”

“Cái gì?” Hơi lảo đảo, Charlie đứng lên. “Ý ông muốn nói gì? Chúng ta sắp tới nơi rồi mà. Có chuyện gì vậy?”

“Khung có chụt,” Skarpo nói, giận dữ chỉ vô Charlie. “ Ngưi đã ăn cắp chụt.”

“Chụt?” Charlie ngơ ngẩn nhìn thầy phù thủy mất một lúc, cố hiểu lời ông ta, và rồi cuối cùng, nó chợt hiểu ra.

“À, con chuột. Dĩ nhiên rồi, ông không thể trở về nếu không có con chuột. Cháu nghĩ mọi thứ phải đúng y như cũ, hệt như lúc ông đi ra.”

“Ừ ừ,” Skarpo rền rẫm.

“Lần cuối cùng cháu trông thấy nó là nó ở trong phòng của Ông cậu cháu. Từ đó tới nay cũng lâu rồi.”

Skarpo bật đứng lên, lo lắng, không chịu rời mắt khỏi Charlie. Họ lao sang phòng của Ông cậu Paton. Cả hai cùng đồng thanh nói về con chuột bị mất và chuyến đi bất thành.

“Yên lặng coi,” Ông cậu Paton than van. “Đầu ta đang nứt đôi ra đây này, tại sao cái gã đàn ông này vẫn còn ở đây?”

“Cần phải kiếm con chuột, không thì ông ấy sẽ không thể nào về lại được.” Charlie giải thích.

“Lố bịch,” Ông cậu Paton nói. “Con chuột ấy biệt dạng lâu rồi. Các người sẽ không tìm thấy nó ở đây đâu. Nó ở đâu đó dưới ván sàn ấy. Chắc chắn ở đó có đủ vụn bánh cho nó ăn nhiều tháng liền.”

Skarpo rớt phịch xuống một chiếc ghế, hai tay ôm vùi lấy đầu, và thân mình bắt đầu lắc tới lắc lui, rền lên như còi hụ.

“Ối trời ơi,” Ông cậu Paton giơ hai tay bịt chặt lấy tai. “Charlie, kiếm cho ta cái điện thoại.”

Ông cậu Paton đã tự sắm cho mình một chiếc điện thoại di động, để đặt hàng qua bưu điện. Ông thường sử dụng để đặt mua sách là chính, mặc dù thỉnh thoảng có những bộ đồ không đúng ni được gởi tới, chỉ để rồi nhanh chóng bị gởi trả lại.

Cuối cùng Charlie cũng tìm thấy điện thoại của Ông cậu, bị chôn vùi dưới một đống giấy trên bàn.

“Ông cậu tính làm gì vậy?” Nó hỏi, đưa điện thoại cho Ông cậu.

“Ta tính quay số gọi cho ông Onimous,” Ông cậu Paton vừa nói vừa quay số, “những con mèo sẽ kiếm ra.”

“Những con mèo? Chúng sẽ giết nó mất.” Charlie la lên.

Ông cậu không đếm xỉa tới lời nó.

“Alô, ông Onimous đấy à,” ông nói, “Paton Yewbeam đây. Chúng tôi gặp chút rắc rối, Charlie và tôi và è… một người nữa. Tôi rất biết ơn nếu ông vui lòng mang những con mèo lửa nổi tiếng tới chỗ chúng tôi. Nếu chúng có sẵn ở đó, dĩ nhiên.”

Ông dừng lại trong khi một giọng nói nhẹ nhàng, trầm bổng rò rỉ ra khỏi điện thoại.

“Thế à? Tuyệt vời.” Ông cậu Paton liếc nhìn thầy phù thủy. “Nếu lẹ lẹ được thì quý hóa quá. Cám ơn ông!”

Skarpo đã thôi rền rú và đang ngó Ông cậu Paton với vẻ thích thú.

“Những ngớn tay ngưi sờ vô có ma thuật,” ông ta nói, vẩy vẩy ngón tay về phía chiếc điện thoại.

“Ừ. Ông nói thế cũng được,” Ông cậu Paton đồng ý, tránh ánh mắt Charlie. “Giờ thì…ông… ông Skarpo phải không ạ? Đòi hỏi phải kiên nhẫn một chút. Rất mau thôi, một người bạn tốt của chúng tôi sẽ tới… tới giúp. Đồng thời, tôi bắt buộc phải đề nghị ông giữ im lặng. Như ông đã nhận thấy đấy, tôi chẳng được khỏe khoắn gì, và thêm một tiếng ồn ào nữa sẽ kết liễu tôi ngay. Cám ơn!”

Thầy phù thủy chăm chú lắng nghe những lời của Ông cậu Paton. Rõ ràng là Skarpo bị “khớp” lắm. Thỉnh thoảng ông ta lại ậm ừ trong cổ họng, nhưng ngoài những tiếng ấy ra, căn phòng yên lặng đến nỗi có thể nghe được tiếng tích tắc của chiếc đồng hồ treo tường mà Ông cậu Paton để quên trong tủ ly tách.

Cả ngôi nhà cũng yên ắng, cho tới khi mẹ Charlie đi làm về. Charlie xuống lầu, vô nhà bếp kể cho mẹ nó biết những chuyện đang xảy ra. Nó líu lưỡi nói mau tới nỗi tất cả những lời nó tuôn ra lộn xộn, nhưng cô Bone cũng nhanh chóng nắm được những ý chính mà Charlie đang cố diễn tả. Cô thả chiếc giỏ mua hàng và ngồi xuống.

“Kỳ lạ thật, Charlie. Ý con nói là một thầy phù thủy thời trung cổ… bằng xương bằng thịt… đang ngồi trong phòng của Ông cậu Paton?”

“Con nghĩ ông ta chắc chắn thuộc thời Tudo[1] hơn là thời trung cổ,” Charlie nói. “Cha ông ta có liên quan gì đó tới Mary, Nữ hoàng Scots.”

[1] Tudor: vương triều Tudo (vua nước Anh) từ năm 1485 – 1603.

“Mẹ không thể hiểu nổi. Mẹ không ngờ là tài phép của con sẽ lại dẫn tới điều này. Bà nội của con có biết không?”

“Biết. Nhưng bà nội xỉu khi nhìn thấy ông ấy.”

“Mẹ chẳng ngạc nhiên.”

Chuông reng và Charlie chạy ra mở cửa.

“Chúng tôi tới đây, Charlie, hân hạnh phục vụ cậu,” ông Onimous nhảy tót vô hành lang, theo sau là ba con mèo.

“Xin chào quý bà,” ông nói khi cô Amy Bone ló đầu ra khỏi cửa.

“Xin ông cứ tự nhiên,” cô nói và rút nhanh vô nhà bếp.

Sự hiện diện của lũ mèo luôn khiến Charlie cảm thấy vui sướng vô kể. Giống như là trông thấy mặt trời hiện ra sau một ngày mưa dầm, u ám. Chúng quấn quanh chân nó, cọ đầu vô đầu gối nó, trong khi Charlie giải thích tình hình cho ông Onimous.

“Ông cậu Paton nghĩ những con mèo lửa có thế kiếm được con chuột,” Charlie nói, “nhưng chắc là chúng sẽ giết nó mất?”

“Ồ không. Không hề, nếu chúng biết người ta muốn chúng làm điều gì,” ông Onimous vội bảo. “Lên lầu, những con vật mỹ miều của ta!”

Lũ mèo nhảy phóng lên lầu, con Dương Cưu dẫn đầu, con Sư Tử màu cam theo sau, và con Nhân Mã vàng đi cuối cùng, trông tựa như một quầng sáng đi động.

Rủi thay, nội Bone chọn đúng lúc này để mở cửa phòng bà ra.

“Mèo!” Nội thét ầm.

Con Dương Cưu liền quào vô bà, con Sư Tử rú lên và con Nhân Mã gầm gừ.

Nội Bone bước lùi vô phòng và đóng sập cửa lại.

“Ta sẽ không ra cho tới khi những con vật đó cút khỏi nhà,” bà thét vang.

“Vậy càng tốt cho con,” Charlie lẩm bẩm.

Nó dẫn ông Onimous và lũ mèo vô phòng riêng của Ông cậu Paton. Tại đây ông Onimous cúi xuống giường người bệnh và nói:

“Tôi có nghe nói đến nỗi hoạn nạn của ông, ông Yewbeam. Hãy nghỉ ngơi đi. Chắc chắn chúng tôi sẽ làm tất cả để giúp đỡ.”

“Cám ơn, Orvil,” Ông cậu Paton lào khào. “Nhưng chính người đàn ông kia mới là kẻ cần được giúp nhất,” Ông cậu Paton chỉ Skarpo.

Ông Onimous nhảy lên một cái nhẹ. Ông đã không nhận ra thầy phù thủy, đang ngồi thu lu trên chiếc ghế bành đằng sau bàn làm việc của Ông cậu Paton.

“Ôi! Xin thứ lỗi, thưa ngài. Thật vinh hạnh, Orvil Onimous.”

Ông chìa một bàn tay có móng dài như vuốt ra.

Thầy phù thủy cho phép ông Onimous được bắt tay mình, nhưng dường như ông ta không nhận thấy ông Onimous. Ánh mắt ông ta đang dán tịt vô ba con mèo.

“Những con vật xinh đẹp,” Skarpo lẩm bẩm. “Những sinh vật cổ xưa. Không nghi ngờ, những con báo. Của ngưi hả?”

“Chúng không thuộc về ai cả,” ông Onimous đáp. “Tuy nhiên, chúng đã từng là của nhà Vua. Dĩ nhiên, tôi đang nói về Vua Đỏ.”

“Vua Đỏ. Ừ.” Skarpo gật đầu, mắt ông ta vẫn không rời lũ mèo, nhìn chúng hau háu.

“Ông không thể mang chúng trở lại cùng với ông đâu,” Charlie nói dứt khoát.

Bộ râu quai nón của Skarpo rung rinh.

“Ta không phải ăn trộm, nhóc.”

“Chứ…”

Charlie ráng kìm nén để không nhắc tới cây gậy phép bị đánh cắp. Tình huống này đã đủ rối rắm rồi.

“Thế, bức tranh đâu, Charlie?” Ông Onimous hỏi.

Charlie phóng về phòng nó, mang bức tranh qua. Và ông Onimous, trỏ một ngón tay vô con chuột vẽ rồi nói:

“Thấy chưa, bọn mèo lửa? Cái con chuột đang thò đầu ra khỏi túi này này?”

Lũ mèo nhìn ngón tay của ông Onimous, và rồi hướng ánh mắt quả quyết về phía Skarpo. Ánh mắt sáng quắc của chúng quét từ gương mặt tới một nếp gấp tối phía bên hông chiếc áo thụng của ông ta, nơi mà, bây giờ không có con chuột nào nữa. Óc tinh hiểu của chúng thật đáng kinh ngạc. Giây sau, chúng đã lùng sục khắp căn phòng, dưới gầm giường, và ra khỏi cửa.

Charlie ngó ra hành lang để coi lũ mèo làm gì. Toàn bộ ngôi nhà tràn ngập ánh sáng vàng rực; rồi đầy những tiếng vỗ nhỏ, tiếng cào nhẹ, tiếng meo và tiếng gừ gừ. Những móng vuốt khéo léo vặn nắm cửa, mở những ngăn tủ, nâng thảm, nhấc giấy, kéo rèm, lật tấm trải giường, mở ngăn kéo, xê dịch những thùng, hộp, giày, quần áo. Và rồi bộ ba dừng lại hít hít và lắng nghe.

Charlie nín thở và lắng nghe cùng với chúng. Không lâu sau. Một tiếng thụp đột ngột, một tiếng chít và một tiếng ngao. Sau đó, chúng chạy lên lầu. Nhân Mã đi trước, móng kẹp chặt một con chuột.

Lũ mèo lửa tuôn vô phòng Ông cậu Paton và con Nhân Mã meo lên thật to, đặt con chuột hoảng sợ, nhưng không bị xây sát gì, lên đùi thầy phù thủy.

“Chụt!” Skarpo la lên, chộp lấy con chuột. “Giỏi quá, những con vật dũng cảm.”

Ông ta vuốt đầu con mèo vàng, “Cám ơn, mày.”

Đút con chuột vô túi, Skarpo đứng lên, làm cử chỉ cúi chào Ông cậu Paton và ông Onimous.

“Thưa các quý ông, tạm biiệcc!”

Rồi ông ta dựng bức tranh tựa vô một đống sách trên bàn làm việc của Ông cậu Paton và quay cho mặt Charlie Bone đâu vô đó.

“Ngay!” Ông ta ra lệnh.

“Được.” Charlie Bone nhìn Ông cậu và ông Onimous. “Các ông giúp con quay lại… nếu con bị kẹt nhé?”

“Bọn mèo lửa sẽ bảo vệ an toàn cho cậu,” ông Onimous nói. Và lũ mèo tiến gần sát Charlie Bone khi toàn bộ quy trình khó chịu, bị đẩy với lôi, bắt đầu lại từ đầu.

Nhưng lần này, trong khi Charlie Bone vút đi, nó cảm thấy có một luồng khí ấm áp bao bọc lấy toàn thân nó, và khi nó nhìn đôi mắt vô hồn của thầy phù thủy, nó vẫn để ý thấy có những chùm ánh sáng đỏ và vàng ở bên cạnh mình. Khi con mắt của thầy phù thủy bắt đầu sống động lên, Charlie biết nó đã mang ông ta về nhà thành công. Bây giờ nó phải rút lui trước khi Skarpo bắt đầu giở trò bịp bợm.

Tuy nhiên, lần này xem ra Skarpo không hề có ý định dối gạt Charlie Bone.

“Đi đi, Charlie Bone,” ông ta bảo, vẫy tay. “Và nhớ thảo dược cho cái ông đau mắt.”

Những gì xảy ra tiếp theo chắc chắn không phải là lỗi của Skarpo. Đằng sau chiếc bàn của thầy phù thủy có một cửa sổ, và ánh mắt của Charlie Bone bị hút ra dải bờ biển lóng lánh bên ngoài kia. Nó chưa kịp tự lôi mình thoát khỏi, thì đã thấy mình đang bay qua cửa sổ.

Khi trôi trên mặt nước đầy ánh trăng, Charlie một lần nữa lại cảm nhận sự hiện diện ấm áp của những con vật tinh anh, nó không sợ hãi. Mảng tối của một khu rừng nổi lên ở xa xa, và nó cảm thấy ngạt thở vì cố đoán xem việc gì sẽ xảy ra khí nó tiến lại gần hơn. Giờ, nó đang trôi trên rừng cây tới một nơi mà những chiếc lá trên ngọn cao nhất rực rỡ ánh lửa.

Nó nhìn xuống một trảng trống, nơi có một người đàn ông đứng nhen một đống lửa. Người đàn ông này mặc áo thụng đỏ, da ông tiệp với màu nâu ấm áp của đất. Charlie cảm thấy ông là người buồn bã nhất thế giới.

Những tia lửa từ đống lửa bắt đầu bắn lên bầu trời, và khi người đàn ông ngước nhìn theo chúng thì ông trông thấy Charlie. Những nét buồn rầu rời khỏi gương mặt ông, và đột nhiên ông nhoẻn miệng cười rạng rỡ. Bằng giọng trầm lắng, du dương, ông gọi to ba cái tên, và ba con vật bước ra khỏi bóng tối. Ánh lửa nhảy múa trên bộ lông đốm nhạt của chúng, và chúng giương những đôi mắt vàng nhìn lên Charlie.