Charlie Bone 7: Charlie Bone Và Cái Bóng Xứ Badlock

Chương 12

Mẩu thư nhắn của Tancred

Charlie và Benjamin rời nhà cụ Bittermouse mà không gặp vợ ông. Bà ấy chắc bị điếc nặng lắm mới không nghe thấy tiếng mái hiên nhà mình rơi xuống, Charlie nghĩ. Mà cũng không ai khác nghe thấy. Hoặc giả họ có nghe thấy nhưng đều đã tránh xa. Con đường vắng tanh. Chắc là hầu hết mọi người đang quay quần quanh lò sưởi hoặc trước màn hình tivi trong buổi chiều Chủ nhật giá lạnh.

Tiệm sách Ingledew không xa nhà của cụ Bittermouse. Liệu cô Ingledew có nghe thấy tiếng động đó?

Có, cô ấy có nghe thấy. “Charlie, Benjamin, thấy các con cô mừng quá,” cô Ingledew vồ vập khi ra mở cửa cho chúng. “Chắc các con đã tình cờ biết cái gì gây nên tiếng nổ kinh hoàng đó thì phải?”

“Đúng ạ” Charlie đáp.

Olivia, tới giờ đang gói sách đằng sau quầy, thình lình ló ra như người nộm trong hộp (hộp đồ chơi của trẻ em, khi mở nắp thì một người nộm bằng rơm sẽ bật ra), khiến Hạt Đậu giật mình nhảy búng lên không, kêu một tiếng ẳng.

“Thế đó là cái gì vậy?” Olivia hỏi.

“Để tới kể cho đằng ấy về vụ đụng độ trước nhé,” Charlie nói, “nhưng thật ra tớ đến kể xin lời khuyên của cô Ingledew. Có một việc khủng khiếp đã xảy ra với Billy Raven.”

Olivia vén tấm rèm sau quầy qua bên và thò đầu nói lớn, “Tin xấu, Em!”

“Ối không!” Emma thốt lên bằng giọng thảm thiết rất hợp cảnh.

Tất cả kéo vô phòng sau nhập bọn với Emma, nơi cô Ingledew đốt lò sưởi reo tí tách. Đống hạt dẻ luộc gần vỉ lò nhắc Charlie đến Giáng sinh. Thậm chí còn có cả một hũ nước ép mâm xôi nóng hổi bên trong thanh chắn lò.

Ngồi gọn lỏn trong góc ghế sofa, với một nắm hạt dẻ luộc nóng hổi trong tay và một ca nước mâm xôi đặt trên bàn cạnh đấy, Charlie kể lại chi tiết ngày cuối tuần kỳ lạ của nó. Có vài đoạn bị cắt ngang, dĩ nhiên, phần lớn vì Olivia, nhưng Benjamin và Hạt Đậu, nằm chung với nhau dưới tấm thảm trước lò sưởi, thì đã ngủ khò. Đến khi Charlie kể xong thì những người kia có vẻ mệt phờ, nhưng ít ra họ vẫn còn thức.

Charlie thất vọng trước phản ứng của cô Ingledew. “Ông cậu của con sẽ biết phải làm gì,” cô nói. Vẻ mặt cô là một bức tranh lo lắng.

“Nhưng ông không có ở đây,” Charlie nói, bóc hạt giẻ cuối cùng trong tay nó.

“Charlie, chứ ông ấy đang ở đâu? Ông ấy đã đi đâu? Suốt cả tuần qua ông ấy đi vắng hết, Chúng ta sẽ làm gì nếu không có ông ấy?” Cô Ingledew dường như đã hoán đổi vai trò cho chúng. Giờ chính cô lại đang hỏi lời khuyên của Charlie.

“Con đã hy vọng là cô biết,” Charlie đáp.

“Ố!” cô Ingledew, đang ngồi bên bàn viết, thắc thỏm giở một trang trên tờ lịch của mình, hết cầm cây bút lên lại đặt nó xuống. Lẽ nào cô ấy đang nhớ Ông cậu Paton?

Chen vô ngồi bên cạnh Charlie, Olivia nhíu mày lại, tập trung suy nghĩ. Emma ở đầu bên kia ghế sofa nhìn chong chong vào ngọn lửa, tựa cằm vô hai bàn tay. Bất thình lình Olivia phì ra một hơi rõ kêu và thét om. “Nghĩ ra rồi. Tụi mình sẽ đi gặp ông hiệu trưởng. Có lẽ Billy đã trở về trường thật, nhưng nếu nó không ở đó thì tụi mình sẽ hỏi giáo sư Bloor xem nó ở đâu. Ông ta sẽ phải nói cho tụi mình biết.”

“Ông ta không nói thật đâu,” Emma ỉu xìu. “Ông ta có thể tỉnh bơ báo là đã gửi Billy đi đâu đó rồi, đại loại vậy.”

Cô Ingledew đứng dậy và bắt đầu bước tới bước lui. “Những chuyện ở trên đường Piminy khiến cô không an tâm. Tội nghiệp bà Kettle. Cô phải đi thăm bà ấy một chuyến mới được. Và cả cụ Bittermouse nữa! Sinh vật đó đã suỷt giết cụ. Phải làm gì đó về cái thằng Eric này thôi.”

Benjamin đã tỉnh giấc. Vừa dụi mắt vừa ngáp, nó lảm nhảm rằng Hạt Đậu không bao giờ làm đau ai cả, vậy hả cớ gì mà một con chó đã được xua tới để giết nó?

“Có lẽ không phải vậy đâu” Olivia hồ hởi nói. “Cô có biết con nghĩ gì không?”

“Nói coi, Olivia.” Cô Ingledew lại ngồi xuống và lộ vẻ lưu tâm vô cùng.

“Con nghĩ con chó đá đó chú ý muốn làm đổ cửa nhà cụ Bittermuose,” Olivia nói đắc thắng. “Hạt Đậu chỉ tình cờ đi ngang qua đó. Nhớ không Charlie? Đằng ấy nói cụ Bittermouse bảo ta không làm hại ai suốt sáu mươi năm nay. Vậy có nghĩ là cụ ấy đã làm hại ai đó một lần rồi, và cuối cùng người đó trở lại trả thù cụ.”

Không ai tranh luận. Ý kiến đó quá hợp lý. Ngoại trừ, như cô Ingledew chỉ ra, cái người sai khiến Eric làm cái trò đồi bại đó chắc hẳn bây giờ cũng già khụ rồi, nếu cụ Bittermouse từng làm hại họ cách đây đã lâu.

“Có thể đó là một mối thù truyền kiép,” Benjamin đề xuất ý kiến,

“Đúng, đúng, Benjamin, cô nghĩ cháu đúng đấy.” Cô Ingledew lại ngồi xuống. “Có những hậu duệ trở lại để san bằng tỉ số xưa, tiếp tục mối thù bắt đầu từ nhiều thế kỷ trước.” Cô nhíu mày. “Nhưng tại sao? Ai đã triệu hồi bọn họ?”

“Cái bóng,” Charlie nói.

Olivia lắc đầu. “ Không thể là cái bóng được. Tại sao đằng ấy cứ nhắc đến lão thế, Charlie? Cái bóng đã bị trục xuất rồi. Hắn biến mất rồi. Nếu mà chưa biến thì chắc hẳn người ta đã thấy hắn trên đường phố, gây chuyện phiền toái, hoặc lộ diện ở Học viện Bloor. Trời đất quỷ thần ơi, hắn là thầy bùa cho nên sau những chuyện đã xảy ra với hắn thì thể nào hắn cũng sẽ quậy phá, gây nên tình trạng hỗn độn.”

“Chúng ta hy vọng đừng ai sửa được tấm gương,” Emma nói.

Cô Ingledew chợt rùng mình, như thế cô đang cố phủi đi cái gì đó khó chịu. “Cô phải trở lại làm việc đây. Còn bao nhiêu việc phải làm để chuẩn bị cho tiệm sách ngày mai mở cửa. Các con cứ ở bao lâu tùy thích nhé. Và nhớ ăn hết hạt dẻ trong khi chúng còn ấm.”

Khi cô Ingledew đi ra ngoài, không đứa nào nói gì một lúc, và rồi Olivia lên tiếng, “Ngày mai tụi mình đi gặp giáo sư Bloor, nhé Charlie?”

Nó không thích cái ý kiến này chút nào – nó biết Billy đang ở xứ Badlock, nhưng Olivia đã dồn nó vô góc tường. “Để tớ đi một mình cho nếu đằng ấy không phiền. Billy đang ở với mình thì mất tích nên đó là trách nhiệm của mình,” nó bảo.

“Ừ. Nhưng nếu đằng ấy muốn đây đi cùng thì cứ cho đây biết,” Olivia bóc một hạt dẻ khác. “Đây nghĩ tối nay đây sẽ nhuộm tóc màu xanh lá cây.”

“Tốt,” Charlie nói, ước gì tìm được từ nào hay hơn.

Quá nhiều chuyện xảy ra vào cuối tuần đến nỗi không thể trách cứ Charlie đã bỏ sót một chi tiết rất quan trọng. Chính Benjamin đã nêu ra trong khi hai thằng đi về nhà.

“Rambrandt có ở cùng với Billy khi thằng bé biến mất không?” Benjamin hỏi.

Charlie dừng sững lại giữa đường. “Mình không biết,” nó nói chậm rãi. “Con chuột đó đã không có ở trong phòng mình. Tới nay mình vẫn chưa thấy nó.”

“Ờm, nếu bồ tìm thấy con chuột trong tầng hầm thì có nghĩa là Billy chắc chắn đã ở đó, đúng không?” Benjamin coi bộ hài lòng với chính mình.

“Đúng thế, Ben.” Charlie cảm thấy hơi lạc quan hơn. Ít nhất cũng có gì đó nó có thể làm để chứng minh Billy đã đi vô tầng hầm.

“Thế thì chúc may mán, Charlie!” Benjamin chạy hết tốc lực về nhà số 12, với Hạt Đậu lao chồm chồm bên cạnh.

Khi Benjamin về tới cửa nhà, con chó vàng ngoái cổ lại nhìn Charlie như muốn nói “Thà để cậu tìm con chuột hơn là tớ.”

Rembrandt không có ở trong tầng hầm. Charlie lật từng cái đệm, cái bao, cái hộp, những tấm chăn bị bọ nhậy ăn, những cái gối và va li lên. Nó thậm chí còn cố bắt mình dòm ra đằng sau bức tranh ác hiểm vẫn đang dựng vô tường.

“Charlie, con đang làm gì đó?” ngoại Maisie hỏi khẽ từ hành lang.

“Con đang tìm Rembrandt,” Charlie hét lên, không màng có ai nghe thấy.

“Rembrandt? Billy không mang nó đi sao?”

“Mang chứ,” Charlie nổi cáu nói sẵng khi nó leo lên cầu thang tầng hầm. “Chỉ có bà mới nghĩ nó mang con chuột tới Học viện Bloor, còn con thì nghĩ nó mang chuột vô xứ Badlock rồi.”

Ngoại Maisie rầu rầu, “Bà ước gì ông cậu con trở về.”

Nhưng ông cậu Paton không về. Đến sáng hôm sau vẫn không thấy tăm hơi chiếc xe moóc trắng đậu bên ngoài nhà, cũng không ai trả lời khi Charlie gõ cửa phòng ông.

Tuy nhiên, có một tấm bưu thiếp.

“Xem này! Xem này!” ngoại Maisie reo lên, chạy vô nhà bếp. “Ba với mẹ con viết đó. Bà mừng là nó tới kịp trước lúc con đi học.”

Charlie nhìn bức hình ở mặt trước bưu thiếp. Một cảm giác ớn lạnh chạy dọc sống lung. Nó cầm tấm bưu thiếp lên và nhìn trân trân vô đó.

“Charlie, có chuyện gì vậy? Lật qua bên kia đọc coi.”

Nhưng Charlie không thể dời mắt khỏi hình ảnh đằng trước bưu thiếp: một con thuyền buồm nhỏ đang cưỡi những đợt sóng vô tận trên mặt biển xám. Đó là con thuyền Charlie đã thấy trong những cơn ác mộng, trong khoảng khắc nó cố thoát khỏi ánh mắt thôi miên của Manfred và bắt được những ý nghĩ ẩn đằng sau đôi mắt đen ác độc đó.

Không chịu nổi trạng thái lơ lửng như vậy, ngoại Maisie giằng lấy tấm bưu thiếp và đọc:

“Ba mẹ vui ơi là vui, Charlie à, cho nên ba mẹ quyết định ở lại lâu hơn thời gian dự tính. Để tôi lá thư gửi cho ngoại Maisie ba mẹ sẽ giải thích rõ hơn. Ba mẹ sẽ gửi tấm bưu thiếp này cho thuyền trưởng của một chiếc du thuyền đi ngang qua đây. Ông ấy sẽ lên bờ trước ba mẹ nhiều.

Ba mẹ nghĩ về von hằng ngày. Tình yêu của ba và me. xxx”

“Ồ, có gì đâu mà tệ, Charlie. Chúng ta sẽ xoay xở được mà, phải không? Đừng chàu bạu thế chứ.”

“Nó là con thuyền,” cổ họng Charlie khô khốc vì lo lắng.

“Thì sao?” ngoại Maisie lật tấm bưu thiếp lại. “Một con thuyền đẹp đấy chứ. Bà nghĩ chắc là có người lái thuyền cho ba mẹ của con. Họ không đi một mình đâu.”

“Nó sẽ bị chìm,” Charlie nói như kết tội.

“Bà chả bao giờ nghe cái thứ tầm phào đó nhé. Có khi bọn họ không ở trên con thuyền này.” N goại Maisie chọc ngón tay vô bức hình. “Đó chỉ là tranh ảnh thôi, Charlie. Con làm sao vậy? Ngừoi ta có thể nghĩ con dằn dỗi ba mẹ vì họ dành thời gian đi riêng với nhau đó.”

Charlie cảm thấy quá đau khổ nên không đáp lại. Nó bước ra khỏi nhà bếp, đi lấy giỏ xách và tời khỏi nhà mà không chào tạm biệt bà.

Tin tức về “cuối tuần tai hại”, như cách Olivia gọi, đã truyền đến tát cả những ai quan tâm trong Học viện Bloor trước giờ nghỉ giải lao đầu tiên. Rủi thay, nó cũng đến tai cả những người không quan tâm. Mặc dù Joshua, Dorcas, Dagbert, và hai chị em sinh đôi chắc chắn có quan tâm, nhưng chỉ đến cái mức mà chúng khiến cho Charlie cảm thấy bức bối bằng những cái nhếch mép cười khẩy và những lời bình phẩm cay độc.

Mọi sự trở thành cao trào vào lúc chúng đang bước hàng hàng lớp lớp trong Hành lang Chân dung để đi ăn trưa. Joshua đến bên Charlie và cà khịa thì thào, “Thằng bạn mày đâu rồi, cái con chuột trắng á, Charlie? Nó được một con chuột mẹ hiền lành nhận nuôi rồi sao?”

Charlie đẩy Joshua ra sau, gầm gừ, “Câm mõm, đồ ngu!”

Joshua có đôi cẳng nhũn tựa như bột. Nó có thẻ mất thăng bằng vì một cú hẩy nhẹ nhất. Cú xô nhẹ hều của Charlie khiến nó bay vèo vô bức chân dung của người phụ nữ trông như đang bất bình. Đúng chính xác người phụ nữ mà lần trước Dagbert đã vô tình lăng mạ.

Lần này bà tằng tằng tổ của Manfred, Donatella da Vinci, rơi tòm khỏi bức tường. Một tiếng thét đau đớn rú lên khi bức chân dung đáp xuống tấm thân nằm sóng xoài của Joshua Tilpin.

“Chuyện gì thế hả?”

Lũ trẻ im thít rẽ ra những làn song khi thầy Giám sát Tài Phép hùng hổ bước xuôi hành lang. Khi thấy bức chân dung tổ tiên mình vắt ngang lung Joshua Tilpin, miệng Manfred há hốc lên khiếp vía. Hắn phọt ra một tiếng rú quái gở và rồi, đùng đùng quay phắt lại, rống vang, “Ai làm cái này?” Rõ rang hắn lưu tâm tới bức chân dung hơn là tới thằng bé đang bị đè bên dưới.

“Charlie Bone đó, thưa ngài.” Dorcas Loom cố nở mụ cười ton hót, nhưng cố gắng đó quá sức con bé.

“Mày thấy có gì đáng cười hả, Dorcas Loom?” Manfred quát.

“Không ạ.” Dorcas đáp, vụt tắt nụ cười.

“Đứa nào giúp ta!” Manfrad nhấc một đầu bức chân dung lên.

Bragger Braine bước tới và nhấc nốt đầu kia. Loáng sau bà Donatella đã trở về vị trí cũ nhưng, kinh hãi hơn cả kinh hãi, đó là xuất hiện một cái lỗ nhỏ ở phía trên long mày bên phải của bà ta. Cái lỗi này đã không được nhận ra trong khi bà ta đè lên Joshua, chắc hẳn là do đường nhíu mày dài trên vầng trán quyết không tha thứ cho bất kỳ điều gì của bà ta.

Tiếng thở hốc nhất tề vang lên. Charlie nhìn trúng ngay con mắt của bà Donetalla. Mụ đang nguyền rủa nó bằng những ngôn từ khó chịu nhất. Nó hy vọng, một cách vô vọng, rằng nó từng thấy chính nó ở trong thế kỷ của mụ.

Manfred chuyển thoắt từ trắng bợt sang đỏ nhừ rồi lại trở về trắng bợt, tất cả chỉ trong vòng chưa đầy ba mươi giây, Charlie không dám động đậy. Nó muốn nhắm mắt lại, nhưng cố ép mình phải mở to mắt ra trong khi chờ hắn định đoạt số phận.

Thầy giám sát Tài Phép phọt ra một tiếng rú vút cao lên dần, kết thúc bằng một trang gừ ngân dài. Trong đúng một hơi thở, hắn rống một lèo, “Charlie Bone đi lên phòng hiệu trưởng ngay phút này và báo cho ngài biết mày đã làm gì!”

“Vâng, thưa ngài” Charlie mừng rỡ với cơ hội thoát khỏi những lời nguyền của mụ Donatella, nhưng nó thích gặp ông hiệu trưởng trong những tình huống khác hơn thế này. Nó bắt đầu đi ngược lại hành lang, một việc vô cùng khó khắn bởi lũ trẻ đang lũ lượt trên đường đi tới căn-tin ăn trưa.

Fidelio chen chúc tìm đến bên Charlie, thì thào. “Chúc may mắn” Anh ấn một mẩu giấy vô bàn tay Charlie. “Tancred...”

Ai đó đẩy Fidelio qua bên và Charlie không nghe được nốt câu anh bạn nói gì. Nó đút vội mẩu giấy vô túi áo trong khi Fidelio bị cuốn trôi xa.

“Mình sẽ hỏi ông ta về Billy”. Charlie nhủ thầm khi bước tới cánh cửa dẫn vô chái phía Tây. Lúc Charlie mở cánh cửa thì một con sâm bướm nhỏ xíu màu trắng, núp trong một kẽ gỗ mục, rớt xuống đậu trên vai nó. Từ từ con sâu bướm bò xuống vạt sau tấm áo chùng xanh da trời. đến lúc Charlie tới được thư phòng của giáo sư Bloor, con sâu bướm đã núp thụt trong ống tay áo sơmi của nó.

Trước khi gõ cửa, Charlie liếc nhìn khắp hành lang trải thảm dày. Không có một không gian trống nào giữa những hàng cánh cửa ở hai bên. Từng xăng-ti-mét đều chất kín những kệ sách, những hộp kính trưng đầu lâu và những vật dụng cổ xưa, những rương hòm thẳng đứng bọc da, những cái tủ chạm trổ, đồng hồ quả lắc dựng đứng, những tấm gương lồng khung mạ vàng và những tượng sáp phục sức kỳ lạ.

Như thế tất cả những thứ đó còn chưa đủ, trần nhà treo đầy các loài chim nhồi bông, thảo mộc khô và những đồ chơi máy, tất cả lờ phờ đu đưa trong cơn gió lùa từ cầu thang đằng xa. Những âm thanh cọt kẹt, loạt soạt cực nhẹ của chúng thi đua với nhịp điệu tích tắc của những chiếc đồng hồ đứng dưới sàn.

Charlie thắc mắc không biết có gì trong các căn phòng kia. Nó quyết định rằng thà không biết còn hơn. Cố gồng cứng vai, nó hít một hơi thật sâu và gõ cửa phòng giáo sư Bloor.

“Ta ra đây,” một giọng cấm cẳn.

Đó không phải là điều Charlie mong chờ. Nó lại gõ tiếp.

“Lạy trời, cái gì gấp dữ vậy? Bộ súp sẽ nguội nếu ta trễ một phút sao?”

Thu hết can đảm, Charlie nói to. “Em là Charlie Bone, thưa ngài.”

“Cái chết tiệt gì thế?” Những sải chân vội cã được nghe thấy tiến ra cửa. Khoảnh khắc sau cửa bung ra và giáo sư Bloor gườm gườm nhìn Charlie rồi hạch hỏi, “Thê này nghĩa là sao? Ta không tiếp kẻ ti tiện giờ này. Đây là giờ ăn trưa.”

“Em biết, thưa ngài.” Charlie nuốt đi cục ngượng đã sang tới cuống họng. “Nhưng thầy Giám sát Tài phép bảo em tới.”

“Cái thổ tả, tại sao?”

Charlie giơ ống tay áo lên quật mũi và khịt.

“Dẹp sụt với sịt đi!” giáo sư Bloor rống gầm.

“Xin lỗi, thưa ngài. Em tới đây là vì em đã xô ngã Joshua Tilpin, và không hiểu làm sao đó mà, nó tong phải bức chân dung và... và... và...” Charlie thấy việc mô tả cái lỗ trên trán bà Donatella thật khó khan.

“VÀ SAO?” giáo sư Bloor quát tướng lên.

“Và bà Donatella Bloor, nhũ danh da Vinci, em tin thế, hiện giờ có một cái lỗ,” Charlie đặt một ngón tay lên lông mày bên phải của nó, “ngay chỗ này.”

Trong một lúc có lẽ rất là lâu giáo sư Bloor không nói gì. Chỉ nhìn trừng trừng vô Charlie, đôi môi xám biến mất bên dưới bộ ria mép tỉa cầu kỳ. Cuối cùng, bằng giọng đe dọa đục sâu, ông ta gầm, “Đồ ngu, một đứa trẻ đáng ghê tởm, gớm ghiếc, không thể chịu nổi. Ta biết mà, rồi sẽ đến nước này.”

Charlie định hỏi giáo sư Bloor “nước này” có nghĩa là gì, nhưng bỗng dung có gã Weedon ló ra từ một cánh cửa ở tuốt đầu kia hành lang.

“Bữa trưa của ngài đã dọn xong, thưa ngài hiệu trưởng,” gã gác cửa thông báo, bằng giọng cứ như một bữa tiệc linh đình đã sẵn sàng.

Giáo sư Bloor ậm ừ, “Chút nữa đi. Weedon, đem thằng này vô Phòng Xám.”

Charlie không bao giờ biết nó lấy đâu can đảm mà phun ra những điều tiếp theo. Trong tình thế là gã Weedon lao huỵch huỵch về phía mình, nó biết mình không có nhiều thời gian cho nên nó gấp gáp tuôn ra bằng hết.

“Giáo sư Bloor, Billy Raven đã không trở lại đây vào ngày thứ Bảy, đúng không? ‘Em biết là nó không về đây, vậy tại sao ngài lại nói với cảnh sát là nó đã về? Ý em là nếu nó không ở đây, thì nó ở...”

Charlie chứng kiến bộ mặt giáo sư Bloor trải qua một quá trình biến sắc quái chiêu. Mới đầu là kinh ngạc như thể ông ta không thể tin Charlie dám cả gan hỏi một câu như vậy, và rồi nét mặt đó đanh lại thành cái mặt nạ lạnh băng, hiểm ác. “Đem nó đi khuất mắt ta,” ông ta quát gã Weedon.

Vừa lúc gã Weedon tóm lấy cổ áo Charlie và giật kéo nó muốn nghẹt thở xuôi hành lang.

“Tôi biết nó không có ở đây,” Charlie láp ngáp thở phì phò. “Tôi biết... tôi biết...”

Gã Weedon đột ngột mở một cánh cửa và đẩy Charlie vô trong. Rồi có một tiếng tách rất lớn. Charlie không cần phải thử lay xem cửa có khóa không. Nó thấy mình ở tring một căn phòng lạnh toát, màu xám. Không có gì bên trong. Không một thứ gì. Ván lót sàn thô nhám và không được lau chùi, tường chỉ là đá xám tẻ nhạt. Không có lò sưởi hay bất kỳ cái gì đại loại. Ở cuối phòng có một ô cửa sổ tròn nhỏ để lộ ra một mảng trời màu chì. Charlie không cách chi với tới cửa sổ ấy. Nó quá cao và không có bắc gì để đứng lên. Nhưng Charlie không dễ mất nhuệ khí. Nó kéo mũ trùm lên đầu, quấn chặt áo chùng vô người, ngồi trong góc, thu đầu gối lên, chuẩn bị tư thế cho tình huống rõ rang là một cuộc chờ đợi lâu.

Ở vị trí như vậy, một chuyển động nhẹ nhất tại bất cứ phần nào của căn phòng cũng gây chú ý cho Charlie, cho nên khi con sâu bướm xuất hiện dưới sàn, nó lập tức trông thấy ngay. Nó quan sát sinh vật xíu xiu vò qua sàn và bắt đầu bò lên bức tường đá. Khi bò lên tới mức cao hơn đầu Charlie vài phân, con vật bắt đàu vặn mình quẹo lại, nhả ra một sợi tơ óng ánh. Con sâu bướm quay vòng tròn, lên rồi xuống, sợi tơ bao quanh thân nó thành một cái kén lóng lánh.

Trong khi nhìn con sâu bướm chuyển động như vậy, Charlie sực nhớ ra mẩu thư nhắn Fidelio đã dúi cho mình. Charlie lôi viên giấy nhàu nhĩ khỏi túi và mở ra. Mẩu thư viết:

Tối nay em sẽ có lại com bướm của em, Charlie. Anh sẽ gặp Dagbert ở phòng điêu khắc trước bữa tối. Tancred

“Anh là một ngôi sao, Tanc!” Charlie lẹ làng nhét mẩu giấy trở vô túi của nó. Bỗng nhiên, không hiểu vì lý do gì mà nó chợt cảm thấy một cơn dằn vặt, đau nhoi nhói.

Nó đã làm gì sai với Tancred chăng? Nó nhìn trân trân vô cái kén tơ đang bóng sáng dần lên theo từng phú, cho tới khi bức tường xám tắm đẫm trong ánh sáng dễ chịu. Cùng với ánh sáng bừng lên đột ngột, cái kén bục tung và một con bướm trắng bay vụt ra giữa một trận mưa sao.

“Claerwen!” Charlie nín thở.

Con bướm trắng đậu trên đầu gối nó và xòa đôi cánh vẫn còn ướt ra. Nhưng ngay cả khi đôi cánh trắng bắt đầu khô và sáng rực rỡ hơn bao giờ hết, Charlie vẫn đang nghĩ về anh bạn của mình.

Nếu Claerwen ở đây, vậy thì cái bẫy gì đang rình rập Tancred khi anh ấy xuống phòng điêu khắc, nơi Dagbert kẻ-dìm-chết người đang đợi anh?