Chúa tàu Kim Quy

Phần 1/Chương V

Ai đã từng trải cuộc đắng cay, đã có đớn đau vì ly biệt, thì mới biết những lúc buồn rầu chẳng có lúc nào khó chịu cho bằng lúc nghe tin cha mẹ mình đã tỵ trần mà du âm cảnh. Thủ Nghĩa trót mười một năm trường ngày đêm luống nhớ mẹ thương cha; khi vượt ra khỏi ngục thì quyết đi riết về nhà mà thăm cha mẹ; về đến quê xưa, thấy nhà cửa tiêu điều, mẹ cha đâu mất trong lòng tuy đau đớn nhưng mà còn tưởng rằng nếu ráng sức kiếm tìm có lẽ gặp nhau. Nào dè đến Cái Vừng, nghe mẹ cha đã sớm tách suối vàng, em gái cũng hồn du địa phủ; em rể thì vì thế mặt cho mình mà tán gia bại sản, thân bình bồng không biết trôi nổi đến xứ nào. Nếu người thường mà nghe tỏ các điều ấy thì dầu ruột bằng đá cũng phải mềm, dẫu mắt bằng sành cũng phải ướt. Mà Thủ Nghĩa không tỏ dấu ai bi đau đớn, cứ ngồi tỉnh tuồng mà hỏi phăng tới lần lần, thế thì đủ biết người vững lòng bền chí là dường nào, dầu lở núi cũng không nao, dầu sập trời cũng không núng.

Có lẽ vì sự hoạn nạn nó trau dồi thiêu đốt cái lòng anh ta đã lâu rồi nên ngày nay mới được cứng như vậy chăng? Chắc là tại như vậy, bởi vì từ khi nghe rõ việc nhà rồi ngồi ăn cơm cho đến lúc từ giã chủ nhà mà đi, anh ta chẳng tỏ dấu chi buồn thảm hết. Chừng bước ra khỏi nhà rồi thì lầm lũi mà đi hoài, đi khỏi xóm ra tới đồng lại băng trong đồng mà đi cứ ngó xuống đất chớ chẳng hề ngó qua ngó lại.

Nếu có ai cắc cớ lén đi theo mà coi thì ắt thấy Thủ Nghĩa ra khỏi xóm rồi ruột gan như cắt, nước mắt dầm dề, tay đấm ngực, miệng kêu trời, xem ra lấy làm thảm thiết lắm. Đi được một hồi gặp một gò mả bèn lên đó mà ngồi than khóc một mình, tức tối vì cha mẹ nhắm mắt mà không thấy được mặt con, rồi lại trách trời đất nỡ khuấy rối những người lương thiện. Thủ Nghĩa đau đớn trong lòng chịu không nổi mà nghĩ rằng mình vượt ngục là cố ý muốn về để gần gũi mẹ cha, nay mẹ cha đã chết hết rồi, thế thì mình còn mang cái thân cực khổ này chộn nhộn nơi dương trần nữa làm chi? Nghĩ như vậy nên tính tự vận mà chết, trước là trút cho hết cái nợ hồng trần, sau nữa đến suối vàng hoặc may có sum vầy cùng mẹ cha. Quyết chí rồi đứng dậy ngó quanh quất thì đồng trống minh mông, cách xa chừng một vài dặm thấy mé sông cái mới bươn bả đi lại đó đặng nhào xuống sông mà chết. Đi được vài công đất, trong trí nhớ tới Kỉnh Chi bèn đứng lại mà nghĩ thầm rằng: Kỉnh Chi vì một tiếng hứa hẹn, vì lòng tri kỉ với mình mà phải tán gia bại sản, ơn ấy rất nặng nề, nếu mình chết thì làm sao mà đền bồi cho được. Đã vậy mà mình bị lao tù rồi cha mẹ buồn rầu mà chết hết đây chắc là quân tiểu nhơn âm mưu khổ hại, cái oán này mình chưa trả được, nếu bỏ mà chết đi thì có đáng làm người đâu. Nghĩ như vậy rồi ngồi chồm hổm chống tay đỡ cằm mà tính, tính một hồi rồi đứng dậy nhắm hướng mặt trời lặn lầm lũi mà đi riết.

Thủ Nghĩa đêm ngày cứ đi hoài, khi thì xông lướt qua rừng khi thì hụp lặn mà qua bưng, đói kiếm xóm xin ăn, mệt lựa gò nằm nghỉ, đi được ba ngày bốn đêm mới tới một sóc Cao Miên.

Anh ta đi ngay vào sóc hỏi thăm mới biết đã đến Vũng Trạch rồi, từ đó qua Hà Tiên chẳng còn bao xa nữa. Thủ Nghĩa đi lần lần tính chẵn bảy ngày bảy đêm mới đến Hà Tiên. Đến nơi rồi anh ta mới tìm xóm rỗi biển, tính ở lại đó mà xin ở làm bạn rỗi.

Thủ Nghĩa đi dọc theo bãi biển; lúc ấy nhằm lúc ban mai, nước lớn, gió thổi lao rao, dưới chơn sàn sạt sóng cất vòi, ngoài cửa linh đinh thuyền chạy vát. Trước mặt thấy có ba bốn chiếc ghe rỗi đã về đến bến rồi đương cất cá lên bãi, kẻ khiêng người gánh, kẻ tát nước, người cuốn buồm, sau lưng nhìn có mấy cụm núi xanh xanh, lùm lùm chỗ thấp chỗ cao, chỗ phun khói lam như mây đen, chỗ đỏ lòm như lửa đốt. Nhìn xem phong cảnh ngó trời ngó nước, trong dạ đương bàng hoàng, thình lình sau lưng có một người đi tới vỗ vai anh ta mà hỏi rằng: “Làm gì mà đứng đây?”. Thủ Nghĩa giựt mình day lại thì thấy có một người độ trên 50 tuổi, quần áo cụt, râu tóc đã hoa râm, tướng mạo vạm vỡ, bộ tịch cứng cỏi, không biết là ai, nên ú ớ không biết sao mà trả lời. Người ấy thấy vậy bèn tiếp rằng:

- Chú em nó ở đâu lạ tôi không biết?

Thủ Nghĩa muốn thừa dịp làm quen đặng kiếm chỗ dung thân, nên đáp rằng:

- Thưa, tôi ở An Giang nghèo nàn không có chỗ làm ăn, nên vô đây tính kiếm chỗ ở đi bạn rỗi.

- Vậy sao? Nếu muốn ở bạn thôi về ở với tôi; không hại gì, ở với người ta bao nhiêu tôi cũng trả tiền công như ở với người ta vậy. Mà thuở nay chú em nó đã có biết đi biển hay chưa?

- Thưa, chưa.

Người ấy ngó Thủ Nghĩa rồi nói:

- Không hại gì, ở với tôi, tôi tập cho. Nghề đi biển không khó gì, đi chừng ít tháng thì quen; ai cũng vậy, thuở nay có ai học hành gì đâu. Thôi đi với tôi.

Người ấy dứt lời rồi dắt Thủ Nghĩa đi dựa theo mé biển về nhà; lúc đi dọc đường, hỏi Thủ Nghĩa rằng:

- Chú em nó có cha mẹ, vợ con chi hay không?

Thủ Nghĩa nghe hỏi đến việc nhà thì đau lòng chẳng xiết, nhưng mà muốn cho có chỗ ở yên, lại sợ quan trên người ta bắt nữa, nên phải gượng gạo mà nói rằng:

- Thưa, tôi không có vợ con chi hết, chỉ còn một mẹ già bây giờ đương ở với anh tôi ngoài An Giang.

- Tôi đây không có con, trong nhà có hai vợ chồng, thuở nay tôi chuyên có một nghề ra biển kiếm cá đem về cho vợ bán. Nói cho phải, nhờ trời đất phò hộ nên trong nhà thường đủ cơm ăn. Năm nay tôi đã 56 tuổi, trong mình có hơi mệt mỏi, nên tôi tính kiếm một người phụ với tôi đặng tôi nghỉ chút đỉnh.

Người này tên Nguyễn Văn Phi, thường người ta kêu là ông Tám Phi, lời nói nghe có dấu thiệt tình, nên Thủ Nghĩa trong bụng mừng thầm, chắc được yên thân mà chờ vận. Đi về tới cửa, ông Tám Phi dừng chơn rồi chỉ tay xuống mé biển mà nói rằng: “Đó, chiếc thuyền của tôi đánh cá đó”. Thủ Nghĩa ngó coi thì chiếc thuyền tuy không lớn, nhưng mà sửa soạn rất đẹp, xem qua thì cũng đủ biết người chủ thuyền kỹ lưỡng mà lại mến chiếc thuyền, nên hằng lo rửa chùi sạch sẽ luôn luôn. Lúc vô nhà thì thấy nhà cửa vén khéo mà vợ ông Tám Phi lại vui vẻ nữa.

Tám Phi nói việc mình tính mướn Thủ Nghĩa lại cho vợ nghe thì vợ mừng rỡ, khen chồng hay, chớ già cả rồi mà đi lưới có một mình mệt nhọc lắm. Thủ Nghĩa ăn nói nhỏ nhoi, tánh tình trung hậu, vợ Tám Phi càng ngày càng để lòng thương. Hễ ngồi thuyền ra khơi mà đánh cá thì ông Tám Phi chỉ cồn này hòn nọ, chỉ cách vát ngược chạy xuôi, chỉ mây sao mà biết mây nổi giông, chỉ nước sao mà biết nước gần lớn, nhờ vậy nên Thủ Nghĩa đã quen thuộc đường đi nước bước trong vịnh Xiêm, đã thông thạo cách coi buồm, cầm lái mà đi biển. Nhiều khi ông Tám Phi mệt ở nhà thì Thủ Nghĩa đi đánh cá một mình; lại nhiều lúc thuận gió cá nhiều Thủ Nghĩa với ông Tám Phi cũng có chạy tuốt vô cửa Cần Vọi, cửa Rạch Giá, hoặc cửa sông Đốc mà bán cá.

Thủ Nghĩa ở được một năm, tuy vợ chồng chủ nhà thương yêu như con ruột, nhưng mà anh ta chẳng hề khi nào dám lậu việc riêng, cứ xưng mình là Ba Cu ở An Giang mà thôi. Lúc buồn thường thương cha mẹ, nhớ tới em, thường giận kẻ tiểu nhơn gian mưu, thường thương phận Kỉnh Chi lưu lạc. Mà hễ nhớ tới chuyện nhà thì trong trí thầm quyết sẽ kiếm kế ra hòn Kim Qui mà tìm vàng, nếu quả được châu báu ngọc ngà y như lời Mạc Tiển nói với mình thì liệu kế mà đền ơn trả oán.

Bữa nọ vợ chồng ông Tám Phi trả tiền công cho Thủ Nghĩa ở một năm là mười quan, rồi nói với Thủ Nghĩa rằng mình nay già cả làm nghề chài lưới dầm sương trải nắng nữa không nổi mà thấy Thủ Nghĩa có nết siêng năng, có tình trung hậu thì thương, tính bán chịu chiếc thuyền cho Thủ Nghĩa làm chủ đi đánh cá một mình, đánh cá được bao nhiêu đem về bán lại mình mua, làm có tiền bao nhiêu thì trả lần bấy nhiêu, trả đủ một trăm quan thì làm chủ đứt chiếc thuyền, làm như vậy hoặc may ra Thủ Nghĩa mới khá được.

Thủ Nghĩa nghe vợ chồng Tám Phi tính như vậy thì xiết nỗi vui mừng, nghĩ thầm rằng nếu mình ráng chịu cực đi đánh cá mà góp cho đủ giá chiếc thuyền rồi thì mình làm chủ muốn ra kiếm hòn Kim Qui đi mới đặng. Bởi nghĩ như vậy nên anh ta chịu liền; thiệt anh ta ngồi thuyền đánh cá chưa đầy một năm mà trả nợ gần hết. Khi trả được 90 quan thì ông Tám Phi kêu mà cho đứt chiếc thuyền không đòi thêm nữa. Thủ Nghĩa có được chiếc thuyền chẳng khác nào như cá có vi, như chim đủ cách, trong lòng nóng nảy quyết tìm cho bằng được hòn Kim Qui mà thôi, ngặt lúc ấy gió nghịch nên phải nấn ná mà chờ, cứ đánh cá đem về đổi lấy tiền, người ngoài ai cũng tưởng Thủ Nghĩa quyết theo nghề chài lưới cho đến già, chớ không dè bình sanh nhiều nỗi đắng cay, trong bụng toan điều vĩ đại.

Qua tháng giêng năm sau, Thủ Nghĩa thấy có ngọn gió bấc thổi già mới quyết chí ra khơi tìm hòn Kim Qui. Anh ta sửa thuyền lại cho chắc chắn, sắm buồm lái cho hẳn hòi, mua gạo củi, nước mắm, cá khô, chở xuống thuyền rồi lại thăm vợ chồng ông Tám Phi và nói dối rằng lúc nầy đi làm cá không được nên tính ra Phú Quốc chở nước mắm về bán.

Đúng bữa rằm, khuya thức dậy nấu cơm ăn rồi trời hừng sáng Thủ Nghĩa mới giương buồm mở dây chỉ mũi hướng tây mà chạy.

Thuyền ra khỏi cửa rồi thì mặt trời vừa ửng mọc, Thủ Nghĩa ngó ngoái trở vô bờ thì thấy nhà cửa mờ mờ, trên có mấy cụm núi xanh xanh, dưới có mấy giăng rừng lúp xúp. Gió bấc thổi bọc cánh buồm làm túi, lượn sóng đùa đưa thuyền chạy như tàu, ào ào trước mũi nước tẽ hai, lũm chũm sau lưng tôm nhảy dựng. Thuyền chạy tới đứng bóng, Thủ Nghĩa ngó vô bờ thì chẳng còn thấy chi nữa hết, tư bề trời nước minh mông, trên dưới một màu liên tiếp; Thủ Nghĩa tay nắm lèo, chơn kềm lái, chí tang bồng khấp khởi với dòng xanh, nhớ chuyện cũ, tính đường đi, lòng ân oán chập chồng như non cả.

Thủ Nghĩa xem trời ngó nước, suy tới nghĩ lui một mình, dạ đương bồi hồi bỗng trước mũi thuyền dạng dạng có giăng núi nằm ngang, mà phía tay mặt xa xa lại có một giăng núi nữa. Anh ta định chắc trước mặt đó là hòn Phú Quốc, còn phía trên kia là núi Trà Lơn, bởi vậy cho nên tay nắm lèo cứ xuôi gió mà chạy hoài, đến trời tối vô tới bờ rồi mới xả neo thuyền mà nghỉ. Thủ Nghĩa nấu cơm ăn rồi gác tay lên trán, trên trời bóng trăng rằm vằng vặc, ngoài biển lượn sóng dập ồ ào; trên nhành bầy vượn giỡn chuyền con, canh vắng tiếng chim kêu tìm ổ. Thủ Nghĩa tuy ngồi coi lái trọn ngày mệt mỏi, nhưng mà trong lòng lo lắng nên nằm thổn thức trọn canh dài. Trời vừa hừng đông, anh ta vừa thức dậy nấu cơm ăn rồi mặt trời mọc thì kéo neo làm buồm chạy dọc theo mé hòn, tính kiếm người mà hỏi đường dọ nẻo. Thuyền chạy tới xế mới tới đầu hòn phía nam, ngó vô bờ thì thấy một cái ụ lớn, trong ụ có ba bốn chiếc thuyền đậu tại đó, lại có người ta đương phơi lưới. Anh ta liền bẻ lái trở buồm xông vô ụ; mấy người đương phơi lưới chẳng biết là thuyền của ai nên ngó sửng.

Thủ Nghĩa vô tới, xả buồm buộc thuyền xong rồi mới leo lên bờ đi lần lại chỗ mấy người phơi lưới mà hỏi rằng:

- Mấy anh ơi, không biết đây có phải là hòn Phú Quốc hay không, mấy anh?

Có một người ước chừng 40 tuổi, nghe hỏi tức cười đã không trả lời, lại hỏi Thủ Nghĩa rằng:

- Vậy chớ chú em nó ở đâu mà hỏi kỳ cục vậy?

- Tôi ở trong Hà Tiên, chủ tôi sai tôi đi kiếm đồi mồi với ổ yến. Tôi chạy trọn một ngày hôm qua đến tối mới tới hòn nầy, hồi hôm tôi đậu phía trên kia tôi ngủ rồi hồi sớm mai tới bây giờ mới xuống tới đây. Tôi chẳng có gặp ai mà hỏi thăm, mà thuở nay tôi cũng chưa đi đến đây, vậy xin mấy anh làm phước nói giùm coi hòn này là hòn gì.

- Phải, hòn nầy là hòn Phú Quốc, mà đây là mũi ông Đội, nhằm đầu hòn, hễ qua mũi nầy rồi thì thấy mũi Hạnh, từ mũi Hạnh đi trở lộn lên đó là Dương Đông.

- Người ta nói gần đây có một hòn kêu là hòn Kim Qui, chỗ ấy có đồi mồi nhiều lắm phải vậy không anh?

- Hòn Kim Qui đâu có đồi mồi, ai chỉ cho chú em đó?

- Chủ tôi biểu tôi ra đó coi như có thế bắt đặng thì bắt, bằng khó bắt thì hỏi giá cả cho chắc rồi về đem tiền ra mà mua.

- Không có đâu! Anh em tôi ở đây thuở nay không biết hay sao! Chú em nó đi thất công vô ích.

Thủ Nghĩa nghe nói liền khoanh tay trên cổ làm bộ tính thầm một hồi rồi nói rằng: “Mấy anh nói như vậy thì tôi đi cũng không ích gì. Cha chả! Mà chủ tôi sai tôi ra đó nếu tôi đi nửa chừng tôi trở về, chắc là bị rầy. Trong lòng tôi lưỡng lự không biết tính sao bây giờ”.

Có một người chừng 30 tuổi, nghe Thủ Nghĩa than như vậy bèn nói rằng:

- Nếu người ta biểu anh ra hòn Kim Qui mà anh đến đây rồi anh trở về như vậy sao cho phải. Đây xuống đó chẳng bao xa, chạy độ chừng một buổi thì tới, thà anh đi xuống đó không có anh trở về, vậy cho vừa lòng người ta chớ.

Thủ Nghĩa thấy người ấy nói trúng ý mình, thì hỏi phăng tới rằng:

- Không biết hòn Kim Qui đi ngả nào anh há?

Người ấy làm bộ lanh, buông tay lưới chạy lấy một nhánh cây nhỏ vẽ dưới đất mà chỉ cho Thủ Nghĩa rằng:

- Tại đây anh cứ hướng nam mà chạy; anh sẽ gặp bốn cái hòn dọc đường; hòn thứ nhứt là hòn Đen, hòn thứ nhì là hòn Rái, hòn thứ ba là hòn Thơm, hòn thứ tư nhỏ mà nằm ngang đó là hòn Vàng. Hễ anh đi khỏi bốn cái hòn tôi mới chỉ cho anh đó rồi thì anh sẽ thấy bốn cái hòn nằm dài trước mũi ghe, cái hòn chót nhỏ nằm phía bên cột chèo mũi đó là hòn Kim Qui.

Thủ Nghĩa nghe nói chíp trong bụng, song còn ráng hỏi thêm rằng:

- Anh có đến hòn Kim Qui lần nào không?

- Không. Tôi có chạy ngang qua đó vài lần, chớ tôi không có ghé.

- Không biết cái hòn đó có người ta ở hay không anh há?

- Cái đó tôi không biết chắc.

Người chừng 40 tuổi nói chuyện với Thủ Nghĩa hồi đầu hết đó, nghe hỏi liền ứng tiếng nói rằng: “Không có ai ở đâu. Bốn cái hòn nằm ngang đó, cái hòn chót phía bên cột chèo lái kêu là hòn Móng Tay thì có người ta ở, chớ mấy cái hòn kia thì không có”.

Thủ Nghĩa nghe nói mừng thầm, ngồi hỏi thăm việc chài lưới một hồi, rồi xuống thuyền nấu cơm ăn, tính ở đó nghỉ một đêm đợi khuya sẽ dậy làm buồm mà xuống hòn Kim Qui. Anh ta biết đường đi rồi nên vững bụng, tối lại ngủ ngon giấc, chẳng còn tư lự chi nữa.

Sáng bữa sau, Thủ Nghĩa thức dậy nấu một nồi cơm ăn phân nửa, còn phân nửa để dành chiều. Cơm nước xong xuôi, anh ta mới làm buồm và từ giã mấy người nói chuyện với mình hôm qua đó rồi nhắm hướng nam mà chạy. Thiệt quả qua bốn cái hòn khác nằm ngang trước mũi thuyền. Thủ Nghĩa nhắm cái hòn chót phía bên cột chèo mũi mà chạy, tới đó thì mặt trời vừa đứng đầu. Anh ta lựa một cái vịnh sấn thuyền vào một gốc cây lớn gie ra ngoài mé biển, nằm nghỉ đợi mặt trời trịt bóng mới xăn quần xách rựa mà lên bờ.

Khi bước lên hòn thì không biết đâu mà đi; anh ta đứng nhắm một hồi rồi tính trong bụng rằng mình phải đi vòng tròn theo chung quanh cái hòn nầy rồi đi ngang đi dọc nữa thì mới tìm kỹ lưỡng được; song bây giờ trời đã xế rồi mà mình không rõ cái hòn bao lớn nên không biết đi giáp vòng có kịp hay không, vậy thôi bữa nay mình đi bậy một khúc rồi rạng ngày thức dậy sớm mình sẽ đi cho giáp vòng. Tính như vậy rồi anh ta cầm rựa nhắm giữa hòn mà đi sấn vô. Hòn thì hoang tàng nên cây cối rậm rợp, nhánh gie ngang, tàn che phủ khó đi lắm, có nhiều chỗ nhánh nhỏ nó xỏ rế bít đường phải chặt bớt đi qua mới được. Ban đầu đất còn ướt, đi được một hồi hết đất bùn tới đất cát, rồi đi một khúc nữa lại tới đá. Thủ Nghĩa định chắc giữa hòn có núi, song núi không cao bởi khi thuyền còn ở xa thì không thấy hòn núi nổi cao hơn mặt nước cho lắm. Thiệt quả hễ tới đá thì trước mặt có một dãy núi thấp giăng ngang, song chỗ cao chỗ thấp không chừng, mà chỗ nào cây cũng mọc bít hết, nên không thấy đá, lại chỗ cao hơn hết là trăm thước mộc là nhiều.

Tới chưn núi, Thủ Nghĩa ngồi dựa gốc cây nghỉ một hồi rồi quyết trèo lên trên chỗ cao đặng đứng lên nhắm địa thế coi cái hòn bao lớn. Lên đến đó rồi ngó trước mặt thì thấy mé biển gần lắm, mới hay giăng núi nằm dựa mé hòn chớ không phải nằm chính giữa hòn. Thủ Nghĩa đương đứng ngó thình lình nghe cái sạt, cây nhỏ rung rinh, không rõ là con chi, anh ta cầm rựa đứng ngó lườm lườm, song không thấy động tịnh chi nữa. Anh ta sợ ác thú mà lúc ấy trời đã nửa chiều rồi, nên lật đật trở lại mà xuống thuyền vì e trời tối giữa đường thì chẳng tiện. Xuống tới thuyền thì mặt trời đã lặn. Anh ta ăn sơ cơm nguội nấu hồi sớm mai đó, rồi mới dậy cho thuyền dang ra xa mà nghỉ.

Đêm ấy Thủ Nghĩa trong lòng lo tính hoài nên ngủ không được, không biết mình có công đi tìm vàng bạc như vầy mà được hay không, như được thì làm sao mà chở, và chở rồi biết để ở đâu; còn như tìm không được thì mình tính việc chi, chớ không lẽ ơn Kỉnh Chi chưa đền, oán của tiểu nhơn mình chưa tìm ra mối mà mình linh đinh nơi bãi cạn, trôi nổi chốn vực sâu hoài hay sao. Mảng bàng hoàng trằn trọc nên ngủ chẳng đặng bao lâu kế trời sáng. Cơm nước xong rồi muốn xách rựa mà đi vòng theo mé hòn, song nghĩ đường đi hiểm trở lắm, mà đi dựa mé thôi thà mình chèo thuyền mà đi còn tiện hơn. Nghĩ như vậy nên mở dây rồi chèo dọc theo mé, và chèo và ngó vô bờ coi có thấy hang hố gì hay không. Lúc sớm mai trời thanh gió tịnh nên Thủ Nghĩa chèo sát dựa mé, coi chừng hoài mà không thấy chi hết, chỉ có rừng rậm ri, nhánh rào ngang, rễ xỏ dọc bít chịt hết mà thôi. Chèo hơn nửa buổi xuống tới đầu hòn, kế trời phát gió lao rao, Thủ Nghĩa làm buồm đặng mà nghỉ tay, chạy trở lên mé bên kia chẳng bao lâu thì thấy chơn núi ra sát mé biển, cây cối thưa lần, lại có một cái ụ rất kín, nhắm thuyền đậu êm ái lắm. Thủ Nghĩa chui thuyền vô ụ, hạ buồm, buộc dây rồi mới xách rựa mà đi dọc theo chơn núi. Đường đi thì ít có cây cản trở, song đá chập chồng nên đi rất nhọc nhằn.

Đi được một khúc ước chừng chín mười công đất, xảy thấy núi dựng đứng sát mé biển. Chỗ ấy lại cũng có một cái ụ thuyền đậu coi êm hơn cái ụ hồi nãy nữa. Anh ta đứng nhắm cái ụ rồi nhắm hòn núi, lại thấy đá dựng đứng đó có một cái hang lớn, miệng hang bề ngang có vài sải và bề cao hơn một tầm, song dây cóc kèn với dây bìm bìm giăng bít hết phân nửa.

Anh ta lần lần đến miệng hang, lấy rựa chặt dây giăng phủ đó hết rồi đứng dòm vô trong hang thì thấy tối mờ mờ. Anh ta dụ dự không dám vô, cứ đứng ngoài mà dòm một hồi rồi trở lại chèo thuyền đem lại đây mà đậu.

Buộc thuyền xong rồi mới xách rựa nhảy lên, lầm lũi đi sấn vô hang, dường như người đã vô ra quen thuộc đường rồi vậy. Trong hang mờ mờ, Thủ Nghĩa đi lần lần chớ không dám đi mau; đi tới đâu chàng hiu, rắn mối chạy đến đó, có khi cóc giựt mình nhảy đeo chơn, có khi dơi lính quýnh bay đụng mặt. Thủ Nghĩa liều mạng mà đi, chớ trong bụng phập phồng lắm, bởi vì nếu thú rừng rắn độc nằm đâu đây thì khó mà lánh thân, hoặc chống cự được. Hang ở ngoài tuy lớn mà vô trong lại hẹp lần lần, có chỗ phải cúi đầu chun qua mới được. Đi một hồi tới một ngã ba, anh ta đứng dòm thì đường thẳng coi hẹp té mà lại tối đen, có ngõ quẹo bên tay mặt thì là rộng mà lại sáng sáng lần lần, tưởng thầm rằng mình đã qua gần tới miệng hang bên kia rồi nên có yếng mặt trời dọi sáng như vậy. Chẳng dè đi được một khúc, thấy trước mặt sáng hoắc như trên đất bằng. Thủ Nghĩa trong bụng đã hồ nghi mình đi sai đường; tuy vậy mà cũng cứ đi tới hoài, có ý muốn biết coi cái hang này trổ ra đâu, nào ngờ lại đến chỗ sáng ấy thì thấy có một cái lỗ lớn ở trên trổ xuống.

Thủ Nghĩa đứng lại chỗ lỗ ngó lên, thấy mây trên trời rõ ràng, mới hay nếu mình dài dài theo trên núi có lẽ mình cũng gặp cái miệng lỗ này, song ngó kỹ thì từ trên miệng lỗ tới chỗ anh ta đứng coi xa lắm, ở trên không có thế nào mà xuống được. Ngó lên rồi mới ngó chung quanh thì thấy cái hang đến đó lại rộng lớn, bèn đi tới nữa. Thủ Nghĩa đi thì thấy hang lần lần tối càng tối, mà lại càng rộng, đi chừng ba chục bước xảy thấy cái hang chỗ ấy bùng binh ra bằng hai căn nhà, chính giữa có một đống chi cao tới ngực như củi chất đó vậy, lại hai bên đống ấy có vật chi đen giống như người ta quì, ở xa coi không rõ.

Thủ Nghĩa trong bụng phập phòng ngần ngại, không dám bước tới, bèn đứng mà tằng hắng thì tiếng dội rền trong hang nghe bắt rởn óc. Anh ta vái thầm vong hồn Mạc Tiển nếu có linh thì xin đem đường dẫn nẻo đặng tìm cho được bạc vàng mới có thế qua Quảng Đông mà báo tin được, lại hứa thầm nếu mình được bao nhiêu cũng chở qua Quảng Đông mà chia cho mẹ Mạc Tiển phân nửa.

Nhớ tới Mạc Tiển thì liền nhớ tới sự cực khổ của mình ở trong khám tối hơn mười một năm, mà nhớ tới sự cực khổ ấy thì lại nhớ tới phận của mẹ cha, nhớ tới thân em gái và em rể, mà hễ nhớ tới việc nhà thì lòng như dao cắt, chẳng còn biết sợ chi nữa hết, nên xăm xăm đi riết lại chỗ mấy vật đen đen ấy chẳng chút dụ dự nữa. Thủ Nghĩa tới nơi rờ coi thì thấy đống như đống củi ấy là ngà voi, còn mấy vật đen đen như người ta quì đó là mấy cái ché. Anh ta vừa rờ đống ngà voi thì trong bụng mừng rỡ vô cùng, tay run rẩy, ngực hồi hộp, biết chắc mình đã tìm trúng chỗ rồi. Anh ta coi kỹ thì đống ngà voi năm hay bảy chục cặp, còn ché thì là năm cái, hai cái lớn bề cao tới rún và ba cái nhỏ bề cao tới đầu gối, mỗi cái đều có nắp đậy và dây ràng coi chắc chắn lắm.

Thủ Nghĩa rờ mấy cái ché, đứng suy nghĩ một hồi rồi lấy rựa cắt dây ràng một cái ché lớn và một cái ché nhỏ thì dây tuy còn nguyên như mới ràng, song đã mục tự bao giờ, nên vừa đụng tới lưỡi rựa thì là đứt hết.

Anh ta giở hai cái ché lên coi, trong ché lớn thì bạc nén, còn trong ché nhỏ là vàng thoi. Anh ta liệu chắc trong mấy cái ché kia cũng là vàng bạc chớ chẳng có vật chi lạ nên chẳng cần phải coi nữa, bèn để rựa ngồi chồm hổm mà nghĩ rằng thuyền mình nhỏ lắm, nếu chở hết mà đem về thì sợ chở không nổi, chi bằng mình chở lần một mớ đặng đi mua một chiếc lớn rồi sẽ trở lại chở nữa. Suy nghĩ như vậy rồi mới đứng dậy xách rựa trở lộn ra. Thủ Nghĩa xuống thuyền lấy một cái thúng lớn rồi tay xách thúng tay cầm rựa đi vô hang nữa. Chuyến này quen thuộc đường rồi nên cứ đi riết chẳng chút nào bợ ngợ. Vô đến chỗ vàng bạc khi nãy, Thủ Nghĩa bèn hốt bạc nén trong ché lớn đã giở nắp ra rồi đó mà bỏ qua bên thúng; đầy thúng rồi tính đội mà trở ra, chẳng dè nhóm thử thì nặng quá nhắm đội đi bất tiện nên hốt bớt lại còn chừng nửa thúng rồi mới đội đi. Thủ Nghĩa xuống thuyền đổ bạc sau bồng lái, lấy chiếu đậy lại rồi đội thêm nửa thúng nữa, mà chuyến này lại có lấy bên ché nhỏ vài thoi vàng và lấy một cặp ngà voi rồi mới trở ra. Tới miệng hang anh ta để thúng bạc xuống kéo dây bìm bìm làm cho bít miệng hang rồi mới xuống thuyền.

Lúc ấy trời đã gần tối nên Thủ Nghĩa tính đậu thuyền tại đó mà ngủ, đợi sáng ngày sẽ đi. Đêm ấy nằm tính tới nghĩ lui, tính coi phải làm thế nào mà chở cho hết vàng bạc rồi lại tính hễ chở rồi thì đem để đâu và phải làm thế nào đặng đi tìm em rể mà người ta đừng biết mình được. Suy nghĩ tới canh khuya xảy nghe trên núi có tiếng cọp kêu cà um vang dầy; lúc ấy trời êm trăng sáng, sợ ở đây bất tiện nên anh ta lật đật ra mở dây rồi chèo thuyền đi trở lộn lại, vòng theo mé cù lao, đến trời rựng đông thì thả thuyền nấu cơm ăn rồi mới làm buồm mà lên Phú Quốc.