Chiến tranh tiền tệ

Phần V

CHÍNH SÁCH MỚI CỦA TIỀN TỆ GIÁ RẺ

Lenin từng nói rằng, biện pháp tốt nhất để đánh đổ chủ nghĩa tư bản chính là làm cho hệ thống tiền tệ của chế độ đó mất giá trị. Thông qua quá trình lạm phát tiền tệ liên tục, chính phủ có thể bí mật làm tiêu hao một phần tài sản của công dân mà không ai hay biết. Chính phủ có thể tước đoạt tài sản của nhân dân bằng việc sử dụng biện pháp này khiên cho đa số dân chúng trở nên nghèo đói và làm cho một số kẻ trớ nên giàu có. Không có thủ đoạn nào được coi là kín đáo và đáng tin như nạn lạm phát tiền tệ nhằm lật đổ chính quyền hiện tại. Quá trình này ưch tụ một cách tiềm ẩn các nhân tố phá hoại trong quy luật kinh tế mà trong cả triệu người cũng không thể tìm ra một ai có thể nhìn ra căn nguyên của vấn đề(1).

Keynes, năm 1919.

Keynes gọi vàng là “di tích dã man”, và sự đánh giá này đã từ lâu trở nên quen thuộc đối với người dân Trung Quốc. Vậy động cơ của Keynes là gì?

Từng là người kiên quyết phản đối nạn lạm phát tiền tệ, vậy thì tại sao Keynes lại biến thành kẻ tử thù của kim loại quý này?

Bước sang tuổi 40, Alan Greenspan vẫn là người bảo vệ kiên định bất di bất dịch bản vị vàng, và sau khi lên nhậm chức Chủ tịch Cục Dự trữ Liên bang Mỹ, ông bắt đầu nói với cấp dưới về vấn đề vàng. Năm 2002, tuy vẫn thừa nhận rằng “vàng là phương thức thanh toán cuối cùng của mọi hệ thống tiền tệ hiện có”, nhưng ông lại “làm ngơ” trước âm mưu liên kết đánh tụt giá vàng của các nhà tài phiệt ngân hàng phương Tây trong những năm 90 của thế kỷ 20.

Tại sao các nhà tài phiệt ngân hàng quốc tế và các nhà lý luận “tay sai” của họ lại ghét vàng đến như vậy? Và tại sao lý luận “tiền tệ giá rẻ” của Keynes lại được đề cao?

Trong thực tiễn xã hội kéo dài hơn 5.000 năm của loài người, bất kể là thời đại nào, quốc gia nào, tôn giáo nào, chủng tộc nào, vàng luôn được người đời công nhận là một thứ tài sản có giá trị. Nhận thức này đâu dễ bị mớ lý thuyết coi vàng là “di tích của dã man” hoá giải. Mối quan hệ tất yếu giữa vàng và của cải đã trở thành một logic tự nhiên trong đời sống của con người. Trong khi không có thiện cảm đối với chính sách và tình hình kinh lễ của chính phủ thì người dân có thể chọn cách đem tiền giấy mà họ đang nắm giữ trong tay đổi thành tiền vàng và chờ đợi thời cơ tốt hơn.

Trên thực tế, việc hoán đổi tự do từ tiền giấy sang vàng đã trở thành nền tảng cơ bản nhất về kinh tế của người dân, chỉ có trên cơ sở này, sự tự do của bất cứ nền dân chủ và hình thức xã hội nào khác mới có được ý nghĩa đầy đủ của nó. Khi tiến hành cưỡng chế tước đoạt quyền đổi tiến giấy thành vàng của người dân thì cũng chính là lúc chính phủ tước đoạt sự tự do cơ bản nhất của người dân.

Các nhà tài phiệt ngân hàng quốc tế biết rõ rằng, vàng không chỉ là một thứ kim loại quý bình thường. Nếu xét về bản chất, vàng là “thứ kim loại mang tính chính trị” duy nhất với độ nhạy cảm cao cũng như gánh nặng thừa kế lịch sử, và nếu không xử lý tốt vấn đề vàng, con người sẽ tạo nên bão táp tài chính trên phạm vi toàn thế giới. Trong tình trung bình thường, việc phế bỏ bản vị vàng tất sẽ dẫn đến sự bất ổn nghiêm trọng trong xã hội, thậm chí là gây nên cuộc cách mạng bạo lực. Chỉ trong những tình huống đặc thù, khi không còn chọn lựa nào khác, người dân mới buộc phải tạm thời hy sinh bản thân cùng các quyền lợi vốn có của mình. Điều mà các nhà tài phiệt ngân hàng cần chính là nguy cơ khủng hoảng và suy thoái nghiêm trọng trong đời sống xã hội.

Dưới sự đe doạ của khủng hoảng và suy thoái, người dân dễ trở nên thoả hiệp nhất, sự đoàn kết dễ bị phá vỡ nhất, dư luận dễ bị dẫn dắt nhất, sức tập trung xã hội dễ bị phân tán nhất, và đương nhiên, mưu kế của các nhà tài phiệt ngân hàng cũng dễ được thực hiện nhất. Vì vậy, khủng hoảng và suy thoái được các nhà tài phiệt ngân hàng xem như một thứ vũ khí được sử dụng một cách hiệu quả nhất nhằm đối phó với chính phủ và người dân.

Cuộc khủng hoảng kinh tế nghiêm trọng năm 1929 đã được các nhà tài phiệt ngân hàng quốc tế “khéo léo dẫn dắt” nhằm “phế bỏ bản vị vàng” – một việc rất khó thực hiện được trong tình hình bình thường, từ đó phủ bằng đại đạo tài chính và châm ngòi cho cuộc chiến tranh thế giới lần thứ hai.

1. Chính sách “Tiền tệ giá rẻ” của John Maynard Keynes

Khi tham gia hội nghị hoà bình Paris vào năm 1919, Keynes đã nhận thức được mối nguy hại tiềm tàng do nạn lạm phát tiền tệ gây ra đối với người dân và xã hội. Trong cuốn sách nổi tiếng của mình “Hậu quả kinh tế của hoà bình”, ông đã chỉ ra bản chất của nạn lạm phát tiền tệ đồng thời đưa ra một phân tích sắc bén rằng nạn lạm phát siêu cấp năm 1923 tại Đức đã nghiệm chứng hoàn toàn mức độ sát thương nguy hiểm của nó.

Điều này cũng giống như những gì mà Alan Greenspan đã phát biểu trong bài “Vàng và tự do kinh tế” khi bước sang tuổi 40. Và xét ở một khía cạnh nào đó, Alan Greenspan cũng có cùng quan điểm với Keynes về nạn lạm phát tiền tệ.

Ông chỉ ra rằng:

“Trong tình huống không có bản vị vàng, sẽ không có bất cứ biện pháp nào để bảo hộ sự tích luỹ của dân chúng khỏi sự thống soái của nạn lạm phát, và điều này cũng có nghĩa là nguồn tài sản của dân chúng sẽ không có được nơi cất giữ an toàn.

Nói một cách đơn giản, bội chi tài chính chính là âm mưu tước đoạt tài sản, và vàng đã chặn đứng quá trình nguy hiểm này và đóng vai trò bảo hộ tài sản của dân chúng. Nếu nắm được điểm quan trọng có tính chất then chốt này thì người ta không cảm thấy khó khăn để lý giải vì sao có không ít người đã phỉ báng bản vị vàng một cách đầy ác ý”(2).

Alan Greenspan đã chỉ ra rằng, bản vị vàng đã khống chế chặt chẽ xu thế lan tràn của nạn lạm phát tiền tệ. Xuất phát từ ý này, Keynes và Alan Greenspan đều phải là người ủng hộ kiên định bản vị vàng, vậy nhưng sau đó, họ lại quay ngoắt 180 độ và cho rằng, vàng là “di tích dã man”. Thêm vào đó, sau khi một bước lên mây, họ lại dứt khoát im hơi lặng tiếng mà không đề cập đến địa vị tiền tệ của vàng.

Đối với Alan Greenspan thì đúng là thân bất do kỷ. Sau khi gia nhập công ty J.P. Morgan và đảm nhận chức Chủ tịch của công ty này cũng như của các ngân hàng phố Wall khác, Alan Greenspan bắt đầu hiểu rằng, giang hồ tài chính có luật pháp của riêng mình.

Trong khi cả thế giới tập trung vào từng động thái của Alan Greenspan thì có lẽ chỉ mình ông ta mới hiểu được rằng, ngân hàng Cục Dự trữ Liên bang Mỹ ở New York mới là cơ quan đưa ra quyết sách thực thụ. Năm 2002, tại phiên điều trần trước Quốc hội khi bị Ron Paul – nghị sĩ bang Texas truy vấn đến cùng, Alan Greenspan đã bày tỏ rằng bản thân ông ta chưa bao giờ phản bội lại quan điểm của mình vào năm 1966. Và cho đến nay, ông vẫn cho rằng vàng là “phương thức thanh toán cuối cùng” trong mọi hệ thống tiền tệ, còn Cục Dự trữ Liên bang Mỹ chỉ là một bản “mô phỏng” theo chế độ bản vị vàng.

Tuy nhiên, tình huống của Keynes lại khác với Alan Greenspan.

Murray Rothbard – học giả nổi tiếng người Mỹ – đã miêu tả một cách sâu sắc đặc trưng nhân cách của Keynes.

Ông cho rằng, chủ nghĩa “trung tâm tự ngã” cực đoan của Keynes (người tự cho mình là thành phần tinh anh của tầng lớp thống trị Anh và miệt thị đạo đức xã hội – ND) có ảnh hưởng trực tiếp đối với hệ thống tư tưởng của ông ta”.

Đặc biệt, “hội tông đồ“ (apostle) – một tổ chức bí mật của Đại học Cambridge (Anh) – có ảnh hưởng rất lớn đối với Keynes. Kiểu tổ chức bí mật này trong các trường đại học Âu – Mỹ tuyệt đối không giống với hội đồng hương sinh viên hoặc các đoàn thể xã hội lỏng lẻo như hội văn học mà giống các tổ chức hạt nhân gánh vác sứ mệnh tôn giáo với lịch sử hình thành và phát triển hàng trăm năm. Các tổ chức này duy trì mối quan hệ mật thiết giữa các hội viên với nhau, tạo nên những tập đoàn lợi ích kiên cố nhất trong giai tổng thống trị của xã hội phương Tây.

“Hội tông đồ” của Cambridge do 12 thành viên ưu tú nhất từ 31 học viện thành lập. Những người này không chỉ thông minh tuyệt đỉnh mà còn phải có thân thế quyền quý, và mỗi một người trong số họ đều phải có mục đích trở thành thành viên trong giai cấp thống trị Anh. Thứ bảy hàng tuần, họ tụ họp ở những địa điểm bí mật, cùng nhau thảo luận các vấn đề từ triết học, mỹ học đến chính trị, thương mại. Họ có giới quy riêng rõ ràng, nghiêm khắc, đồng thời tỏ rõ thái độ miệt thị đạo đức chung của xã hội. Họ tự cho rằng họ là những người tinh anh, rằng họ sinh ra đã là những người thống trị thế giới, đồng thời truyền bá niềm tin này giữa các thành viên trong tổ chức. Trong thư gửi cho một người bạn, Keynes đã viết như thế này: “Sự cảm nhận thứ đạo đức này của chúng ta phải chăng có chút tự đại ngông cuồng? Tôi có cảm giác rằng, tuyệt đại đa số mọi người trên thế giới này vốn dĩ chẳng nhìn thấy bản chất của bất cứ sự vật nào, bởi hoặc họ quá ngu xuẩn, hoặc là quá gian ác(3).

Trong nhóm này, ngoài Keynes và vị học giả tài ba Russell còn có cả các ông trùm tài chính như nam tước Rothschild. Sau khi rời khỏi Cambridge, các tông đồ của hội – những người được gọi là “thiên sứ” – vẫn tham gia hội nghị bí mật của nhóm vào thứ bảy hàng tuần. Họ tích cực tham gia vào việc tuyển chọn các tông đồ mới cũng như các hoạt động khác.

So với Keynes, Victor Rothschild nhỏ tuổi hơn và là cháu đích tôn của Nathan Rothschild – người nắm giữ quyền phát hành tiền tệ của đế quốc Anh đồng thời là người thừa kế phong hiệu Nam tước đời thứ ba. Victor và Keynes đều là những người khởi xướng tích cực của “Hội đồng ngoại giao Mỹ“ (Council of Foreign Relationship) và Viện quan hệ quốc tế hoàng gia Anh (Royal Institute of International Affairs).

Hai tổ chức này có thể được gọi là “trường đảng trung ương” của chính giới Âu – Mỹ, trong gần một trăm năm qua, đây là nơi đã cho ra lò hàng loạt “cán bộ” cộm cán của tập đoàn thống trị Âu – Mỹ. Theo thông lệ của gia tộc ngân hàng Âu Mỹ, Victor đã có một khoảng thời gian làm việc cho J.P. Morgan (Hoa Kỳ) cho nên hiểu rất rõ phố Wall. Ông còn là chủ tịch của công ty dầu mỏ Shell – Hà Lan. Victor cũng từng đảm nhiệm chức vụ cao cấp trong Cục Tình báo Anh (MI5), về sau đảm nhiệm chức cố vấn an ninh của thủ tướng Anh Thatcher. Chú của ông la – nam tước Edmond Rothschild – được gọi là “cha của Israel”. Dưới sự giới thiệu và dìu dắt của Victor, với khả năng thông minh bẩm sinh, Keynes đã nhanh chóng ngửi thấy mùi béo bở trong lý luận buôn bán công trái giá rẻ và nạn lạm phát – phương hướng chủ công mà các nhà ngân hàng quốc tế thời đó đang cần mẫn theo đuổi Keynes rát ít khi để ý đến những lời huênh hoang của mình trên chính đài, bởi ông không phải chịu ước thúc trong quy phạm đạo đức của người bình thường. Ông giả mạo số liệu một cách cố ý nhằm tạo ra sự phù hợp với lý luận kinh tế của mình. Murray Rothbard đã từng chỉ ra, “ông ta cho rằng nguyên tắc sẽ chỉ gây cản trở cơ hội giành được quyền lực trong thời khắc chính xác của mình. Vì vậy, ông ta có thể thay đổi quan niệm trước đó bất cứ lúc nào dù chỉ vì một đồng cắc nhỏ”(4).

Keynes hiểu rõ rằng, nếu muốn học thuyết của mình trở nên nổi tiếng, một nhà kinh tế học cần phải có những thế lực lớn về tài chính và tiền tệ làm bình phong. Ngay sau khi phân biệt rõ “phương hướng chính xác của sự phát triển lịch sử”, Keynes lập tức áp dụng tư chất thiên phú thực sự của mình: đó là tài hùng biện và khả năng đưa ra đề xuất hơn người.

Dưới ánh hào quang của Adam Smith, Ricardo và Marshall, Cambridge gần như nghiễm nhiên trở thành trung tâm của nền lý luận kinh tế thế giới. Được xem là người tiếp bước con đường của Marshall, Keynes ở vào một vị trí cực kỳ có lợi. Năm 1936, sau khi xuất bản cuốn “Lý thuyết chung về Lao động, Lợi tức và Tiền tệ” (The General Theory of Employmen, Interest and Money) – một tác phẩm chính yếu trong đời, Keynes đương nhiên hết lòng ủng hộ lý luận kinh tế học vốn đánh trúng tâm tư sâu xa của mọi người. Các nhà chính trị bày tỏ thái độ dùng dằng đối với thứ chính sách tiền tệ giá rẻ theo kiểu “vay tiền, in tiền, tiêu tiền” này. Nói chung, sự tranh luận hay ngợi ca lý thuyết này lập tức lôi cuốn sự chú ý của giới học thuật.

Keynes đã tin chắc rằng, ý tưởng tiền tệ giá rẻ của mình ắt sẽ nhận được sự ủng hộ hết mình của các nhà ngân hàng quốc tế cũng như các chính trị gia. Trong khi người dân bình thường phải gánh chịu tổn hại lớn nhất của ý tưởng này lại là những người hoặc “quá ngu xuẩn”, hoặc “quá gian ác“ thì đối tượng chính còn lại mà ông muốn thu hút sự chú ý là giới học thuật.

Đầu tiên, Keynes tuyên bố sự đối lập giữa lý luận kinh tế hiện đại mà ông là đại diện và lý luận kinh tế truyền thống xưa cũ. Ông nói rằng, cuốn “thánh kinh” kinh tế mới hàm súc kia của ông chỉ có “những học giả kinh tế trẻ tuổi dưới 30 mới có thể hiểu được”. Tuyên bố này đã lập tức nhận được sự hoan nghênh của các nhà kinh tế học trẻ tuổi.

Trong thư viết cho bạn bè, Paul A. Samuelson đã vui mừng đến mức không kìm lòng được vì mình vẫn chưa đến 30: “tuổi trẻ thật là tuyệt”. Nhưng chính Paul A. Samuezlson cũng thửa nhận rằng, cuốn sách của Keynes là một sản phẩm “kém chất lượng và lẫn lộn lung tung(5).

Các học giả Mỹ cho rằng, nếu như được viết bởi một giáo sư của một học viện nào đó thuộc miền Trung Tây xa xôi của nước Mỹ thì cuốn sách này cũng khó lòng mà được in ra chứ đừng nói tới việc lưu danh sử sách.

2. Cuộc tranh cử tổng thống năm 1932

Cuộc tranh cử tổng thống năm 1932 đã diễn ra trong bối cảnh tiêu điều của nền kinh tế. Mười ba triệu người không có công ăn việc làm với tỉ lệ thất nghiệp đến 25%. Những điều này đã tạo nên một áp lực ghê gớm với tổng thống Hoover lúc bấy giờ.

Đối diện với sự công kích mạnh mẽ của ứng cử viên tổng thống Đảng Dân chủ Roosevelt đối với chính sách kinh tế từ năm 1928 cũng như mối quan hệ mật thiết giữa tổng thống Hoover với các thế lực ngân hàng phố Wall, Hoover luôn giữ được sự trầm tĩnh tế nhị, nhưng trong sổ ghi chép của mình, ông đã ghi lại cách nghĩ chân thực của mình thế này:

Đáp lại yêu cầu của Roosevelt muốn tôi phải lên tiếng chịu trách nhiệm phản đối phong trào đầu cơ (năm 1929), tôi đã suy nghĩ rất nhiều và không biết là có nên tiết lộ về hành động cố ý thực thi chính sách lạm phát tiền tệ của Cục Dự trữ Liên bang Mỹ từ năm 1925 đến năm 1928 dưới sức ép của các thế lực châu Âu hay không, bởi thời đó, tôi là người phản đối chính sách lạm phát tiền tệ này(6).

Quả thật, tổng thống Hoover có chút oan ức. Tuy là tổng thống Mỹ, nhưng ông lại không có sức ảnh hưởng lớn đối với chính sách kinh tế và chính sách tài chính của chính phủ. Do chính phủ không có quyền phát hành tiền tệ, và nếu Ngân hàng của Cục Dự trữ Liên bang Mỹ ở New York không có được sự hợp tác của tư nhân thì bất cứ chính sách nào đưa ra cũng đều là viển vông.

Tổng thống Hoover thất sủng ở phố Wall do xa rời phương châm đã định của ngân hàng về việc bồi thường chiến tranh của Đức. Năm 1929, kế hoạch Young được Morgan hoạch định. Với nguồn chi phí có từ việc tăng thêm gánh nặng nợ nần của nước Đức và thông qua phương thức phát hành công trái trên phố Wall để Đức có khả năng bồi hoàn chiến phí, Morgan có thể kiếm chác một món hời lớn.

Tháng 5 năm 1931, khi kế hoạch này mới bắt đầu được thực thi, một cuộc khủng hoảng tài chính của Đức và Áo đã nổ ra. Hành động cứu vãn của ngân hàng Rothschild và ngân hàng Anh chưa thể khống chế được sự lan rộng của cuộc khủng hoảng, và ngân hàng phố Wall của Morgan cũng không muốn chứng kiến cảnh kế hoạch Young vừa mới khởi động đã sớm chết yểu. Ngay lập tức, Lamont – một trong những cổ đông của Morgan – đã gọi điện thoại cho tổng thống Hoover, yêu cầu chính phủ Mỹ đồng ý cho chính phủ Đức ngưng việc bồi hoàn chiến tranh trong thời gian ngẩn và sẽ tiếp tục bồi hoàn sau khi cuộc khủng hoảng tài chính Đức có dấu hiệu chững lại. Với giọng cảnh cáo, Lamont còn nói rằng, nếu chính phủ để cho hệ thống tài chính châu Âu sụp đổ thì sự suy thoái của Mỹ càng thêm nặng nề.

Trước đây, tổng thống Hoover đã thoả thuận với chính phủ Pháp về chuyện bồi hoàn chiến tranh của Đức. Bất cứ việc gì liên quan đến vấn đề bồi thường chiến phí của Đức đều phải được chính phủ Pháp thông qua. Với tư cách là một chính trị gia, Hoover không thể nuốt lời. Vì thế, Hoover lập tức trả lời một cách thẳng thắn rằng: “Tôi sẽ suy nghĩ chuyện này, nhưng nếu xét từ góc độ chính trị, việc này không khả thi lắm. Ông là người New York thì làm sao có thể hiểu được mối lo về khoản nợ chưa trả giữa các chính phủ này(7).

Lamont cũng không phải tay vừa và đáp trả: “Những ngày này chắc ngài đã nghe thấy không ít lời đồn đại rằng, trong danh sách ứng cử viên tổng thống năm 1932 của Đảng Cộng hoà sẽ không có tên ngài. Nếu ngài làm theo kế hoạch của chúng tôi, những tin đồn này sẽ không bao giờ xuất hiện nữa”.

Cuối cùng, Lamont còn chìa ra một củ cà rốt cho tổng thống Hoover với thông điệp rằng, nếu như sự việc thành công, toàn bộ công lao sẽ thuộc về tổng thống. Hoover đã suy nghĩ cả tháng trời để rồi cuối cùng đành phải gật đầu đồng ý.

Đến tháng 7 năm 1932, Lamont lại một lần nữa phái người đến Nhà Trắng nói cho tổng thống biết rằng cần phải suy nghĩ lại vấn đề bồi hoàn chiến tranh của nước Đức. Lần này, không thể chịu đựng nổi, với vẻ tức giận tột độ, Hoover đã quát lớn:

“Lamont đã làm hỏng bét cả mọi việc. Nếu như có một việc khiến người dân Mỹ tức giận và phản đối, thì đó chính là mưu mô này (miễn trừ hoặc hoãn các khoản nợ của Đức, Anh, Pháp đối với Mỹ). Lamont chẳng hiểu gì về sự phẫn nộ của cả nước Mỹ đối với các ngân hàng. Các ngân hàng muốn biến chùng tôi (các chính trị giai trở thành đồng mưu của xã hội đen. Có lẽ họ đã đạt được một bấn thoả ước về khoản bồi thường chiến tranh với người Đức, nhưng lại hoàn thành bản thoả ước ấy theo một cách thức trắng trợn nhất(8). Kết quả là Hoover đã từ chối yêu cầu của phố Wall, và nước Pháp khất nợ.

Điều càng khiến cho các nhà tài phiệt ngân hàng phố Wall tức anh ách chính là hàng loạt thông tin xấu về tình hình tài chính xuất phát từ việc tổng thống Hoover cương quyết đối mặt với hành vi lũng đoạn thị trường cổ phiếu, tình trạng thất nghiệp nguy kịch chưa từng thấy cũng như sự suy thoái của nền kinh tế và thảm cảnh của dân chúng trong cơn bão thị trường cổ phiếu. Tất cả các vấn đề này tạo nên sự phẫn nộ kịch liệt đối với các ngân hàng phố Wall. Tổng thống Hoover được dân chúng ủng hộ đã quyết định vạch mặt các ngân hàng và yêu cầu phải làm cho ra nhẽ. Hoover thẳng thừng tuyên bố rằng, thị trường cổ phiếu New York là một sòng bạc lớn do nhà ngân hàng thao túng, các phần tử đầu cơ nhằm làm lũng đoạn thị trường-đã cản trở sự khôi phục niềm tin đối với thị trường. Hơn thế nữa, ông còn cảnh cáo Houston, vị chủ tịch Sở giao dịch chứng khoán New York rằng, nếu không hạn chế hành vi lũng đoạn thị trường cổ phiếu, ông sẽ yêu cầu quốc hội tiến hành điều tra và giám sát chặt chẽ thị trường cổ phiếu.

Câu trả lời của phố Wall đối với yêu cầu của tổng thống là rất dứt khoát và đơn giản: “Hoang đường!” Không thể chịu đựng hơn nữa, tổng thống Hoover bèn ra lệnh cho Ngân hàng Hạ nghị viện và uỷ ban tiền tệ tổ chức điều tra hành vi lũng đoạn thị trường cổ phiếu. Phố Wall lập tức phái Lamont đến Nhà Trắng ăn trưa cùng với tổng thống và Bộ trưởng ngoại giao hòng mong chặn đứng cuộc điều tra.(9j Ngay sau khi cuộc điều tra phanh phui ra những ám muội đằng sau thị trường cổ phiếu cuối thập niên 20, hàng loạt các thương vụ lớn nhỏ lần lượt bị lôi ra ánh sáng và gây chấn động dư luận. Rất nhiều thông tin xấu liên quan đến thị trường cổ phiếu của các công ty như tập đoàn Goldman Sachs, công ty Morgan bị phơi bày ra ánh sáng. Khi mối quan hệ logic giữa hiện tượng rớt giá của thị trường cổ phiếu và sự tiêu điều của nền kinh tế được phanh phui giữa bàn dân thiên hạ thì sự giận dữ của người dân đã chĩa về hướng các ngân hàng.

Còn tổng thống Hoover và con đường chính trị của ông cũng đồng thời bị đứt đoạn giữa biển lửa giận dữ của cả các ngân hàng lẫn dân chúng. Và người thay thế ông chính là Franklin Delano Roosevelt – người được gọi là vị tổng thống vĩ đại nhất thế kỷ 20 của Mỹ.

3. Franklin Delano Roosevelt là ai?

Chính các bạn và tôi đều biết rằng, trên thực tế, các thế lực tài chính trong guồng máy quyền lực vĩ đại từ đời tổng thống Jackson đã bắt đầu khống chế chính phủ. Quốc gia này sẽ phải tiếp tục cuộc đấu tranh với giới ngân hàng từ thời Jackson, chỉ có điều là nó sẽ được diễn ra trên qui mô lớn hơn và rộng hơn mà thôi(10).

Roosevelt, ngày 21 tháng 11 năm 1933

Trong bản “cáo bạch chân tình” này của Roosevelt có một số điểm giống với những gì Wilson phát biểu năm đó.

Nếu Wilson chỉ là một học giả không am hiểu các mưu mô thủ đoạn của các ngân hàng thì Roosevelt lại là một nhân vật từng trải. Ngày 20 tháng 8 năm 1932, trong bài diễn thuyết tranh cử của mình ở bang Ohio, Roosevelt đã nói rằng:

Chúng tôi phát hiện thấy 2/3 nền công nghiệp Mỹ tập trung trong tay mấy trăm công ty, tuy nhiên, trên thực tế, những công ty này bị một nhóm không quá 5 nhân vật quan trọng khống chế. Chúng tôi phát hiện rằng, 30 nhà tài phiệt ngân hàng và kinh doanh chứng khoán là những người đóng vai trò quyết định đối với sự lưu thông tiền tệ của Mỹ. Nói một cách khác, quyền lực kinh tế tập trung cao độ trong tay của một số ít người. Tất cả những điều này là trái ngược với những gì mà tổng thống tiền nhiệm Hoover đã từng nói”(11).

Roosevelt tìm mọi cách để dân chúng Mỹ cảm thấy ông giống với tổng thống Jackson – người không đội trời chung với các nhà ngân hàng và rất được nhân dân mến mộ, một vị tổng thống dũng cảm chấp nhận khiêu chiến với các thế lực tài chính mưu mô xảo quyệt để bảo vệ người dân thấp cổ bé họng. Tuy nhiên, thật đáng tiếc, Roosevelt còn có quan hệ mật thiết với giới ngân hàng quốc tế chẳng thua gì tổng thống Hoover.

James Roosevelt – cố của Roosevelt – là người sáng lập nên Ngân hàng New York vào năm 1784, một trong những ngân hàng xuất hiện sớm nhất trong lịch sử nước Mỹ.

Ngân hàng này đã bị phát mãi trên thị trường công trái Mỹ vào năm 2006 do có dính líu đến việc thao túng giá công trái. Khi Roosevelt tranh cử tổng thống, ngân hàng này được George – anh họ của Roosevelt – điều hành. Cha của Roosevelt là một đại gia trong ngành công nghiệp Mỹ với sản nghiệp khổng lồ ở khớp nơi như mỏ than đá, đường sắt ông cũng đồng thời là người sáng lập nên công ty chứng khoán đường sắt miền Nam (Southern Railway Security Company) – một trong những công ty chứng khoán đầu tiên của Mỹ. Bản thân Roosevelt cũng đã từng tốt nghiệp khoa luật Đại học Harvard, sau đó hành nghề luật sư với khách hàng chủ yếu là công ty Morgan. Năm 1916, cùng với sự phát triển mạnh mẽ của lĩnh vực ngân hàng đồng thời được các thế lực tài chính hỗ trợ, khi mới 34 tuổi, Roosevelt đã được bổ nhiệm làm trợ lý Bộ trưởng Bộ Hải quân Mỹ. Bộ Hải quân chính là cổ đông cao cấp của Morgan và thường xuyên tác động đến Ramon để sắp xếp nơi ăn chốn ở cho Roosevelt tại Washington.

Roosevelt còn có một người chú đã từng giữ chức tổng thống Mỹ – Theodore Roosevelt – và một người anh họ khác là George E. Roosevelt – một nhân vật có máu mặt ở phố Wall. Trong thời kỳ đại sáp nhập ngành đường sắt, ông ta đã tái tổ chức ít nhất 14 công ty đường sắt, đồng thời còn nắm chức Chủ tịch của các công ty Guaranty Trust Compan, Chemical Bank, Guaranty Trust Company trực thuộc Morgan và hàng loạt các công ty lớn bé khác.

Dòng họ ngoại của Roosevelt cũng thuộc dòng thế phiệt trâm anh, có quan hệ thân thích với 9 đời tổng thống Mỹ.

Trong lịch sử cận đại của Mỹ, không có một vị tổng thống nào có được thế lực chính trị và nguồn vốn ngân hàng lớn hơn Roosevelt.

Năm 1921, Roosevelt thôi việc trong bộ máy chính phủ và về đầu quân cho phố Wall, trở thành chủ tịch hoặc phó chủ tịch của rất nhiều tổ chức tài chính. Lợi dụng mối quan hệ với các chính trị gia và các ông trùm ngân hàng, Roosevelt kiếm được những khoản lợi kếch xù cho các công ty của mình. Trong bức thư gửi cho Meh – một người bạn cũ ở Hạ nghị viện, Roosevelt đã viết rằng: “Vì mối quan hệ hữu nghị lâu dài giữa chúng ta, tôi hi vọng anh sẽ giúp tôi. Tôi đang mong kiếm được một số hợp đồng công trái từ tay Brooklyn mà hầu hết các công trái này đều có liên quan đến công trình thành phố. Tôi hi vọng bạn bè cũ có thể nhớ đến tôi. Lúc này tôi không thể quấy rầy họ, nhưng vì bạn của tôi cũng là bạn của anh, và nếu như có chút tình cảm dành cho tôi thì đó sẽ là sự giúp đỡ to lớn đối với tôi và tôi sẽ không bao giờ quên ơn(12)”.

Trong thư gửi cho một người bạn mới giành được một mối làm ăn lớn với Bộ Hải quân, Roosevelt viết rằng: “Bạn tôi bên hải quân tình cờ nói với tôi về một hợp đồng mua bán đại bác 203mm với công ty anh. Điều này khiến tôi nhớ lại sự hợp tác vui vẻ giữa chúng ta thời tôi còn là trợ lý Bộ trưởng Bộ Hải quân. Đề nghị anh thử xem xét khả năng công ty tôi tiêu thụ một số công trái của các anh. Tôi rất hy vọng anh sẽ cho phép đại diện của tôi gọi điện thoại cho anh để bàn về việc này(13).
Trong một số thương vụ làm ăn có mức lợi nhuận lớn, Roosevelt đã tuyên bố trắng trợn rằng “mối quan hệ hữu nghị cá nhân thuần tuý là chưa đủ”. Khi đọc những bức thư này, chúng ta có thể hình dung ra một tổng thống Roosevelt năng động ra sao.

Năm 1922, Roosevelt tham gia thành lập Công ty đầu tư Liên hợp châu Âu (United European Investors, Ltd), đồng thời giữ chức Chủ tịch Hội đồng quản trị công ty này. Trong ban cố vấn và Hội đồng quản trị của công ty này còn có cả nguyên thủ tướng Đức Wilhelm Cuno và Max Warburg – những kẻ chủ mưu gây ra nạn lạm phát tiền tệ siêu cấp ở Đức năm 1923 – và Paul – em trai của Max và là Phó chủ tịch kiêm tổng kiến trúc sư của Cục Dự trữ Liên bang Mỹ.

Trong 60.000 cổ phần ưu tiên được công ty này phát hành ra, Roosevelt là người nắm giữ số lượng lớn nhất. Công ty Đầu tư Liên hợp châu Âu chủ yếu thực hiện các vụ buôn bán đầu cơ ở Đức. Trong cơn bão lạm phát tiền tệ siêu cấp ở Đức, khi người dân Đức bị bóc lột đến cùng thì công ty này lại phất nhanh như diều gặp gió(14).

Nạn lạm phát tiền tệ siêu cấp được coi là “cỗ máy thu hoạch siêu hạng”. Trong cuộc khủng hoảng tiền tệ năm 1923 ở Đức, một lượng lớn tài sản của người dân rơi vào tay các nhà tài phiệt. Cuộc khủng hoảng này đã phản ánh một cách chân thực nhất “sự băng hoại đạo đức của một lớp người trong xã hội. Chỉ cần có trong tay một vài đồng đô-la Mỹ hoặc bảng Anh, bất kể ai cũng có thể ăn sung mặc sướng như đế vương. Vài đồng đô-la Mỹ có thể khiến cho người ta trở nên giàu có như phú ông. Người nước ngoài chen nhau đến đây, đâu đâu giá cả cũng rẻ mạt khiến người ta tranh nhau mua nhà cửa, đất đai, sản phẩm nghệ thuật của người Đức(15).

Cũng giống như những gì đã xảy ra trong cơn bão lạm phát tiền tệ siêu hạng ở Liên Xô thời kì đầu thập niên 90, một lượng lớn tài sản xã hội ở Đức đã bị tước đoạt, giai cấp tư sản bậc trung lâm vào cảnh khánh gia bại sản, đồng đô-la Mỹ hay đồng bảng Anh đột nhiên có giá. Keynes đã từng nói: “Việc áp dụng biện pháp tạo ra nạn lạm phát tiền tệ siêu cấp có thể giúp một số người mặc sức tước đoạt tài sản của nhân dân. Trong quá trình đó, phần lớn dân chúng sẽ trở nên bần cùng, trong khi một số ít lại giàu lên trông thấy… Quá trình này tích tụ những nhân tố tiềm ẩn phá hoại quy luật kinh tế mà trong cả triệu người cũng chẳng có ai nhận ra căn nguyên của vấn đề”.

Roosevelt đã từng phê phán kịch liệt mối quan hệ thân mật giữa Hoover và phố Wall đồng thời tự xem mình là vị cứu tinh của dân chúng. Tuy nhiên, điều này lại mâu thuẫn với những gì mà ông đã làm trên thực tế trước đây.

4. Loại bỏ chế độ bản vị vàng: Sứ mệnh lịch sử của ngân hàng trao cho Roosevelt Dưới sự chế ước của bản vị vàng, cuộc chiến tranh thế giới lần thứ nhất đã khiến cho gánh nặng nợ nần của các nước châu Âu trở nên nặng nề. Nếu không có Cục Dự trữ Liên bang Mỹ tập trung huy động nguồn tài chính cho cuộc chiến thì có lẽ quy mô chiến tranh chỉ ở mức cục bộ.

Chiến tranh thế giới lần thứ nhất đã mang lại cho các ngân hàng quốc tế một cơ hội làm giàu. Dù có sự hỗ trợ của Cục Dự trữ Liên bang Mỹ, song dưới sự khống chế nghiêm ngặt cua bản vị vàng, các ngân hàng cũng không thể yên tâm với lượng tài chính vá víu và khó có thể chống đo nổi một cuộc đại chiến khác ở cấp độ toàn cầu. Vì vậy, việc phế bỏ bản vị vàng đã trở thành nhiệm vụ khẩn cấp của các ngân hàng quốc tế.

Trong diễn biến năm ngàn năm của lịch sử xã hội loài người, vàng đã dần dần trở thành một loại tài sản được các nước trên thế giới công nhận. Mối quan hệ tất yếu của người dân đối với vàng đã trở thành logic tự nhiên trong đời sống. Khi không đồng ý với chính sách và tình hình kinh tế của chính phủ, người dân có thể chọn cách đem tiền giấy mà họ đang nắm giữ trong tay đổi thành tiền vàng rồi đợi thời cơ tốt hơn. Trên thực tế, vấn đề hoán đổi từ tiền giấy sang vàng đã trở thành nền tảng tự do kinh tế cơ bản nhất của người dân, và chỉ có trên cơ sở này, sự tự do của bất cứ nền dân chủ hay hình thức xã hội nào mới có được đầy đủ ý nghĩa thực tế của nó. Việc chính phủ cưỡng chế quyền đổi tiến giấy thành vàng của người dân cũng có nghĩa rằng, sự tự do cơ bản nhất của người dân đã bị tước đoạt.

Trong tình trạng xã hội bình thường, việc phế bỏ bản vị vàng tất sẽ dẫn đến sự bất ổn nghiêm trọng trong xã hội, thậm chí còn có thể gây nên một cuộc cách mạng bạo lực.

Chỉ trong những tình huống bất đắc dĩ, người dân mới đành tạm thời hi sinh quyền lợi của mình. Đây chính là lý do tại sao các ngân hàng lại mong xảy ra khủng hoảng. Trước nguy cơ khủng hoảng và suy thoái kinh tế, người dân thường tỏ ra dễ thoả hiệp nhất, sự đoàn kết giữa họ dễ bị phá vỡ nhất, dư luận dễ bị dẫn dắt nhất, sức tập trung xã hội dễ bị phân tán nhất và mưu kế của các nhà ngân hàng dễ được thực hiện nhất. Vì thế mà nạn khủng hoảng và suy thoái được các nhà ngân hàng xem như một thứ vũ khí lợi hại nhằm chống lại chính phủ và người dân.

Năm 1812, việc Ngân hàng thứ nhất của nước Mỹ bị giải thể đã dẫn đến sự báo thù của gia tộc Rothschild đồng thời làm bùng phát cuộc chiến tranh giữa Anh và Mỹ. Cuối cùng chính phủ Mỹ chịu nhượng bộ và lập nên ngân hàng thứ hai.

Năm 1837, tổng thống Jackson xoá bỏ Ngân hàng thứ hai của Mỹ. Các nhà tài phiệt ngân hàng lập tức bán đổ bán tháo công trái Mỹ trên thị trường London, thu hồi các khoản cho vay, khiến cho nền kinh tế Mỹ rơi vào suy thoái nghiêm trọng và tình trạng này kéo dài mãi cho đến năm 1848.

Trong các năm 1857, 1870, 1907, vì muốn ép chính phủ Mỹ xây dựng lại ngân hàng trung ương tư hữu, các nhà tài phiệt ngân hàng quốc tế lại một lần nữa cùng nhau tạo nên khủng hoảng tài chính. Cuối cùng, họ đã thành lập nên ngân hàng trung ương tư hữu – Cục Dự trữ Liên bang Mỹ – từ đó hoàn toàn khống chế quyền phát hành tiền tệ của Mỹ.

Mục đích cuối cùng của các nhà tài phiệt ngân hàng quốc tế trong cuộc đại suy thoái năm 1929 là xoá bỏ bản vị vàng, thực thi chính sách tiền tệ giá rẻ, tạo ra lộ trình tài chính cho cuộc chiến tranh thế giới lần hai.

Ngày 4 tháng 3 năm 1933, Roosevelt nhậm chức tổng thống Hoa Kỳ khoá 32. Ngay sau khi nhậm chức, Roosevelt đã tỏ rõ thái độ không khoan nhượng với phố Wall. Thậm chí, ngay trong buổi lễ tuyên thệ nhậm chức, ông đã tuyên bố rằng, kể từ ngày 6 tháng 3 năm 1933, các ngân hàng trên toàn quốc phải tạm ngừng kinh doanh để chính phủ chấn chỉnh lại cơ cấu tài chính, chỉ khi nào công tác điều tra sổ sách hoàn thành thì mới được mở cửa trở lại. Việc các ngân hàng bị tạm thời đình chỉ hoạt động được coi như hiện tượng lạ trong lịch sử nước Mỹ và khiến cho dân chúng vui mừng hoan hỉ. Nền kinh tế lớn nhất thế giới này đã tồn tại trong tình trạng “thoi thóp” mà trước đó chưa từng diễn ra vì hầu như không có một ngân hàng nào hoạt động suốt 10 ngày(16).

Tiếp đó, Roosevelt lại giám sát chặt chẽ các hoạt động điều tra đối với phố Wall vốn đã được bắt đầu từ thời tổng thống Hoover, chĩa mũi nhọn vào gia tộc Morgan. Trong một loạt vụ điều trần, Jack Morgan và cổ đông của ông ta bị xoay như chong chóng trước sự chứng kiến của toàn dân Mỹ.

Những cú đánh của Roosevelt nhắm vào các ngân hàng phố Wall cứ diễn ra liên tiếp, cú sau mạnh hơn cú trước. Cuối cùng, vào ngày 16 tháng 6 năm 1933, Roosevelt lại tung ra một cú đánh mạnh tay hơn nữa: ký “dự luật Glass-Steagall”, theo đó, công ty Morgan bị tách thành hai: Ngân hàng Morgan và Công ty Morgan Stanley. Ngân hàng Morgan chỉ có thể hoạt động theo mô hình truyền thống của một ngân hàng thương mại, còn công ty Morgan Stanley hoạt động theo mô hình của một ngân hàng đầu tư.

Roosevelt không hề nương tay đối với Sở giao dịch chứng khoán New York và đã ban hành các văn kiện như “Pháp lệnh chứng khoán 1933“ và “Pháp lệnh giao dịch chứng khoán năm 1934”, thành lập uỷ ban giao dịch chứng khoán (SEC) đồng thời phụ trách việc giám sát thị trường cồ phiếu.

Chính sách của tân tổng thống Roosevelt đã được dư luận trong xã hội đánh giá cao, giải toả được sự oán giận của dân chúng đối với các nhà tài phiệt ngân hàng phố Wall.

Ngay cả dòng họ Morgan cũng phải thừa nhận rằng: “Sự tôn sùng tổng thống Roosevelt tràn ngập khắp nơi. Mới nhậm chức tổng thống trong một tuần mà ông đã làm được nhiều điều kì diệu khiến cho giới tài phiệt phải lo lắng. Đất nước này chưa từng có những chuyện như vậy(17).

Năm 1933, thị trường cổ phiếu New York phất mạnh với mức tăng trưởng lên đến 54%.

Như một người anh hùng, Roosevelt tuyên bố mạnh mẽ rằng: “Đám buôn tiền đã tháo chạy khỏi thánh điện văn minh của chúng ta. Giờ đây, chúng ta đã có thể khôi phục lại diện mạo cổ xưa của thánh đường thần thánh này(18).

Vấn đề là, giữa bản chất của sự việc diễn ra và cảm nhận chung được những kẻ thân cận trung gian cố ý tạo nên thường tồn tại một sai lệch rất lớn, trong khi chúng ta khó tránh được ảo giác đối với những trường cảnh được đạo diễn một cách tài tình.

Sau khi tạm thời ngừng hoạt động, rất nhiều ngân hàng ở khu vực miền Tây – Trung Mỹ vốn kiên quyết từ chối gia nhập Cục Dự trữ Liên bang cũng không thể mở cửa trở lại.

Và đó thực sự là một thị trường rộng lớn được giới tài phiệt phố Wall dòm ngó. Người được lựa chọn vào chức Bộ trưởng tài chính của Roosevelt chính là Morgenthau – con trai của Henry Morgenthau đồng thời là một nhân vật có máu mặt ở phố Wall.

Ứng cử viên chức Chủ tịch Sở Giao dịch chứng khoán do Roosevelt lựa chọn càng khiến người ta dở khóc dở cười. Đó chính là Joseph Kennedy – nhà đầu cơ cổ phiếu nổi tiếng đã từng lũng đoạn thị trường cổ phiếu trước khi thị trường chứng khoán rơi vào vòng suy thoái trầm trọng năm 1929.

Trong thời kỳ khủng hoảng 1929-1933, sản nghiệp của Joseph đã tăng từ 4 triệu đô-la lên 100 triệu đô-la. Ông cũng là một nhân vật thân thuộc của Jack Morgan đồng thời là cha của tổng thống Kennedy lừng lẫy tiếng tăm sau này.

Người đề xuất dự luật Glass-Steagall để tách công ty Morgan chính là thượng nghị sĩ Glass – người tham gia hoạch định Dự luật Cục Dự trữ Liên bang Mỹ năm đó. Thực ra, dự luật này hoàn toàn không gây thiệt hại nặng nề cho công ty Morgan, ngược lại còn giúp cho công ty này ngày càng ăn nên làm ra. Trong số 425 nhân viên của công ty J.P. Morgan, có 125 người được chọn ra để xây dựng nên công ty Morgan Stanley, trong đó, 90% cổ phần thuộc về Jack Morgan và Ramon. Trên thực tế, sau khi chia tách, hai công ty vẫn hoàn toàn nằm dưới sự kiểm soát của Jack Morgan. Năm 1935, sau khi khai trương công ty, Morgan Stanley đã nhận thầu tiêu thụ lượng công trái trị giá 1 tỉ đô-la Mỹ, chiếm 25% số cổ phiếu của toàn thị trường(19). Trên thực tế, các công ty lớn phát hành công trái vẫn phải dựa vào uy lực này của Morgan người có ảnh hưởng lớn và có thể gây sức ép với Cục Dự trữ Liên bang Mỹ.

Cuộc điều trần của Quốc hội đối với Morgan được coi là màn kịch thú vị nhất và thu hút được sự quan tâm của dân chúng. Như vậy, Roosevelt đã có điều kiện để bí mật ban hành các pháp lệnh quan trọng nhằm loại bỏ bản vị vàng.

Ngày 11 tháng 3 năm 1933, chỉ một tuần sau khi nhậm chức, Roosevelt đã ban hành mệnh lệnh đình chỉ hoạt động hối đoái vàng của các ngân hàng với cái cớ giữ cho nền kinh tế ổn định. Tiếp đó, ngày 5 tháng 4, ông ta lại ra lệnh cho dân chúng giao nộp lại toàn bộ số vàng họ có cho chính phủ với giá hoán đổi là 20,67 đô-la Mỹ/ounce vàng. Ngoài một số ít tiền vàng hoặc vàng trang sức, bất cứ người nào cất giữ vàng đều sẽ bị phạt 10 năm tù giam và chịu khoản tiền phạt lên đến 250 nghìn đô-la Mỹ. Tuy được Roosevelt biện minh là “phương pháp tạm thời trong tình hình khẩn cấp”, song dự luật này đã kéo dài mãi đến năm 1974 mới được huỷ bỏ. Tháng Giêng năm 1934, Roosevelt lại thông qua “dự luật dự trữ vàng”, định giá vàng 35 đô-la Mỹ/ounce, nhưng người dân Mỹ không có quyền hoán đổi vàng. Vừa mới nộp vàng cho chính phủ với giá 20,67 đô-la/ounce, nay nguồn tích luỹ của họ đã giảm đi quá nửa, trong khi đám “khách hàng ưu tiên” của các ngân hàng quốc tế nhờ biết được thông tin nội bộ trước khi thị trường cổ phiếu suy sụp vào năm 1929 đã rút khỏi thị trường chứng khoán một lượng tiền vốn lớn và hoán đổi thành vàng để vận chuyển đến London. Lúc này, họ có thể bán vàng với giá 35 đô-la/ounce, và như vậy, giá vàng đã tăng tới 69,33% so với giá chính phủ thu mua trước đó.

Khi được Roosevelt hỏi về quan điểm liên quan đến các pháp lệnh định giá vàng, Thomas Gore – vị thượng nghị sĩ khiếm thị uyên thâm của nước Mỹ – đã lạnh lùng đáp rằng: “Rõ ràng đó là một trò ăn cướp, phải không, thưa tổng thống?” Đối với câu trả lời thẳng thẩn của thượng nghị sĩ Thomas Gore, Roosevelt luôn luôn canh cánh trong lòng một nỗi ưu tư. Vị thượng nghị sĩ này chính là ông nội của Al Gore, Phó tổng thống Mỹ sau này.

Vào năm 1948, Howard Buttett – một nghị sĩ khác suốt đời theo đuổi đường lối khôi phục bản vị vàng đã nói rằng:

“Tôi cảnh báo cho các ngài biết, các nhà chính trị của hai đảng đều sẽ phản đối việc khôi phục bản vị vàng. Những người nước ngoài phát tài nhờ chế độ tiền tệ giá rẻ của Mỹ cũng sẽ phản đối việc khôi phục chế độ bản vị vàng. Các ngài cần phải chuẩn bị trí tuệ và sự nhạy bén để đối mặt với sự phản đối của họ”(20).

Dù suốt đời nung nấu ý định khôi phục bản vị vàng nhưng Buffett cha không thể tận mắt chứng kiến sự việc đó, và niềm tin này đã ăn sâu vào tâm tri con trai ông – Warren Buffett – ông vua cổ phiếu với tiếng tăm lửng lẫy khắp thế giới. Năm 1997, với suy nghĩ rằng chế độ tiền tệ pháp định tất yếu sẽ sụp đổ, trong khi giá bạc rớt gần xuống mức thấp nhất trong lịch sử, Buffett đã quyết định mua vào 1/3 lượng bạc trên thế giới.

Việc loại bỏ hoàn toàn vai trò của vàng trong hệ thống tiền tệ không phải là chuyện đơn giản và nhẹ nhàng. Quá trình này phải được thực thi theo ba giai đoạn. Bước thứ nhất là loại bỏ tiền vàng đang được lưu thông cũng như xoá bỏ việc hoán đổi vàng trong phạm vi nước Mỹ. Bước thứ hai là loại bỏ chức năng tiền tệ của vàng trên phạm vi thế giới.

Năm 1944, Quy chuẩn hối đoái đô-la Mỹ (Dollar Exchange Standard) do Bretton Woods System xây dựng đã thay thế Quy chuẩn hối đoái vàng (Gold Exchange Standard). Bước cuối cùng là do Tổng thống Nixon thực hiện vào năm 1971.

Keynes là người phất cờ hô hào, còn các nhà tài phiệt ngân hàng đồng thanh phụ hoạ. Và cuối cùng, với những thủ đoạn lừa gạt, Roosevelt đã xoá bỏ được chế độ bản vị vàng. Cũng chính vì thế mà sự thâm hụt tài chính và tiền tệ giá rẻ đã manh nha hình thành.

Keynes đã từng nói một câu nổi tiếng rằng: “Về lâu dài, chúng ta đều sẽ chết”, nhưng hậu quả của những hành vi mà các nhà ngân hàng đã gây ra thì vẫn còn mãi với lịch sử

5. Adolf Hitler đã phát tài nhờ ai?

Tờ New York Times ngày 24 tháng 11 năm 1933 đã đưa tin về một cuốn sách gây nhiều tranh cãi của Sidney Warburg. Được xuất bản sớm nhất ở Hà Lan năm 1933, sau vài ngày nằm trên kệ, cuốn sách này đã bị cấm. Một số cuốn sót lại đã được dịch sang tiếng Anh và được trưng bày trong Viện bảo tàng Anh, nhưng về sau bị cấm lưu hành trong công chúng. Có nhiều thông tin cho rằng, Sidney Warburg – tác giả cuốn sách này – là thành viên của gia tộc Warburg, một trong những dòng họ lớn nhất nước Mỹ trong lĩnh vực ngân hàng. Tuy nhiên, gia tộc Warlburg đã kiên quyết phủ nhận thông tin này.

Cuốn sách này đã tiết lộ bí mật liên quan đến sự tài trợ của các nhà tài phiệt ngân hàng Anh – Mỹ trong việc ủng hộ Adolf Hitler lên nắm quyền ở Đức. Căn cứ theo những ghi chép của tác giả cuốn sách, năm 1929, thông qua kế hoạch Dawes và kế hoạch Young, giới tài phiệt phố Wall muốn giúp Đức hoàn trả hết các khoản bồi thường chiến tranh. Từ năm 1924 đến 1931, phố Wall đã cung cấp cho Đức một khoản vay tổng cộng lên đến 138 tỉ mác Đức. Tuy nhiên, trong thời gian này, Đức chỉ chi ra tổng cộng 86 tỉ mác cho việc bồi thường chiến tranh, số tiền còn lại Đức đã dùng để khôi phục lại tiềm lực quân sự của mình nhằm chuẩn bị cho cuộc chiến tranh. Những khoản cho Đức vay trên thực tế là nhờ vào việc tiêu thụ công trái, và vì thế mà Morgan và dòng họ Warburg đã nhanh chóng ăn nên làm ra.

Trong quá trình này đã xuất hiện một vấn đề nan giải: Chính phủ Pháp thể hiện sự kiên quyết đến cùng trong chính sách bồi thường chiến phí của Đức. Chính sách này khiến cho một phần lớn các khoản cho vay của Mỹ đối với Đức và Áo bị phong toả, trong khi khoản chiến phí mà Đức bồi thường cho Pháp lại do các ngân hàng phố Wall cung cấp.

Tháng 6 năm 1929, nhận thấy Pháp ngày càng gây ra nhiều điều chướng tai gai mắt nên các nhà ngân hàng phố Wall đã tụ họp với nhau. Tham gia cuộc họp có cả Morgan, Rockefeller và những nhân vật đầu não của Cục Dự trữ Liên bang Mỹ nhằm bàn thảo cách thức “giải phóng” nước Đức ra khỏi áp lực của Pháp. Hội nghị đã đi đến thống nhất là cần phải thông qua một giải pháp mang tính “cách mạng” để giúp Đức thoát khỏi sự kiềm chế của nước Pháp. Một ứng cử viên cho vị trí lãnh tụ chính là Adolf Hitler. Và thế là với tấm hộ chiếu ngoại giao Mỹ trong tay cùng bức thư của tổng thống Hoover và Rockefeller, Sidney Warburg nhận lệnh tiến hành tiếp xúc riêng với Adolf Hitler.

Cuộc tiếp xúc giữa Sidney và Hitler không hề thuận lợi. Lãnh sự quán Mỹ đóng tại Munich bất lực nên phải nhờ đến sự giúp đỡ của thị trưởng Munich mới có thể dàn xếp cho Sydney gặp được Adolf Hitler. Trong lần gặp đầu tiên, điều kiện mà các nhà ngân hàng phố Wall đưa ra là “áp dụng chính sách ngoại giao tấn công, kích động làn sóng phản đối Pháp”. Mức giá mà Adolf Hitler đưa ra cũng quá cao, đòi phải có 1 tỉ mác. Sidney chuyển báo cáo yêu cầu này của Hitler về New York. Các nhà tài phiệt ngân hàng cảm thấy bực bội với con sư tử to miệng Adolf Hitler và đề xuất giá 10 triệu đô-la Mỹ. Lúc này, do chưa có tên tuổi gì trên chính trường nên Adolf Hitler đã gật đầu đồng ý ngay.

Theo yêu cầu của Adolf Hitler, khoản tiền này được chuyển vào Mendelsohn & Co. Bank – một ngân hàng ở Hà Lan, sau đó chia thành nhiều chi phiếu để gửi đến 10 thành phố của Đức. Khi Sidney quay về New York báo cáo với các nhà tài phiệt ngân hàng, Rockefeller tỏ ra rất lấy làm ưng ý với chủ trương Quốc xã của Adolf Hitler. Liền sau đó, tờ New York Times trước đây chẳng thèm đến xỉa gì đến Adolf Hitler đột nhiên chuyển sang giới thiệu học thuyết Quốc xã cũng như thân thế con người chưa có gì nổi trội trên chính trưởng này. Tháng 12 năm 1929, Đại học Harvard cũng bắt đầu nghiên cứu sự vận động chủ nghĩa Quốc xã Đức.

Năm 1931, tổng thống Hoover ký thoả thuận với chính phủ Pháp với điều khoản rằng, bất cứ phương án giải quyết công nợ chiến phí nào của chính phủ Đức cũng đều phải được thông qua ý kiến của Pháp. Và cũng chính vì thế mà ông ta đã bị thất sủng ở phố Wall. Rất nhiều nhà nghiên cứu lịch sử cho rằng, thất bại sau này của tổng thống Hoover có liên quan trực tiếp với việc này.

Tháng 10 năm 1931, Adolf Hitler gửi cho Sidney một bức thư. Vậy là các nhà tài phiệt ngân hàng của phố Wall lại triệu tập một cuộc hội nghị khác với sự tham gia của Norman – Chủ tịch Ngân hàng Anh. Hội nghị diễn ra với hai luồng ý kiến: luồng thứ nhất là những người ngả theo hướng Adolf Hitler do Rockefeller đại diện; luồng thứ hai là những người còn do dự. Norman cho rằng việc tốn 10 triệu đô-la Mỹ cho Hitler đã là đủ lắm rồi, và ông nghi ngờ rằng Adolf Hitler sẽ chẳng bao giờ hành động cả. Nhưng quyết định cuối cùng của hội nghị vẫn là ủng hộ Adolf Hitler thêm một bước nữa.

Sidney lại đến Đức một lần nữa. Tại hội nghị dưới sự chủ trì của những người ủng hộ Hitler, có người đã đề xuất với Sidney rằng đội quân tiên phong của Đức quốc xã và đội quân bảo vệ đảng đang rất thiếu súng máy, tiểu liên và súng lục. Lúc này, tại các thành phố của Bỉ, Áo, Hà Lan, một lượng lớn vũ khí đều đã được tập kết. Chỉ cần chi tiền thì ngay lập tức Đức quốc xã có thể được cung cấp hàng.

Adolf Hitler nói với Sidney rằng ông ta có hai kế hoạch, hoặc dùng bạo lực để đoạt chính quyền hoặc chấp chính một cách hợp pháp. Adolf Hitler giải thích cụ thể hơn rằng: “nếu dùng bạo lực để đoạt quyền thì cần 500 triệu mác Đức, còn nếu chấp chính một cách hợp pháp thì cần 200 triệu mác”.

Năm ngày sau, phố Wall chỉ đạo Sydney qua điện tín: “Hoàn toàn không thể chấp nhận số tiền này. Hãy giải thích với hấn ta rằng, việc huy động một lượng tiền lớn như vậy đến châu Âu sẽ gây ra tác động xấu cho cả thị trường tài chính”.

Sidney viết thêm một báo cáo khác, ba ngày sau, điện báo của phố Wall trả lời: “Chuẩn bị chi 10 triệu, tối đa 15 triệu đô-la Mỹ. Đề nghị người này dùng chính sách đối ngoại tấn công”.

Phương án chấp chính một cách hợp pháp trị giá 15 triệu đô la Mỹ cuối cùng đã được các nhà ngân hàng phố Wall thông qua. Cách thức chi trả đương nhiên là phải được thực hiện một cách tinh vi. Các nhà ngân hàng đã chuyển 5 triệu đô-la Mỹ qua ngân hàng Mendelsohn & Co. Bank, Hà Lan, 5 triệu qua Ngân hàng Rotterdam, 5 triệu nữa qua Ngân hàng Italiana.

Ngày 27 tháng 2 năm 1933, ngay trong đêm xảy ra vụ hoả hoạn tại toà nhà Quốc hội Đức, Sidney và Adolf Hitler đã tiến hành hội đàm lần ba. Adolf Hitler đề xuất thêm ít nhất 100 triệu mác để hoàn thành việc cướp chính quyền.

Phố Wall chỉ đồng ý chi tối đa là 7 triệu đô-la Mỹ nữa mà thôi Adolf Hitler đề nghị chuyển 5 triệu đô-la Mỹ vào ngân hàng Italiana, 2 triệu còn lại chuyển vào công ty Renania của Desseldorf.

Sau khi hoàn thành sứ mệnh cuối cùng, Sydney đã không khỏi cảm khái rằng:

“Tôi đã chấp hành nghiêm túc sứ mệnh của tôi đến tình tiết cuối cùng. Adolf Hitler là nhà độc tài lớn nhất châu Âu. Thế giới này chỉ còn mấy tháng để quan sát ông ta mà thôi. Hành vi của ông ta sẽ chứng minh sự tốt xấu của bản thân ông ta. Tôi

cho rằng, ông ta là một kẻ xấu. Đối với người dân Đức, tôi thật lòng hi vọng những gì mình nói là sai lầm. Thế giới này vẫn cứ phải khuất phục Adolf Hitler. Ôi thế giới này thật đáng thương, loài người thật đáng thương”.

6. Đức quốc xã dưới sự ủng hộ tài chính của phố Wall

Ngày 30 tháng 1 năm 1933, Adolf Hitler trở thành thủ tướng Đức. Nước Đức đã hoàn toàn thoát khỏi nạn lạm phát tiền tệ siêu cấp năm 1923 và bắt đầu công cuộc khôi phục nền kinh tế với tốc độ nhanh chóng. Tuy đang phải gánh chịu các khoản chiến phí khổng lồ nhưng Đức đã trang bị cho mình một đội quân hùng mạnh nhất châu Âu với tốc độ kinh hồn. Ngày 1 tháng 9 năm 1939, Đức đã phát động cuộc chiến tranh thế giới lần thứ hai, nghĩa là họ chỉ mất sáu năm để chuẩn bị cho cuộc chiến tranh này!

Trong khi đó, cường quốc số một thế giới là Mỹ vẫn đang ngụp lặn trong cuộc đại khủng hoảng năm 1929. Mãi đến năm 1941, khi Mỹ trực tiếp tham chiến, tình hình kinh tế của nước này mới được khôi phục một cách cơ bản.

Nếu không có nguồn tài chính khổng lồ hỗ trợ từ bên ngoài thì việc Đức khôi phục lại hoàn toàn nền kinh tế và chuẩn bị chiến tranh quy mô lớn chỉ trong thời gian ngắn ngủi 6 năm quả là điều không tưởng. Như vậy, thông qua việc hỗ trợ tài chính cho Hitler, giới tài phiệt phố Wall muốn phát động một cuộc chiến tranh với quy mô lớn. Quả là khó có cách giải thích nào hợp lý hơn.

Ngay từ rất sớm, khi lạm phát tiền tệ siêu cấp của Đức vừa mới bình lặng trở lại vào năm 1924, các nhà tài phiệt phố Wall đã bắt đầu lên kế hoạch giúp Đức chỉnh quân chuẩn bị chiến tranh. Kế hoạch Dawes năm 1924 và kế hoạch Young năm 1929 đều được hoạch định cho mục đích này. Có thể nói, kế hoạch Dawes phù hợp hoàn toàn với kế hoạch của các nhà kinh tế – quân sự thuộc Bộ Tham mưu Đức(22).

Owen Young – Tổng giám đốc Công ty General Electric, thuộc tập đoàn Morgan, là nhà tài trợ chính của Công ty Đầu tư Liên hợp châu Âu do Roosevelt sáng lập. Cũng chính Owen Young đã sáng lập nên Ngân hàng thanh toán quốc tế (Bank of International Settlement) để điều phối các mối quan hệ hợp tác giữa các nhà ngân hàng quốc tế. Đúng như Caroll Quigley – nhà sử học nổi tiếng đồng thời là ân sư của Clinton ở Đại học George – đã chỉ ra rằng: “Ngân hàng thanh toán quốc tế đang tạo ra một hệ thống tài chính để khung chế thế giới, một tổ chức bị một nhóm người khống chế, có thể chi phối cả chính trị và kinh tế thế giới(23).

Từ năm 1924 đến năm 1931, thông qua hai kế hoạch này phố Wall đã cung cấp cho Đức khoản vay tổng cộng 138 tỉ mác Đức, trong khi tổng số tiền bồi thường chiến tranh của Đức trong thời kỳ này chỉ là 86 tỉ mác. Trên thực tế Đức đã có được một khoản hỗ trợ tài chính khổng lồ trị giá 52 tỉ mác từ Mỹ, nhờ đó mà nền công nghiệp quân sự của Đức đã phát triển với tộc độ chưa từng thấy. Ngay từ năm 1919, thủ tướng Anh Loyd George đã dự báo rằng, những khoản bồi thường khổng lồ mà Đức khó có thể chịu đựng được theo hiệp ước hoà bình Versaille sẽ khiến người Đức hoặc là quỵt nợ hoặc là phải phát động chiến tranh. Và thật đáng tiếc, Đức đã chọn cả hai cách thức này.

Chứng kiến việc các nhà máy quân sự hiện đại của Đức đang mọc lên như nấm sau mưa, trong khi các phân xưởng sản xuất của Mỹ lại đang oằn lưng vì thương tích trong cơn đại suy thoái, nghị sĩ Mỹ McFadden đã cay đắng chỉ trích các ngân hàng phố Wall và Cục Dự trữ Liên bang Mỹ – những kẻ chủ mưu trong việc đem tiền nộp thuế của người dân Mỹ đi tài trợ cho cỗ máy chiến tranh của Đức:

“Thưa Ngài chủ tịch, nếu bán vũ khí cho quân đội Nhật sử dụng ở vùng Mãn Châu (đông bắc Trung Quốc) hoặc những nơi khác, công ty Nobel của Đức có thể dùng đô-la Mỹ để kết toán các chi phiếu bán hàng, sau đó công khai giải ngân tại thị trường New York. Cục Dự trữ Liên bang Mỹ sẽ giúp họ giải ngân đồng thời dùng chúng làm thế chấp để phát hành tiền giấy đô-la Mỹ mới. Trên thực tế, Cục Dự trữ Liên bang Mỹ đang giúp cho công ty này của Đức đẩy được hàng tồn kho vào hệ thống ngân hàng của Mỹ. Việc đã rõ ràng như vậy, tại sao chúng ta còn phải cứ đại diện đến Genève để tham gia hội nghị giải trừ quân bị? Không phải là uỷ ban Cục Dự trữ Liên bang Mỹ và ngân hàng Cục Dự trữ Liên bang Mỹ đang khiến cho chính phủ nước ta hoàn trả thay cho phía Nhật Bản những khoản nợ lừ công ty vũ khí Đức hay sao?”(24).

Ngoài việc cung cấp những khoản tài chính ngắn hạn lãi suất thấp đối với nền công nghiệp quân sự của Đức và Nhật trên thị trường hối phiếu thương mại New York, Cục Dự trữ Liên bang Mỹ còn đem nguồn vàng dự trữ của Mỹ trực tiếp vận chuyển sang Đức.

Một lượng tiền khổng lồ vốn thuộc về người gửi trong ngân hàng Mỹ được chuyển đến Đức mà chẳng có bất cứ một thế chấp nào. Uỷ ban Cục Dự trữ Liên bang Mỹ và Ngân hàng Dự trữ Liên bang Mỹ chỉ dựa vào mỗi hối phiếu thương mại của người Đức để phát hành tiền tệ của Mỹ. Nguồn tiền trị giá mấy chục tỉ đô-la Mỹ được bơm vào nền kinh tế Đức, và quá trình này đến ngày nay vẫn còn được tiếp tục. Hối phiếu thương mại giá rẻ của Đức được định giá và kéo dài thời hạn ở New York, và thứ bị đem ra thế chấp chính là uy tín của chính phủ Mỹ, còn thứ được đem ra để chi trả chính là người dân Mỹ. Ngày 27 tháng 4 năm 1932, Cục Dự trữ Liên bang Mỹ đã chuyển đi một khối lượng vàng vốn thuộc về nhân dân Mỹ trị giá đến 750 nghìn đô-la Mỹ sang Đức. Sau một tuần, một khối ượng vàng khác trị giá 300 nghìn đô-la Mỹ cũng được vận chuyển sang Đức theo cách tương tự. Chỉ trong vòng 5 tháng, tổng lượng vàng mà uỷ ban Cục Dự trữ Liên bang Mỹ và Ngân hàng Cục Dự trữ Liên bang Mỹ vận chuyển sang Đức đã đạt mức 12 triệu đô-la Mỹ. Hầu như mỗi tuần đều có một chuyến tàu chở vàng từ Mỹ cập cảng nước Đức. Thưa ngài chủ tịch, tôi tin rằng người gửi tiết kiệm của ngân hàng Mỹ có quyền được biết Cục Dự trữ Liên bang Mỹ đã dùng tiền của họ vào việc gì(25).

Ngoài nguồn. giúp đỡ tài chính khổng lồ của phố Wall, cuộc cải cách chế độ tài chính của Adolf Hitler cũng đã có tác động tương đối lớn. Một trong những điểm quan trọng nhất chính là việc thu hồi quyền phát hành tiền tệ từ tay ngân hàng Trung ương tư nhân Đức. Sau khi thoát khỏi chương trình hiệu suất thấp chi phí cao do phải lấy công trái làm thế chấp để có thể phát hành tiền tệ, nền kinh tế của Đức đã tăng trưởng với tốc độ tên lửa, tỉ lệ thất nghiệp của Đức trong năm 1933 là 30%, nhưng đến năm 1938 nước này lại thiếu lao động trầm trọng.

Sự giúp đỡ lớn trên các mặt kỹ thuật và tài chính của các công ty Mỹ đối với Đức đã không còn là bí mật, và nó được các nhà sử học sau này giải thích là những sự việc “ngoài ý muốn“ hoặc “hành vi với tầm nhìn hạn hẹp”. Chính những việc mang tính “tầm nhìn hạn hẹp ngoài ý muốn” này đã giúp cho năng lực sản xuất của nền công nghiệp quân sự Đức phát triển lên một tầm cao mới.

Năm 1934, năng lực sản xuất dầu mỏ của Đức là 300 nghìn tấn dầu thô và 80 tấn xăng tổng hợp (than đá quy đổi bang dầu), phần lợi nhuận hoàn toàn dựa vào nhập khẩu. Ngay sau khi công ty dầu khí tiêu chuẩn Mỹ chuyển quyền khí hoá dầu cho Đức, đến năm 1944, nước Đức đã sản xuất được 5,5 triệu tấn xăng tổng hợp và 1 triệu tấn dầu thô.

Cho dù Bộ kế hoạch quân sự Đức yêu cầu các xí nghiệp công nghiệp lắp đặt các thiết bị sản xuất hiện đại hoá để tiến hành sản xuất quy mô lớn, nhưng các chuyên gia kinh tế quân sự và các xí nghiệp công nghiệp của Đức hoàn toàn không thể hiểu được ý nghĩa của việc này. Mãi đến khi hai nhà máy sản xuất xe hơi chủ yếu của Mỹ xây dựng nhà máy ở Đức để tiến vào thị trường châu Âu thì mọi người mới hiểu ra căn nguyên của vấn đề. Các chuyên gia của Đức được cử sang Detroit để học tập kỹ thuật chuyên môn của mô hình sản xuất kiểu mẫu. Các kỹ sư Đức không chỉ được tham quan các nhà máy chế tạo máy bay, mà còn được cho phép quan sát các thiết bị quân sự quan trọng khác, từ đó họ đã học được rất nhiều kỹ thuật, và cuối cùng dùng chính những kỹ thuật này để đối phó với Mỹ(26).

Trong số các công ty giữ mối quan hệ hợp tác mật thiết với hệ thống sản xuất công nghiệp quân sự Đức có General Motor, hãng xe hơi Ford, hãng General Electric, Dupont Corporation. Tất cả các công ty này đều thuộc sự chi phối của Ngân hàng Morgan, Ngân hàng Rockefeller hoặc Ngân hàng Mahattan của Warburg.

7. Chiến tranh đắt đỏ và tiền tệ giá rẻ

Churchill từng có một câu danh ngôn như thế này: “Việc phát động chiến tranh còn khó khăn hơn rất nhiều so với kết thúc chiến tranh”.

Thoạt nghe thì câu nói này có vẻ bất hợp lý, nhưng nếu suy nghĩ thấu đáo, chúng ta mới thấy hết được chân lý của nó. Để kết thúc một cuộc chiến, thường chỉ cần đại biểu của chính phủ hai bên giao chiến ngồi lại thương thảo với nhau về điều kiện kết thúc cuộc xung đột.

Chuyện thua thiệt hay giành phần hơn cho từng bên sẽ được bàn thảo kỹ lưỡng và chẳng có giao dịch nào mà lại đàm phán không thành.

Nhưng, việc phát động chiến tranh thì quả là điều khó hơn nhiều, và việc thu hút sự thừa nhận của cả xã hội trong một xã hội dân chủ là một việc hao tâm tổn trí. Điều này đã khiến cho các nhà ngân hàng quốc tế điên đầu.

Đúng như Merton đã nói, “trong mắt của các nhà tài phiệt ngân hàng quốc tế, không có chiến tranh và hoà bình, không có khẩu hiệu và tuyên ngôn, cũng không có hy sinh hoặc danh dự. Họ xem thường tất cả những thứ đang làm mê hoặc đôi mất của người đời này”.

Napoleon – người đã nhìn thấu bản chất của các nhà tài phiệt ngân hàng quốc tế – cũng đã từng nhận xét một cách sắc bén rằng: “Tiền không có tổ quốc. Các nhả tài chính không biết thế nào là lòng ái quốc và sự cao thượng. Mục đích duy nhất của họ chính là thu lợi”.

Sau khi đã trải qua cuộc chiến tranh thế giới lần thứ nhất và cuộc đại khủng hoảng năm 1929, mặc dù thẳng tay nhưng người dân Mỹ không hề dễ dàng bị mắc lừa lần nữa.

Chẳng ai muốn con cái mình trở thành bia đỡ đạn cho các nhà tài phiệt ngân hàng ở chiến trường châu Âu. Khẩu cả nước dấy lên làn sóng “cô lập chủ nghĩa“ khiến các nhà tài phiệt ngân hàng bực bội.

Năm 1935, uỷ ban đặc biệt do nghị sĩ Gerald Nye lãnh đạo đã công bố một bản báo cáo dày hơn 1.400 trang. Trong bản báo cáo này, các chi tiết bí mật liên quan đến việc tham chiến của Mỹ đã được tiết lộ. Bản báo cáo cũng liệt kê âm mưu và các hành vi phi pháp của các nhà ngân hàng cũng như các công ty vũ khí của Mỹ trong quá trình tham chiến.

Sự đổ bể của hàng loạt vụ bê bối trong đợt sụt giá cổ phiếu năm 1929 ở phố Wall được phơi bày qua cuộc điều trần đối với Morgan không lâu trước đó đã khiến cho làn sóng phản chiến ở Mỹ dâng cao mãnh liệt. Lúc này, cuốn sách “Đường đến chiến tranh” của Miris càng kích thích sự tranh luận kịch liệt của dân chúng đối với vấn đề tham chiến. Trong tình hình như vậy, từ năm 1935 đến năm 1937, Mỹ đã thông qua ba dự luật trung lập, nghiêm cấm nước Mỹ tham gia vào guồng máy chiến tranh.

Về phương diện kinh tế trong nước, bộ máy chính phủ mới của Roosevelt đã bắt đầu vận hành được hơn 5 năm, nền kinh tế Mỹ vẫn chưa thấy khởi sắc, tỉ lệ thất nghiệp vẫn cao đến 17%. Đến năm 1938, nước Mỹ lại một lần nữa rơi vào cuộc suy thoái nghiêm trọng.

Các nhà tài phiệt ngân hàng và Roosevelt đều cho rằng, chỉ có chính sách thâm hụt tài chính siêu cấp do Keynes đã đề xướng với việc thả sức phát hành tiền tệ giá rẻ mới có thể cứu vãn được tình hình kinh tế lúc này. Và một cuộc chiến tranh trên quy mô lớn mới là tác nhân giúp các nhà ngân hàng có thể đạt được điều họ muốn.

Sau khi chế độ bản vị vàng bị phá bỏ vào năm 1933, mọi trở ngại trên con đường dẫn đến chiến tranh đã được tháo bỏ, mọi thứ đã được chuẩn bị chu đáo, chỉ còn thiếu cái cớ để thổi bùng cuộc chiến nữa mà thôi.

Charles C. Tansill – nhà sử học của Đại học George – đã cho rằng, đối với Nhật Bản, cuộc chiến tranh đã được hoạch định xong trước khi Roosevelt thượng đài vào năm 1933. Năm 1932, hải quân Mỹ đã xác nhận việc có thể gây thiệt hại nghiêm trọng cho hạm đội Thái Bình Dương nếu phát động tập kích bất ngờ trong vòng 96 km từ Trân Châu Cảng. Bộ phận tình báo Mỹ đã phá được mật mã của phía Nhật Bản vào tháng 8 năm 1940, đồng thời có thể giải mã được những bức điện báo của Nhật Bản trước đó. Máy phá mật mã do Mỹ chế tạo được chuyển giao đến các nơi trên thế giới, duy nhất đã bỏ sót Trân Châu Cảng, cơ sở hải quân lớn nhất của Mỹ tại khu vực Thái Bình Dương. Rất nhiều nhà sử học đều tin rằng, trước khi sự việc xảy ra thì Roosevelt đã biết được hải quân Nhật Bản sắp tấn công Trân Châu Cảng.

Ngày 13 tháng 1 năm 1943, tại Casablanca, Roosevelt và Churchill đã phát biểu rằng, Đức cần phải đầu hàng vô điều kiện. Tuyên bố này đã khiến cho nội bộ nước Đức phản đối Adolf Hitler, các thế lực chủ trương giảng hoà với các nước đồng minh được một phen hú vía. Ngay từ đầu tháng 8 năm 1942, Đức đã đề xuất điều kiện giảng hoà với các nước đồng minh và rút lui trước ngày 1 tháng 9 năm 1939 để kết thúc cuộc chiến tranh đại bại này(27).

Nội bộ nước Đức chủ trương lật đổ Adolf Hitler, trong khi lực lượng của chính quyền phát xít đã bắt tay xây dựng kế hoạch chính biến quân sự. Bản tuyên bố của Roosevelt đã châm chọc sự ảnh hưởng của lực lượng phản chiến trong nội bộ nước Đức. Kissinger đã giải thích động cơ của bản tuyên bố Casablanca của Roosevelt như thế này:

Roosevelt đã dựa vào bao nhiêu lý do để viết ra bản tuyên bố này (nước Đức cần phải đầu hàng vô điều kiện). Ông ta lo rằng việc thảo luận điều kiện hoà bình đối với Đức có thể dẫn đến bất đồng ý kiến giữa các nước đồng minh và hy vọng các nước đồng minh trước hết hãy tập trung sức lực để giành thắng lợi trong chiến tranh rồi mới bàn về các vấn đề kế tiếp. Ông ta cũng vội vàng quả quyết rằng, Stalin đã rơi vào bế tắc trong chiến dịch Volgagrad đồng thời nhấn mạnh rằng, Mỹ quyệt đối không được hoà hoãn một cách đơn độc đối với Đức. Nhưng nguyên nhân cơ bản nhất là Roosevelt cố gắng tránh để những người Đức sau này tuyên bố rằng năm đó nước Đức bị những lời bịp bợp gạ gẫm nên mới đình chiến(28).

Đương nhiên là Kissinger có lý, nhưng sự thực cuộc chiến tranh tàn khốc và cái giá phải trả quá cao đã bị kéo dài đến hơn hai năm, vô số sinh mạng và tài sản đã tan theo khói lửa chiến tranh. Hơn 6 triệu người Do Thái chết trong tay phát xít. Nếu chiến tranh kết thúc vào năm 1943 thì một phần lớn trong số họ có lẽ đã có cơ may còn sống sót. Suy cho cùng, trên bình diện hiệp thương đầu hàng có điều kiện của Đức, các nước đồng minh có thể có quyền trong việc phát ngôn.

Tuy nhiên, các nhà tài phiệt ngân hàng quốc tế không thể dễ dàng kết thúc cơ hội tốt đẹp như vậy để phát tài. Ngay khi ngọn lửa chiến tranh tất ngủm vào tháng 8 năm 1945, giá trị công trái Mỹ từ 16 tỉ đô-la Mỹ trong năm 1930 đã tăng vọt lên 269 tỉ đô-la Mỹ năm 1946. Chủ trương thâm hụt tài chính và tiền tệ giá rẻ của Keynes cuối cùng đã được “nghiệm chứng” trong khói lửa của cuộc chiến tranh thế giới lần thứ hai. Các nhà tài phiệt ngân hàng quốc tế lại phát tài thêm một lần nữa trong cuộc chiến tàn khốc này.

CHÚ THÍCH

(1) John Maynard Keynes, Hậu quả kinh tế của Hoà bình (The Economic Consequences of the Peace), 1919.

(2) Alan Greenspan, Vàng và tự do kinh tế (Gold and Economic Freedom), 1966.

(3) Murray N. Rothbard, Keynes (Keynes the Man).

(4) Murray N. Rothbard, Keynes (Keynes the Man).

(5) Murray N. Rothbard, Keynes (Keynes the Man).

(6) Eustace Mullins, Trật tự thế giới (The World Order: A Study in the Hegemony of parasitism) – Staunton, Virginia: Ezra Pound Institute, 1985; Chương 3.

(7) Ron Chernow, Gia tộc Morgan (The House of Morgun) – New York: Grove Press 1990; Chương 17.

(81 Ron Chernow, Gia tộc Morgan (The House of Morgun) – New York: Grove Press 1990, tr. 328.

(9) Ron Chernow, Gia tộc Morgan (The House of Morgun) – New York: Grove Press 1990, tr. 352.

(10) F.D.R: Thư từ cá nhân (New York: Duell, Sloan and Pearce 1950), tr. 373.

(11) Antony C. Sullon, phố Wall và F.D. Roosevelt (Wall Street and F.D. Roosevelt) – Arlington House Publishers 1975- Chương 1.

(12) Antony C. Sullon, phố Wall và F.D. Roosevelt (Wall Street and F.D. Roosevelt) -Arlington House Publishers 1975- Chương 2.

(13) Antony C. Sullon, phố Wall và F.D. Roosevelt (Wall Street and F.D. Roosevelt) -Arlington House Publishers 1975

(14) Antony C. Sullon, phố Wall và F.D. Roosevelt (Wall Street and F.D. Roosevelt) -Arlington House Publishers 1975-

(15) Marjori Palmer, Cuộc đại lạm phát cúa Đức từ 1918-1923; (1918-1923 German Hyperinflation) – New York: Traders Press, 1967.

(16) Glyn Davis. Lịch sử tiền tệ từ thời cổ đại đến nay (History of Money From Ancient Times to The Present Day) – University of Wales Press 2002, tr.512

(17) Ron Chernow, Gia tộc Morgan (The House of Morgan) – New York: Grove Press 1990); tr. 357.

(18) Ron Chernow, Gia tộc Morgan (The House of Morgan) – New York: Grove Press 1990); tr. 357.

(19) Ron Chernow, Gia tộc Morgan (The House of Morgan) – New York: Grove Press 1990); tr. 386-390.

(20) Biên niên sử thương mại và tài chính (The Commercial and Financial Chronicle), 6/5/1948.

(21) Nội dung của phần này được lấy từ cuốn phố Wall và sự trỗi dậy của Hitler (Wall Street and the Rise of Hitler) – tác giả Antony C. Sutton, (G S G & Associates Pub 1976) Chương 10.

(22) Lời khai trước Thượng nghị viện Hoa Kỳ, Uỷ ban các vụ việc quân đội, 1946.

(23) Carrol Quigley, Bi kịch và hy vọng (Tragedy & Hope) – Macmillan, 1966, tr. 308.

(24) Tài liệu lưu trữ của Quốc hội, 1932, tr. 1259-96.

(25) Tài liệu lưu trữ của Quốc hội, 1932, tr. 1259-96.

(26) Antony C. Sullon, phố Wall và F.D. Roosevelt (Wall Street and F.D. Roosevelt) -Arlington House Publishers 1975- Chương 1.

(271 Walter Schellenberg, Hồi ký Schellenberg (The Schellenberg Memoirs) – Andre Deutsch, London, 1956.

(28) Henry Kissinger, Thuật ngoại giao (Diplomacy) – Simon & Schuster, 1995, Chương 16.