Đảo kinh hoàng

Ngày Thứ Ba

Bệnh nhân thứ sáu mươi bảy

HAI NGÔI NHÀ nằm ngoài khu tường bao của Cawley và giám đốc trại giam bị tấn công trực diện. Một nửa mái nhà của Cawley bay mất, những viên gạch lát rơi tứ tung khắp sân như một bài học về vị thế nhỏ bé của con người trước thiên nhiên. Một cái cây bay qua cửa sổ phòng khách nhà giám đốc trại giam, đâm thủng những mảnh ván gỗ bịt cửa sổ, nằm chình ình giữa nhà cả gốc lẫn ngọn. 

Khu khuôn viên bệnh viện nước ngập tới ba centimet, vỏ sò, cành cây vương vãi khắp nơi. Trên sàn nhà của Cawley có vài con chuột chết, một đống táo ủng sũng nước, tất cả đều lấm cát. Nền bệnh viện trông giống như có ai lấy búa khoan nện thật lực vào đó, Khu A thì mất bốn cửa sổ, còn trên mái nhà nhiều máng thoát nước bị gió thổi uốn cong ra phía sau. Hai ngôi nhà mái lá của nhân viên chỉ còn trơ lại khung gỗ, nhiều ngôi khác bị đổ nghiêng sang một bên. Các khu tập thể của y tá và hộ lý bị mất khá nhiều cửa sổ và bị ngập nước vài chỗ. Chỉ riêng Khu B là thoát nạn, không hề hấn gì. Suốt dọc hòn đảo, Teddy nhìn thấy những ngọn cây bị tước sạch lá, thân gỗ trơ trụi đâm lên trời như những mũi tên. 

Không khí lại đầy vẻ chết chóc, nặng nề và u ám. Mưa phùn rả rích. Cá chết đầy bãi biển. Sáng nay khi họ bước ra ngoài, có một con thờn bơn nằm giãy giụa, thở phập phồng trên hành lang, một con cá buồn bã, mắt sưng húp nhìn về biển cả.

Teddy và Chuck thấy McPherson cùng một lính gác dựng lại một chiếc xe jeep bị lật nghiêng. Họ phải nổ máy tới lần thứ năm mới được, rồi họ lái xe lùi ra phía cổng. Một phút sau Teddy thấy chiếc xe đang leo lên đoạn dốc sau lưng bệnh viện dẫn tới Khu C.

Cawley xuất hiện trong khuôn viên bệnh viện, dừng lại nhặt một mảnh ngói vỡ của nhà mình lên xem chăm chú rồi lại ném xuống mặt đất ngập nước. Ánh mắt ông ta hai lần lướt qua Teddy và Chuck rồi mới nhận ra họ trong bộ đồng phục hộ lý màu trắng, áo đi mưa và mũ kiểm lâm màu đen. Ông ta nở một nụ cười vẻ châm biếm và dường như định tiến về phía họ thì một bác sĩ cổ đeo ống nghe từ trong bệnh viện xốc ra và chạy về phía ông.

“Số hai đi rồi. Chúng tôi không thể bật được máy dự phòng. Chúng ta có hai trường hợp đó là nguy kịch. Họ sẽ chết mất John ạ.” 

“Thế Harry đâu?”

“Harry đang ở trong đó nhưng không tài nào sạc được điện. Chẳng hiểu cái máy phát điện dự phòng để làm gì nếu nó không hỗ trợ được cái gì?”

“Thôi được. Hãy tới đó xem sao.”

Họ rảo bước về phía bệnh viện. Teddy nói, “Máy phát điện dự phòng của họ hỏng à?”

Chuck nói, “Những chuyện như thế hẳn sẽ xảy ra khi bão lớn.”

“Cậu có nhìn thấy ánh đèn nào không?”

Chuck nhìn xung quanh các cửa sổ. “Không.”

“Cậu có nghĩ là cả hệ thống điện bị cháy không?”

“Nhiều khả năng.”

“Có nghĩa là cả những hàng rào điện cũng vậy.”

Chuck cúi xuống nhặt một quả táo dạt tới chân anh ta đoạn đứng khom người trong tư thế chơi bóng chày rồi co chân và liệng quả táo vào tường. “Trúng rồi!” Anh ta hét lên rồi quay về phía Teddy. “Có nghĩa là cả những hàng rào điện cũng vậy, đúng thế.”

“Có lẽ tất cả các thiết bị an ninh điện tử. Cổng. Cửa.”

“Ôi, Chúa lòng lành, hãy giúp chúng con.” Chuck nói và nhặt một quả táo khác, ném qua đầu rồi đỡ lấy nó từ phía sau lưng. “Sếp muốn đi vào cái pháo đài đó, đúng không?”

Teddy ngẩng mặt lên hứng những giọt nước mưa êm ái. “Một ngày hoàn hảo để làm việc đó.”

Viên giám đốc lúc này mới xuất hiện, tiến vào khuôn viên bệnh viện cùng ba người lính gác trên một chiếc xe jeep, nước bắn tung tóe từ bánh xe. Viên giám đốc nhìn thấy Teddy và Chuck đứng thơ thẩn trong sân và dường như điều đó khiến ông ta khó chịu. Teddy nghĩ chắc cũng giống Cawley, ông ta tưởng nhầm họ là hộ lý, vậy nên ông ta bực mình khi thấy trong tay họ không có máy bơm hay máy cào. Tuy nhiên ông ta vẫn đi qua chỗ họ, cắm đầu về phía trước như thể phải để tâm vào những chuyện quan trọng hơn. Teddy nhận ra rằng anh chưa từng nghe thấy giọng nói của ông ta và tự hỏi không hiểu nó trầm như màu tóc hay mai mái như nước da của ông. 

“Có lẽ mình phải tiến hành thôi,” Chuck nói. “Cảnh này sẽ không diễn ra lâu đâu.”

Teddy bắt đầu rảo bước về phía cổng. 

Chuck theo kịp anh. “Tôi muốn huýt sáo nhưng miệng tôi khô cứng hết cả lại thế này.”

“Sợ à?” Teddy nói nhỏ.

“Phải nói là sợ vãi đái ra ấy sếp ạ.” Anh ta lại liệng một quả táo vào tường.

Họ tiến về phía cổng, lính gác là một chàng trai có gương mặt trẻ con nhưng đôi mắt thì sắc lạnh. Anh ta nói, “Tất cả các hộ lý phải tới gặp ông Willis ở phòng hành chính. Các anh sẽ được thông báo về việc làm vệ sinh.”

Chuck và Teddy nhìn bộ đồng phục hộ lý màu trắng của nhau.

“Món trứng Benedict.” 

Teddy gật đầu. “Cám ơn. Tôi cũng đang nghĩ thế. Còn bữa trưa?”

“Một lát mỏng sandwich thịt bò muối Reuben.” 

Teddy quay sang tay lính gác và chìa chiếc phù hiệu của anh ra. “Quần áo của chúng tôi vẫn còn ở phòng giặt là.”

Tay lính gác liếc qua chiếc phù hiệu của Teddy rồi nhìn sang Chuck chờ đợi.

Chuck thở dài rồi rút ví và chìa chiếc phù hiệu ra trước mũi tay lính gác.

“Các anh làm gì bên ngoài khu tường rào. Bệnh nhân mất tích đã được tìm thấy rồi cơ mà?” tay lính gác nói.

Bất cứ lời giải thích nào, Teddy nghĩ cũng sẽ khiến họ trông yếu thế và đặt quyền lực vào tay tên nhãi ranh này. Teddy đã gặp một đống nhãi ranh như thế trong chiến tranh. Phần lớn họ đã không trở về nhà và Teddy vẫn thường tự hỏi không biết có ai thực sự quan tâm tới họ không. Đó là một loại người mà bạn không thể nào nói chuyện hay dạy dỗ gì được. Nhưng bạn có thể trị được loại người này nếu bạn biết rằng thứ duy nhất hắn ta tôn trọng là quyền lực.

Teddy bước lại gần tay lính gác, nhìn chằm chằm, nhếch mép cười và chờ cho hắn ta quay sang nhìn anh, mắt anh không rời khỏi mắt hắn.

“Chúng tôi đang đi dạo,” Teddy nói.

“Các anh không được phép.”

“Có chứ.” Teddy tiến lại sát hơn khiến tay lính gác đành phải ngước mắt lên. Anh có thể cảm thấy cả hơi thở của gã trai trẻ. “Chúng tôi là đặc vụ liên bang đang thi hành nhiệm vụ của liên bang. Tối cao như Chúa trời cho phép vậy. Chúng tôi không cần trả lời cậu. Chúng tôi không cần giải thích với cậu. Chúng tôi có thể chọn cách bắn một phát vào mông cậu, chàng trai, và sẽ chẳng có tòa án nào ở cái đất nước này nghe nói tới vụ đó cả.” Teddy lại gí đầu sát hơn nữa về phía tay lính gác. “Thế nên mau mở cái cửa khốn kiếp này ra.” 

Gã trai trẻ cố không cụp mắt xuống trước cái nhìn của Teddy, nuốt nước miếng và giữ cho ánh mắt không dao động.

Teddy lại nói, “Tôi nhắc lại: Mở cái...”

“Thôi được.”

“Tôi không nghe rõ cậu nói gì,” Teddy nói.

“Vâng, thưa sếp.”

Teddy nhìn tay lính gác với con mắt dữ dằn thêm một lúc rồi thở phì ra. 

“Không đến nỗi, con trai. Hoo-ah(7).” 

“Hoo-ah,” tay lính gác nhắc lại, yết hầu phập phồng. Tay lính gác xoay chìa khóa và mở toang cánh cổng ra, Teddy bước qua không thèm ngoái đầu nhìn lại.

Họ rẽ phải và đi dọc theo bức tường rào một lúc thì Chuck lên tiếng, “Chiến lược hoo-ah hiệu quả đấy!”

Teddy nhìn Chuck và nói, “Bản thân tôi cũng thích điều đó.”

“Hồi trong quân ngũ, sếp hẳn cũng bàn tay thép nhỉ?”

“Tôi ở trong một tiểu đoàn với một đám nhóc con dưới quyền. Phân nửa số họ chưa bao giờ nếm mùi phụ nữ. Cậu không thể khiến đám người này tôn trọng nếu cậu đối xử tử tế với họ, cậu cần phải làm cho họ sợ.” 

“Vâng, thưa Thượng sĩ. Đã rõ.” Chuck cúi đầu và giậm chân chào Teddy. “Nhưng dù có bị cắt điện thì sếp cũng không quên cái nơi mà chúng ta đang cố lẻn vào là một pháo đài đấy chứ?” 

“Không, không hề.”

“Thế sếp có ý tưởng gì không?”

“Không.”

“Sếp nghĩ là họ có xây hào xung quanh không? Đó là một vấn đề đấy.”

“Có thể còn có mấy thùng dầu nóng đặt trên tường công sự.”

“Và các cung thủ,” Chuck nói. “Nếu họ bố trí các cung thủ ở đó, Teddy...”

“Mà chúng ta thì lại không có áo giáp.”

Họ bước qua một thân cây đổ, mặt đất nhão nhoét và trơn vì lá mục. Xuyên qua đám cây cối tiêu điều trước mặt, họ có thể nhìn thấy khu pháo đài với những bức tường màu xám đồ sộ, và thấy cả những vệt bánh xe jeep đi đi về về suốt cả buổi sáng nay.

“Tên lính gác đó cũng có lý,” Chuck nói.

“Ở chỗ nào?”

“Giờ khi Rachel đã được tìm thấy, thì đúng là chúng ta chẳng có quyền hạn gì ở chỗ này cả, như trước đây thôi. Nếu chúng ta bị bắt quả tang thì sếp ơi, chúng ta chẳng có cách nào giải thích vụ này cho thấu tình đạt lý.”

Teddy cảm thấy đám cây cối tả tơi, bầm dập đảo điên trong đáy mắt anh. Anh thấy kiệt sức và hơi chếnh choáng. Tất cả những gì anh có là bốn tiếng đồng hồ dưới tác dụng của thuốc và một giấc ngủ đầy ác mộng đêm qua. Mưa rơi lộp độp và đọng lại trên vành mũ của anh. Trong đầu anh như có cái gì kêu vo vo, không rõ ràng nhưng liên tục. Nếu hôm nay phà tới đảo - nhưng anh chắc là không thể - thì một phần trong anh chỉ muốn nhảy lên đó và rời khỏi đây. Biến khỏi cái rặng đá khốn kiếp này. Nhưng trở về mà chẳng có nổi hoặc những bằng chứng cần thiết cho Thượng nghị sĩ Hudy hoặc giấy chứng tử của Laeddis thì sự trở về của anh sẽ là sự trở về của một kẻ thất bại. Vẫn là kẻ đứng bên ranh giới của ý định tự sát cộng thêm gánh nặng lương tâm về việc anh đã không làm gì để tạo nên một sự thay đổi. 

Anh mở quyển sổ ghi chép ra và đưa cho Chuck. “Mấy đống đá mà Rachel để lại cho chúng ta hôm qua. Đây là giải mã của chúng.”

Chuck khum tay che quyển sổ và giữ nó sát ngực. “Vậy là hắn đang ở đây.”

“Hắn ở đây.”

“Sếp nghĩ hắn là bệnh nhân thứ sáu mươi bảy?”

“Tôi đoán thế.”

Teddy dừng lại trước một vỉa đá trồi lên giữa con đường dốc lầy bùn. “Cậu có thể quay lại, Chuck. Cậu không cần phải dính vào chuyện này.”

Chuck ngước lên nhìn anh rồi đập đập quyển sổ vào lòng bàn tay. “Chúng ta là những đặc vụ, Teddy. Đặc vụ thì luôn làm gì?”

Teddy mỉm cười. “Chúng ta xông vào cửa.”

“Trước tiên,” Chuck nói. “Trước tiên chúng ta xông vào cửa. Trong lúc cấp bách, chúng ta không đợi mấy viên cảnh sát béo trên phố tới hỗ trợ. Chúng ta sẽ xông thẳng qua cái cửa khốn kiếp đó.”

“Đúng vậy.”

“Vậy thì tiến hành thôi,” Chuck nói và đưa trả lại Teddy cuốn sổ rồi họ tiếp tục đi về phía pháo đài. 

KHI HỌ CÒN CÁCH khu pháo đài mỗi một rặng cây và một quãng đồng ngắn thì Chuck lên tiếng, đúng như những gì Teddy đang nghĩ: “Chúng ta tiêu rồi.”

Lớp hàng rào thép gai bao quanh khu pháo đài nhiều chỗ bị thổi bật ra khỏi mặt đất. Có đoạn nằm lay lắt trên đường, có đoạn bị thổi mắc lên cành cây, và phần còn lại cũng méo mó không sử dụng được nữa. 

Tuy nhiên có nhiều lính gác vũ trang đi lại quanh khu vực đó. Một số đi tuần đều đặn trên những chiếc xe jeep. Một đạo quân hộ lý đông đúc đi nhặt rác bên ngoài pháo đài. Một nhóm hộ lý khác, ít người hơn đang tất bật xử lý một thân cây lớn đổ vào tường. Không có hào bao quanh pháo đài, nhưng vẫn có một cửa ra vào, một cánh cửa nhỏ duy nhất màu đỏ bằng tôn uốn nằm giữa tường. Lính gác đứng canh trên tường công sự, súng trường khoác trên vai hoặc lủng lẳng trước ngực. Vài cửa sổ nhỏ hình vuông khoét trên tường đá của pháo đài đều có chấn song. Không bệnh nhân nào lảng vảng phía bên ngoài, dù bị xích hay không. Chỉ có lính gác và hộ lý làm việc với quân số ngang nhau. 

Teddy thấy hai người lính gác trên nóc pháo đài bước sang một bên, mấy hộ lý đi tới góc tường công sự và kêu những người ở dưới đất tránh ra chỗ khác. Họ vật được một nửa thân cây ra gờ tường, vừa kéo vừa đẩy cho tới khi nó bập bênh ở trên đó. Rồi họ biến mất phía sau khúc cây và bắt đầu đẩy mạnh khiến nửa thân cây phía trước lao ra thêm được vài chục phân nữa rồi chúc đầu xuống, mọi người la hét ầm ĩ khi cả thân cây lao dọc theo tường thành rồi đâm sầm xuống đất. Những người hộ lý lại xuất hiện trên gờ tường nhìn xuống tác phẩm của mình rồi hoan hỉ bắt tay và vỗ vai nhau. 

“Chắc phải có đường ống dẫn nào đấy chứ nhỉ?” Chuck nói. “Để thải nước hoặc rác rưởi ra biển? Chúng ta có thể thâm nhập bằng đường đó.”

Teddy lắc đầu. “Việc gì phải làm thế. Chúng ta chỉ cứ việc đi thẳng vào.”

“Ối, giống cái cách cô Rachel đi ra khỏi Khu B hả? Tôi hiểu rồi. Phải lấy của cô ta ít bột tàng hình. Ý tưởng hay đấy.”

Chuck nói rồi nhíu mày nhìn Teddy lúc này đang sờ vào chiếc cổ áo đi mưa của mình. “Chúng ta đâu có ăn vận giống đặc vụ đâu, Chuck. Cậu hiểu ý tôi nói chứ?”

Chuck quay lại nhìn đám hộ lý đang làm việc xung quanh khu pháo đài và thấy một người trong số họ bước ra khỏi cánh cửa sắt với một ly cà phê trong tay, khói bốc lên giữa màn mưa bụi như những con rắn. 

“Đúng vậy,” anh ta nói. “Đúng vậy, người anh em.”

HỌ RẼ XUỐNG CON ĐƯỜNG dẫn tới pháo đài, vừa đi vừa hút thuốc và tán gẫu với nhau. Đi tới nửa cánh đồng thì chạm trán với một lính gác, súng đeo hờ hững dưới nách, chĩa xuống đất. 

Teddy nói, “Họ cử chúng tôi tới đây. Về vụ cây cối gì đó trên nóc pháo đài?”

Người lính gác ngoái đầu lại phía sau và nói. “Không cần nữa. Họ đã xử lý nó xong rồi.”

“Thế thì tốt quá,” Chuck nói và họ toan quay đầu bỏ đi. 

“Này, nhanh thế,” người lính gác nói. “Vẫn còn khối việc để làm đấy.”

Họ lại quay lại. 

Teddy nói. “Các anh đã có tới ba mươi người lo cái tường đó rồi còn gì.”

“Đúng thế nhưng còn bên trong nữa, mẹ kiếp, trông chẳng khác gì bãi chiến trường. Một cơn bão thì không đánh sập được một nơi như thế này nhưng nó vẫn có thể chui vào bên trong để hoành hành. Các anh hiểu không?”

“Ừ, hẳn rồi,” Teddy nói. 

“ĐỘI LÀM VỆ SINH Ở ĐÂU VẬY?” Chuck nói với người lính gác đang đứng dựa lưng vào tường bên cạnh cửa ra vào. 

Người lính gác giơ ngón tay cái chỉ vào bên trong ra hiệu và mở cửa cho họ đi vào.

“Tôi không muốn tỏ ra bi quan,” Chuck nói, “nhưng mọi chuyện có vẻ dễ dàng quá.”

Teddy nói, “Đừng nghĩ nhiều thế. Đôi khi cậu cũng gặp may chứ.”

Cánh cửa đóng lại sau lưng họ.

“May mắn,” Chuck nói, giọng hơi rung lên. “Đó là cách chúng ta gọi nó?”

“Đó chính là cách chúng ta gọi nó.”

Mùi hôi là thứ đầu tiên đập vào mũi Teddy. Mùi thuốc sát trùng công nghiệp được sử dụng nhằm át đi tối đa mùi nôn mửa, mùi phân, mùi mồ hôi và nhất là mùi nước tiểu nồng nặc. 

Sau đó là những tiếng ồn phát ra từ sau tòa nhà, dội từ những tầng trên xuống; tiếng bước chân rì rầm, tiếng gào thét dội đi vọng lại từ những bức tường dày và lớp không khí nhớp nhúa, những tiếng “ĐIING” chói tai đột ngột vang lên rồi tắt lịm, và khắp nơi là tiếng ầm ầm của nhiều giọng nói khác nhau hòa âm một lúc.

Ai đó hét lên, “Mày không thể! Mày không thể làm thế! Mày nghe thấy tao nói gì không? Mày không thể. Hãy tránh xa...” và rồi đuối dần.

Đâu đó phía trên đầu họ quanh khúc ngoặt của những bậc thang đá một người đàn ông hát vang bài “Một trăm chai bia trên tường.” Ông ta vừa xong chai thứ bảy mươi bảy và đang bắt đầu chuyển sang chai thứ bảy mươi sáu. 

Hai bình cà phê cùng vài chồng cốc giấy và mấy chai sữa nằm trên một chiếc bàn dùng để chơi bài. Có một chiếc bàn nữa kê ở chân cầu thang, người lính gác ngồi ở đó đang nhìn họ mỉm cười.

“Lần đầu tiên hả?”

Teddy nhìn về phía anh ta. Và mặc dù những tiếng động lúc nãy đã được thay mới nhưng cả cái khu vực này vẫn giống như đang trong một cuộc truy hoan âm thanh điên cuồng, chĩa vào tai anh từ mọi hướng. 

“Ừ. Có nghe chuyện, nhưng...”

“Rồi các anh sẽ quen thôi,” người lính gác nói. “Sẽ quen hết ấy mà.” 

“Biết thế.”

“Nếu các anh không phải làm việc trên mái thì có thể treo áo mưa và mũ trong cái phòng sau lưng tôi.” 

“Họ bảo chúng tôi lên mái mà,” Teddy nói.

“Các anh đã làm mất lòng ai vậy?” Người lính gác nói rồi chỉ đường cho họ. “Đi theo các bậc thang này. Giờ thì chúng tôi đã xích phần lớn bọn rệp ấy vào giường rồi nhưng vẫn còn vài mống chạy lung tung. Nếu các anh nhìn thấy đứa nào thì kêu lên nhé! Làm gì thì làm nhưng đừng cố tự xử lý chúng. Đây không giống Khu A đâu. Các anh biết không? Những tên khốn ở đây có thể giết các anh đấy. Rõ chưa?”

“Rõ.”

Họ vừa bước lên cầu thang thì người lính gác lại nói: “Chờ một phút.”

Họ dừng lại, quay xuống nhìn anh ta.

Anh ta mỉm cười và chỉ một ngón tay vào họ.

Họ đứng im chờ đợi.

“Tôi biết các anh.” Giọng anh ta trầm bổng như đang hát.

Teddy không nói gì. Chuck cũng không nói gì.

“Tôi biết các anh,” người lính gác nhắc lại. Teddy cố thốt ra được một tiếng “Thật?”

“Ừ. Các anh chính là những kẻ phải đi dọn mái. Giữa trời mưa gió.” Anh ta phá ra cười, một tay vẫn chỉ vào họ, tay kia đập đập lên bàn vẻ khoái trá.

“Chính là chúng tôi,” Chuck nói. “Ha ha.”

“Ha ha ha,” người lính gác vẫn cười.

Đến lượt Teddy chỉ một ngón tay vào anh ta và nói: “Anh được đấy,” rồi đi tiếp lên cầu thang. “Hơn cả hai đứa chúng tôi cộng lại.”

Tiếng cười của tên ngốc đó đuổi theo họ lên những bậc cầu thang. 

Họ dừng lại ở tầng đầu tiên. Trước mặt họ là một căn phòng lớn, mái vòm dát đồng, sàn nhà màu tối được lau chùi sạch bóng như gương. Teddy biết nếu anh đứng từ đầu cầu thang và ném một quả bóng chày hay một trong những quả táo của Chuck thì nó sẽ không thể sang được tới đầu kia căn phòng. Căn phòng trống không và cánh cửa trước mặt họ mở toang, Teddy cảm thấy như nổi chuột nhộn nhạo khắp dọc sườn khi anh bước vào căn phòng vì nó khiến anh nhớ tới căn phòng trong giấc mơ, nơi Laeddis mời anh uống rượu và Rachel sát hại các con của cô ta. Chúng hẳn không phải là một, căn phòng trong giấc mơ của anh có những cửa sổ dài với ri đô dày, những luồng ánh sáng, sàn gỗ, và những giá nến đồ sộ - nhưng cũng khá giống nhau. 

Chuck vỗ một tay lên vai Teddy và anh bắt đầu cảm thấy mồ hôi túa ra trên gáy.

“Tôi nhắc lại,” Chuck nói khẽ với một nụ cười yếu ớt, “chuyện này quá dễ dàng. Tên lính gác ở đây đi đâu mất rồi? Tại sao cánh cửa này không khóa?”

Teddy có thể nhìn thấy Rachel lăm lăm một con dao phay, vừa chạy qua căn phòng vừa la hét, tóc xõa xượi.

“Tôi không biết.”

Chuck ghé vào tai anh thì thào, “Đây là một cái bẫy, sếp ơi.”

Teddy bắt đầu đi xuyên căn phòng. Đầu anh đau nhức vì thiếu ngủ. Vì trời mưa. Vì những tiếng la hét như nghẹt lại và tiếng chân chạy rầm rập phía trên đầu anh. Hai đứa bé trai và một đứa bé gái nhỏ nắm chặt tay nhau và ngoái nhìn phía sau. Run lẩy bẩy.

Teddy lại nghe thấy tiếng bệnh nhân hát: “... lấy một chai xuống, chuyển ra xung quanh, năm mươi tư chai bia trên tường.”

Chúng lướt qua trước mắt anh, hai đứa bé trai và đứa bé gái đó, bơi qua lớp không khí chơi vơi và Teddy nhìn thấy những viên thuốc màu vàng mà Cawley đặt vào tay anh đêm qua, cảm thấy một cơn buồn nôn cồn lên trong bụng.

“Năm mươi tư chai bia trên tường, năm mươi tư chai bia...”

“Chúng ta phải ra khỏi đây ngay lập tức, Teddy. Chúng ta cần phải đi thôi. Chuyện này không ổn chút nào. Anh có thể cảm thấy điều đó, tôi có thể cảm thấy điều đó.”

Một người đàn ông đột ngột xuất hiện trên ngưỡng cửa ở đầu phòng phía bên kia. Anh ta đi chân đất, ngực để trần và chỉ mặc độc một chiếc quần pyjama màu trắng. Đầu anh ta cạo trọc, phần còn lại của khuôn mặt không thể nhìn rõ dưới ánh sáng lờ mờ của căn phòng. 

Anh ta nói, “Xin chào!”

Teddy rảo bước nhanh hơn.

Người đàn ông lại nói, “Đuổi theo bắt tôi đi. Anh là nó!” rồi biến mất khỏi ngưỡng cửa.

Chuck đuổi kịp Teddy. “Sếp ơi, hãy vì Chúa.”

Hắn đang ở đây. Laeddis. Đâu đó chỗ này. Teddy có thể cảm thấy hắn đang ở đây.

Họ đi tới cuối căn phòng và bắt gặp một đầu cầu thang bằng đá rộng, một cầu thang xoáy ốc trơn nhẫy dẫn xuống khoảng tối om, và một cầu thang khác dẫn lên phía trên nơi phát ra những tiếng la hét, tranh cãi ngày càng chói tai, nơi Teddy có thể nghe thấy cả tiếng kim loại và xiềng xích va chạm lách cách. Ai đó hét lên, “Billings! Được rồi, chàng trai! Bình tĩnh lại! Không có chỗ nào để chạy đâu. Nghe rõ chưa?”

Teddy nghe tiếng ai đó đang thở ngay cạnh mình. Anh quay đầu sang trái và thấy một cái đầu trọc lóc chỉ cách đầu anh có vài phân.

“Anh là nó,” gã đàn ông nói và dùng ngón tay trỏ gõ gõ vào tay anh. 

Teddy nhìn vào gương mặt lập lòe trong bóng tối của gã.

“Tôi là nó,” Teddy nói.

“ ‘Dĩ nhiên rồi, tôi quá gần mà,’ ” gã ta nói, “anh chỉ cần xoay cổ tay một cái thì tôi lại là nó và rồi tôi chỉ cần xoay cổ tay thì anh lại là nó, chúng ta có thể chơi như vậy hàng tiếng đồng hồ, thậm chí cả ngày, chúng ta chỉ cần đứng đây và lần lượt biến thành nó, làm đi làm lại, không nghỉ trưa, không ăn tối, cứ tiếp tục như thế mãi.”

“Thế thì có gì vui?” Teddy nói.

“Anh có biết cái gì ở ngoài kia không?” Gã hất đầu về phía cầu thang. “Ngoài biển ấy?”

“Cá,” Teddy nói.

“Cá.” Gã ta gật đầu. “Rất tốt. Cá, đúng vậy. Rất nhiều cá. Nhưng, đúng, cá, rất tốt, cá, đúng, nhưng mà còn có cả, còn có cả gì? Tàu ngầm. Đúng. Đúng vậy. Cách bờ biển khoảng ba trăm tới bốn trăm kilomet. Chúng ta nghe nói vậy, đúng không? Họ bảo chúng ta thế. Hẳn rồi. Và chúng ta quen dần với ý nghĩ đó. Rồi chúng ta quên bẵng. Ý tôi là, ‘Được rồi, có tàu ngầm. Cảm ơn đã thông báo.’ Chúng trở thành một phần trong cuộc sống hàng ngày của chúng ta. Chúng ta biết chúng ở ngay ngoài kia, tuy nhiên chúng ta không còn nghĩ tới chuyện đó nữa. Đúng chưa? Nhưng mà chúng vẫn đang ở ngoài kia và được trang bị rocket. Chúng chĩa nòng vào bọn họ ở New York và Washington. Ở Boston. Và chúng đang ngoài kia. Chỉ ngồi yên. Anh không bao giờ bận tâm chuyện đó sao?” 

Teddy có thể nghe thấy tiếng thở nhè nhẹ của Chuck bên cạnh anh, chờ anh đối đáp. 

Teddy nói, “Như anh nói, tôi cũng chọn cách không nghĩ quá nhiều về chuyện đó.”

“Ừm.” Gã ta gật đầu. Gã vuốt cằm rồi nói tiếp, “Ở trong này chúng tôi cũng nghe được mọi chuyện. Anh không nghĩ vậy, đúng không? Thế mà chúng tôi nghe được đấy. Một người mới tới chẳng hạn, anh ta kể cho chúng tôi nghe. Đám lính gác buôn chuyện. Hộ lý các anh nữa, cũng nói nhiều. Chúng tôi biết, chúng tôi biết chứ. Về thế giới bên ngoài. Về các vụ thử bom H(8), bom nguyên tử. Anh có biết bom khinh khí hoạt động thế nào không?”

“Với khí hydro à?” Teddy nói. 

“Rất tốt. Rất nhanh trí. Đúng thế, đúng thế.” Gã ta gật đầu nhiều lần rồi nói tiếp, “Với khí hydro, đúng thế. Nhưng nó không giống bất kỳ loại bom nào khác. Anh thả một quả bom, kể cả bom nguyên tử, thì nó nổ tung ra. Đúng không? Đúng là cái chắc. Nhưng một quả bom khinh khí thì lại nổ bên trong. Nó tự nổ, trải qua một chuỗi phản ứng bên trong, rồi phân hủy. Và tất cả quá trình phân hủy đó? Nó tạo ra khối lượng và tỷ trọng. Anh thấy không, chính sự dữ dội trong việc tự hủy hoại mình của nó đã tạo ra một con quái vật hoàn toàn mới. Anh hiểu chứ? Hiểu chứ? Phản ứng bên trong càng mạnh, thì sức hủy diệt càng lớn, rồi thì tác động càng khủng khiếp. Và, thế nào, thế nào nữa? Đoàng một cái! Chỉ... bang, bùm, rầm. Khi đã tự hủy xong, nó bắt đầu khuếch tán. Tạo ra một vụ nổ từ sự nổ bên trong, loại bom này có sức công phá gấp trăm lần, nghìn lần, triệu lần bất cứ loại bom nào từ trước tới nay. Đó chính là gia tài của chúng ta. Và anh đừng quên điều đó.” Gã vừa nói vừa vỗ vỗ cánh tay Teddy nhiều lần, những cái vỗ nhẹ như thể đang gõ trống bằng ngón tay. “Anh là nó! Ở mức hoàn hảo! Ha ha.”

Rồi gã nhảy tót xuống chiếc cầu thang tối om và họ nghe gã hét “Bùm” suốt dọc đường đi. 

“... bốn mươi chín chai bia! Lấy một chai xuống...”

Teddy nhìn sang Chuck. Mặt anh ta đẫm mồ hôi và anh ta đang rón rén thở qua miệng. 

“Cậu nói đúng,” Teddy nói. “Ra khỏi đây thôi.”

“Giờ là sếp nói đấy nhé.”

Bỗng từ đầu cầu thang vọng xuống tiếng ai đó la hét: “Có ai đó giúp tôi một tay với! Giời ơi!”

Teddy và Chuck nhìn lên thì thấy hai người đàn ông đang túm chặt lấy nhau và lăn xuống cầu thang như một trái bóng. Một người mặc đồng phục lính gác màu xanh nước biển, người kia mặc quần áo bệnh nhân màu trắng và cả hai đâm sầm vào một khúc ngoặt cầu thang chỗ có bậc rộng nhất. Gã bệnh nhân thọc một tay vào mặt người lính gác ngay phía dưới mắt trái và móc ra một mảng da khiến cậu ta rú lên đau đớn và cố ngửa đầu ra sau để tránh. 

Teddy và Chuck lao lên cầu thang. Cánh tay của gã bệnh nhân lại bổ xuống lần nữa, nhưng Chuck chộp được cổ tay anh ta. 

Người lính gác chùi mắt và những vệt máu đang chảy xuống tận cằm. Teddy có thể nghe thấy tiếng cả bốn người bọn họ hổn hển, nghe thấy bài hát về chai bia từ đằng xa, đã đến chai bốn hai, gần sang chai bốn mốt, và rồi anh thấy gã bệnh nhân lúc này đang ở phía dưới anh ngỏng lên với cái miệng há to, anh vội nói, “Chuck, coi chừng,” và dùng mu bàn tay nện vào trán gã bệnh nhân trước khi gã này kịp ngoạm vào cổ tay Chuck. 

“Cậu phải buông hắn ra!” anh nói với người lính gác. “Nào! Buông ra.”

Người lính gác thả hai chân gã bệnh nhân ra rồi lùi lại phía sau hai bước. Teddy tới gần gã bệnh nhân lúc này nằm bất động, đè chặt hai vai gã ta xuống sàn rồi quay đầu lại nhìn Chuck. Đúng lúc đó chiếc dùi cui xuyên thẳng qua chỗ hở giữa hai người họ, kêu rít lên trong không khí rồi đập vỡ mũi của gã bệnh nhân. 

Teddy cảm thấy cái thân hình bên dưới anh thả lỏng ra và Chuck kêu lên, “Ối Chúa ơi!”

Người lính gác lại vung chiếc dùi cui lên nhưng Teddy kịp xoay người và dùng khuỷu tay chắn lại. Anh nhìn vào khuôn mặt máu me của cậu ta và nói, “Này, này! Hắn ta không làm được gì nữa rồi! Này thôi đi!”

Nhưng người lính gác vẫn còn say mùi máu của chính mình. Cậu ta lại giơ chiếc dùi cui lên. 

Chuck xen vào nói, “Hãy nhìn tôi! Hãy nhìn tôi này!”

Người lính gác liếc mắt về phía Chuck. 

“Cậu lùi ngay lại cho tôi. Cậu nghe thấy tôi nói gì không? Cậu lùi lại mau. Bệnh nhân này ngất xỉu rồi.” Chuck buông cổ tay bệnh nhân ra để nó rớt xuống ngực anh ta rồi ngồi dựa vào tường, mắt không rời khỏi người lính gác. “Cậu nghe thấy tôi nói chứ?” anh nói khẽ. 

Người lính gác cụp mắt và hạ chiếc dùi cui xuống. Cậu ta lấy vạt áo chạm vào vết thương trên má mình rồi nhìn vệt máu thấm trên đó. “Gã ta xé rách cả mặt tôi.”

Teddy nhoài người ra nhìn vào vết thương. Anh từng thấy nhiều thứ tệ hơn nhiều; thằng bé sẽ không gặp nguy hiểm gì. Nhưng vết toạc rất xấu. Không bác sĩ nào có thể khâu nó lại như trước.

Anh nói, “Cậu sẽ ổn thôi. Chỉ vài vết khâu.”

Phía trên đầu họ có tiếng người xô xát và đồ đạc đổ vỡ. 

“Các cậu có bạo loạn à?” Chuck nói.

Người lính gác khó nhọc thở bằng đường mũi cho tới khi sắc mặt cậu ta trở lại bình thường. “Cũng gần như thế.”

“Các tù nhân cướp ngục à?” Chuck nhẹ nhàng hỏi.

Cậu thanh niên trẻ nhìn về phía Teddy với vẻ thận trọng rồi quay sang Chuck. “Chưa tới mức đó.”

Chuck rút từ trong túi ra một chiếc khăn mùi soa và đưa cho cậu ta. 

Cậu thanh niên gật đầu cảm ơn rồi áp nó vào mặt. 

Chuck lại nhấc cổ tay của bệnh nhân lên, và Teddy quan sát anh ta bắt mạch cho bệnh nhân. Anh ta thả tay bệnh nhân ra rồi đẩy một bên mi mắt bệnh nhân lên, nhìn Teddy và bảo, “Gã ta vẫn còn sống.”

“Hãy lôi hắn dậy,” Teddy nói.

Họ quàng tay người bệnh lên vai rồi đi theo người lính gác lên cầu thang. Gã ta không nặng lắm nhưng cầu thang rất dài hơn nữa mũi chân gã này cứ mắc vào mép bậc thang. Khi họ lên tới đầu cầu thang, người lính gác quay lại, trông cậu ta có vẻ già dặn hơn, và có thể cũng sáng dạ hơn một chút. 

“Các anh là đặc vụ,” cậu ta nói.

“Gì cơ?”

Cậu ta gật đầu. “Đúng thế. Tôi nhìn thấy các anh lúc mới tới.” Cậu ta khẽ mỉm cười với Chuck. “Là do cái vết sẹo trên mặt anh, anh biết không?” 

Chuck khẽ thở dài.

“Các anh đang làm gì ở đây vậy?” 

“Để cứu cái mặt cậu,” Teddy nói.

Người lính gác lấy chiếc khăn mùi soa ra khỏi vết thương, nhìn nó một lúc rồi lại áp vào chỗ cũ. 

“Cái gã mà các anh đang giữ ấy,” cậu ta nói, “tên là Paul Vingis. Ở West Virginia. Giết vợ và hai con gái của anh trai trong khi ông anh đang chiến đấu ở Triều Tiên. Giữ họ dưới tầng hầm, các anh biết không, tự thỏa mãn trong lúc xác họ phân hủy.”

Teddy cố cưỡng lại ý muốn hất cánh tay Vingis ra, để mặc cho gã rơi xuống cầu thang. 

“Sự thực là,” cậu thanh niên khẽ hắng giọng trước khi nói tiếp. “Sự thực là gã lại có thêm nạn nhân mới là tôi.” Đôi mắt đỏ ngầu của cậu ta bắt gặp mắt họ.

“Tên cậu là gì?”

“Baker. Fred Baker.”

Teddy bắt tay cậu ta. “Nhìn này, Fred? Chúng tôi rất vui đã có thể giúp cậu.”

Cậu thanh niên nhìn xuống giày của mình với những vệt máu lấm tấm trên đó. “Nhưng hỏi lại lần nữa, các anh đang làm gì ở đây?”

“Chỉ nhìn ngó xung quanh một chút thôi,” Teddy nói. “Hai ba phút rồi chúng tôi sẽ đi.”

Cậu thanh niên suy nghĩ một lúc. Trong khi đó Teddy nghĩ tới hai năm vừa qua của đời mình - mất Dolores, truy lùng dấu vết của Laeddis, tìm ra nơi này, cuộc gặp gỡ tình cờ với George Noyce và những câu chuyện của anh ta về các thí nghiệm thuốc và thùy não, tìm cách liên hệ với Thượng nghị sĩ Hurly, chờ đợi thời cơ vượt biển sang đây mà cứ như để vượt Kênh đào Anh tới Normandy - tất cả những chuyện đó đang phụ thuộc vào quyết định của cậu thanh niên này. 

“Các anh biết không,” cậu ta nói. “Tôi đã làm việc ở vài nơi nguy hiểm. Mấy trại giam, một nhà tù cực lớn có hệ thống an ninh tối tân, một chỗ khác cũng là nhà thương điên cho phạm nhân tâm thần...” Cậu ta nhìn về phía cửa, mắt giãn ra như thể cậu ta sắp ngáp nhưng miệng vẫn khép chặt. “Đúng thế, tôi đã từng làm việc ở nhiều nơi. Nhưng cái chỗ này?” Cậu ta lẳng lặng nhìn mỗi người bọn họ một lúc lâu rồi nói tiếp, “Họ tự đặt ra luật chơi của riêng mình.”

Cậu ta quay sang nhìn Teddy chằm chằm, anh cố đọc ý nghĩ trong đôi mắt đó, nhưng chỉ thấy một cái nhìn xa xăm, vô hồn, và già cỗi. 

“Vài ba phút?” Cậu ta gật gù. “Thôi được. Cũng chẳng ai để ý trong cái lúc bát nháo này. Các anh có vài phút rồi hãy đi khỏi đây, được chứ?”

“Chắc chắn rồi,” Chuck nói.

“Và này,” cậu ta khẽ mỉm cười với họ khi tới gần cửa. “Cố đừng chết trong mấy phút đấy nhé, được không? Tôi sẽ đánh giá cao điều đó.”

HỌ BƯỚC QUA CỬA, tiến vào một khu buồng giam có tường và sàn bằng đá cẩm thạch chạy theo suốt dọc pháo đài dưới một mái vòm rộng ba mét và cao bốn mét hai mươi. Ánh sáng duy nhất trong căn phòng đến từ mấy ô cửa sổ cao ở đầu và cuối sảnh, nước rỏ tong tỏng từ trần xuống đọng thành vũng trên sàn. Các buồng giam được bố trí bên phải và bên trái họ, nằm im lìm trong bóng tối.

Baker nói, “Máy phát điện chính của chúng tôi bị hỏng vào khoảng bốn giờ sáng nay. Khóa ở các phòng giam đều được điều khiển bằng điện. Đó là một trong những sáng kiến mới của chúng tôi. Sáng kiến tuyệt vời chết mẹ! Thế nên tất cả các cửa phòng giam đồng loạt mở vào lúc bốn giờ sáng. May là chúng tôi còn sử dụng thêm cả khóa thường nên hầu hết bệnh nhân vẫn còn ở trong phòng và chúng tôi khóa họ lại, nhưng một tên trong số đó không hiểu sao lại có được chìa khóa. Hắn thoắt ẩn thoắt hiện, lẻn tới mở cửa các phòng giam khác, ít nhất mỗi lần một phòng rồi lại biến mất tiêu.”

Teddy nói, “Có phải là một gã hói đầu không?”

Baker nhìn anh. “Hói đầu? Đúng vậy. Hắn ta là người mà chúng tôi không sao bắt được. Chắc là hắn. Tên hắn là Litchfield.”

“Hắn ta chơi trò đuổi bắt ở cầu thang chỗ chúng tôi vừa đi qua. Cầu thang dưới kia kìa.”

Baker dẫn họ tới buồng giam thứ ba phía bên phải và mở cửa ra. “Vứt hắn vào đó.”

Họ mất vài giây để lần mò chiếc giường trong bóng tối. Baker bật đèn pin soi cho họ đặt Vingis xuống giường, hắn khẽ rên rỉ, máu sủi bong bóng trong mũi.

“Tôi cần có thêm người hỗ trợ để đi tìm Litchfield,” Baker nói. “Tầng hầm là nơi nhốt những kẻ chúng tôi thậm chí không thể cho ăn được nếu không có ít nhất sáu lính gác trong phòng. Nếu bọn chúng mà xổng ra thì sẽ có một vụ Alamo(9) mới ở đây.”

“Cậu nên gọi hỗ trợ y tế trước,” Chuck nói.

Baker xoay chiếc khăn mùi soa để tìm một chỗ còn sạch áp lên vết thương. “Không có thời gian.”

“Cho hắn ta ấy,” Chuck nói.

Baker nhìn họ qua những chấn song rồi nói, “Thôi được. Được rồi. Tôi sẽ đi tìm một bác sĩ. Và hai người nữa? Nhớ lẹ lên đấy, được không?”

“Được rồi. Nhớ tìm cho hắn ta một bác sĩ!” Chuck nói khi họ ra khỏi phòng giam.

Baker khóa cửa lại. “Tôi sẽ làm.”

Cậu ta đi về phía đầu kia của khu buồng giam, ngang qua ba lính gác đang kéo một bệnh nhân to lớn rậm râu về phòng giam rồi biến mất sau cánh cửa.

“Cậu nghĩ sao?” Teddy nói. Đứng ở lối đi, qua một cửa sổ buồng giam ở đằng xa anh có thể nhìn thấy một người đàn ông đang đu lên các chấn song và mấy người lính gác đang kéo một chiếc vòi phun nước. Mắt anh bắt đầu điều chỉnh để nhận biết những nơi có ánh sáng lờ mờ trong hành lang, nhưng các buồng giam vẫn tối om. 

“Chắc phải có tủ hồ sơ ở đâu đó,” Chuck nói. “Để phục vụ việc điều trị và tham khảo. Sếp đi tìm Laeddis, còn tôi đi tìm hồ sơ nhé?”

“Cậu đoán họ để hồ sơ ở đâu?”

Chuck quay đầu nhìn ra phía cửa. “Với những âm thanh mà chúng ta nghe thấy, có lẽ càng lên cao càng ít nguy hiểm hơn. Tôi đoán bộ phận văn phòng chắc đặt trên cao.”

“Thôi được. Chúng ta sẽ gặp lại nhau khi nào và ở đâu?”

“Mười lăm phút?”

Lúc này những người lính gác đã điều chỉnh xong chiếc vòi phun nước và chĩa về phía tay bệnh nhân, thổi phụt anh ta ngã xuống sàn. Người vỗ tay từ trong buồng giam, kẻ thì rên rỉ một cách não nề và ai oán cứ như vừa thua trận. 

“Mười lăm phút chắc là được. Gặp nhau ở sảnh lớn nhé?”

“Được thôi.”

Họ bắt tay nhau, tay Chuck ướt đẫm mồ hôi, môi trên của anh ta bóng nhẫy.

Một bệnh nhân đâm sầm vào cánh cửa phía sau lưng họ rồi lao thẳng vào bên trong. Chân anh ta để trần, cáu bẩn, và cái cách anh ta chạy giống như một vận động viên đấm bốc được đào tạo bài bản chuẩn bị ra tranh giải, những sải chân phối hợp uyển chuyển cùng những cú ra đòn. 

“Xem tôi có thể làm được gì,” Teddy nói và mỉm cười với Chuck.

“Được rồi, gặp lại sau vậy!”

“Gặp lại sau.”

Chuck bước về phía cửa đúng lúc hai hộ lý khác đi lên cầu thang. Chuck rẽ ngoặt rồi biến mất. Một hộ lý bảo Teddy, “Anh có thấy Niềm Hy Vọng Trắng Vĩ Đại đi qua đây không?”

Teddy nhìn qua hành lang thấy bệnh nhân nọ đang di chuyển nhịp nhàng trên gót chân và đấm liên tục vào không khí. Teddy chỉ về phía đó và cả ba người bọn họ bước tới.

“Anh ta từng là vận động viên đấm bốc à?”

Người hộ lý phía bên trái anh, một người da đen lớn tuổi, cao to nói, “Ối giời, cậu lại vừa từ bãi biển tới hả? Làm việc ở đó thì khác nào đi nghỉ. Hừm, Willy đấy, anh ta nghĩ rằng anh ta đang được tập luyện để tham dự một trận đấu ở Madison Square với Joe Louis(10). Vấn đề ở chỗ anh ta cũng đấm đá ra trò ấy chứ!” 

Họ tiến lại gần gã bệnh nhân, Teddy nhìn thấy những nắm đấm của anh ta như xé toang không khí. 

“Sẽ cần đến nhiều hơn ba người chúng ta.”

Người hộ lý lớn tuổi cười tủm tỉm. “Chỉ cần một người thôi. Tôi là huấn luyện viên của anh ta. Anh không biết sao?” Ông ta gọi to, “Này Willy. Phải massage cho cậu một chút, chàng trai của tôi. Không có nhiều thời gian đâu, chỉ còn một tiếng nữa là tới giờ thi đấu.”

“Không muốn massage đâu.” Willy bắt đầu tấn công không khí bằng những miếng đòn nhanh. 

“Tôi không thể để mất miếng cơm vì chuột rút được,” người hộ lý nói. “Nghe thấy gì không?”

“Chuột rút có mỗi lần tôi đấu với Jersey Joe thôi.”

“Và nhìn xem hậu quả thế nào?”

Hai cánh tay của Willy buông thõng xuống bên sườn. “Ông có lý.”

“Phòng tập phía bên này.” Người hộ lý giang tay chỉ về phía bên trái vẻ mời mọc.

“Đừng có chạm vào người tôi. Tôi không thích bị chạm vào người trước một trận đấu. Ông biết thế mà.”

“Ôi tôi biết chứ, sát thủ.” Ông ta mở cửa buồng giam. “Vào đi.”

Willy bước về phía phòng giam. “Ông thực sự có thể nghe thấy họ, ông biết không? Đám đông ấy.”

“Hạ đo ván hắn, chàng trai của tôi. Hạ đo ván hắn.”

Teddy và người hộ lý kia tiếp tục bước đi. Người hộ lý lớn tuổi chìa một bàn tay màu nâu sẫm ra, “Tôi là Al.”

Teddy bắt tay ông ta. “Tôi là Teddy, Al. Rất vui được gặp ông.”

“Sao tất cả bọn anh lại bị triệu tập ra bên ngoài thế hả Teddy?”

Teddy nhìn xuống áo mưa của mình. “Vệ sinh mái. Giữa đường nhìn thấy một bệnh nhân trên cầu thang nên đuổi theo tới đây. Đoán là các anh cần giúp đỡ.”

Một nắm phân rơi bịch xuống sàn nhà ngay cạnh chân Teddy và ai đó đang cười sằng sặc trong những buồng giam tối om, Teddy mắt vẫn hướng thẳng, không hề dừng bước. 

Al nói, “Cậu càng bám vào chính giữa lối đi càng tốt. Nhưng kể cả làm vậy thì thỉnh thoảng cũng không thoát được bị ném cái thứ ít nhất một tuần thải một lần ấy vào người. Cậu thấy bệnh nhân cậu đang tìm chưa?”

Teddy lắc đầu. “Chưa, tôi...”

“Ôi, mẹ kiếp,” Al nói.

“Gì cơ?”

“Tôi thì thấy bệnh nhân của mình rồi.”

Hắn ta đang chạy phía bên phải họ, người ướt sũng, và Teddy nhìn thấy những người lính gác vứt vòi nước ở đó đuổi theo hắn. Một người đàn ông nhỏ thó, tóc đỏ, mặt giống như tổ ong, đầy mụn đầu đen, mắt đỏ au như màu tóc. Hắn đột ngột rẽ phải, ngồi thụp xuống khi thấy cánh tay Al vờn trên đầu hắn, rồi trượt trên đầu gối, lăn một vòng trước khi lồm cồm bò dậy. 

Al rượt theo hắn, theo sau là những người lính gác, dùi cui lăm lăm trên đầu, người cũng ướt sũng, chẳng kém gì gã đàn ông mà họ truy đuổi. 

Teddy toan gia nhập cuộc đuổi bắt thì như có bản năng mách bảo, anh chợt nghe thấy tiếng thì thầm: “Laeddis.”

Anh đứng giữa căn phòng, đợi để nghe tiếng nói ấy vang lên lần nữa. Nhưng chẳng có gì. Chỉ là những tiếng rên rỉ của đám đông bị gián đoạn trong lúc đuổi bắt gã bệnh nhân tóc đỏ, lúc này lại vang dậy, bắt đầu vo vo giữa những tiếng lách cách của giường sắt. 

Teddy lại nghĩ tới những viên thuốc màu vàng. Nếu Cawley nghi ngờ, thật sự nghi ngờ rằng anh và Chuck đã...

“Laed. Dis”

Anh quay đầu nhìn thẳng vào ba buồng giam phía bên phải. Tất cả đều tối om. Teddy chờ đợi, biết rằng người vừa nói có thể nhìn thấy anh và tự hỏi không hiểu đó có phải là Laeddis hay không?

“Đáng lẽ anh phải cứu tôi.”

Giọng nói vang lên, không phải từ buồng giam ở giữa hay bên trái. Đó không phải là giọng nói của Laeddis. Chắc chắn không. Nhưng cũng là một giọng nói quen thuộc với anh như giọng hắn vậy.

Teddy tiến lại gần song sắt trước cửa buồng giam ở giữa. Anh lục trong túi và lôi ra một bao diêm. Anh đánh que diêm lên và nhìn thấy một cái bồn nhỏ, một người đàn ông người teo tóp đang quỳ trên giường, viết hí hoáy lên tường. Ông ta ngoái đầu lại nhìn Teddy. Không phải Laeddis. Hay ai đó mà anh biết. 

“Anh không phiền chứ? Tôi thích làm việc trong bóng tối hơn. Cảm ơn anh nhiều!”

Teddy rời khỏi song sắt, quay sang nhìn bức tường phía bên trái phòng giam dày kín chữ, không hở lấy một phân, hàng ngàn dòng chữ sin sít, ngay ngắn, những chữ cái nhỏ li ti, phải dán mắt vào tường mới đọc được. 

Anh bước sang buồng giam bên cạnh, que diêm phụt tắt, và một giọng nói vang lên, lúc này ở rất gần anh, “Anh đã làm tôi thất vọng.”

Tay Teddy run run khi anh cố quẹt que diêm tiếp theo khiến đầu diêm bị gẫy lúc quệt vào lớp vỏ bao. 

“Anh bảo tôi là tôi sẽ được ra khỏi chỗ này. Anh đã hứa thế.”

Teddy quẹt thêm một que diêm nữa, luống cuống thế nào lại để nó rơi vào bên trong buồng giam, không bắt lửa. 

“Anh đã lừa tôi.”

Que diêm thứ ba xoẹt vào lớp vỏ bao kêu lên một tiếng xèo xèo rồi phát sáng trên tay anh, anh giơ nó lên trước chấn song và nhìn vào bên trong. Người đàn ông đang ngồi cúi đầu trên chiếc giường kê trong góc trái buồng giam, mặt úp vào đầu gối, hai tay ôm lấy chân. Đầu anh ta hói ở giữa, tóc xung quanh đã ngả màu muối tiêu. Anh ta chỉ mặc độc một chiếc quần đùi màu trắng. Trông anh ta gầy trơ xương.

Teddy liếm môi và vòm họng khô khốc của mình. Anh nhìn que diêm rồi nói, “Xin chào?”

“Họ mang tôi về lại đây. Họ nói tôi là người của họ.”

“Tôi không thể nhìn thấy mặt anh.”

“Họ nói giờ tôi đã về tới nhà.”

“Anh có thể ngẩng đầu lên được không?”

“Họ nói đây là nhà tôi. Tôi sẽ không bao giờ rời khỏi đây nữa.”

“Cho tôi nhìn mặt anh.”

“Tại sao?”

“Cho tôi nhìn mặt anh.”

“Anh không nhận ra giọng nói của tôi sao? Sau tất cả những cuộc chuyện trò giữa hai chúng ta?”

“Hãy ngẩng đầu lên.”

“Tôi thường muốn nghĩ rằng chuyện đó đã vượt qua tính chất công việc thuần túy. Rằng chúng ta đã trở thành bạn bè hay gì đó. À mà này, que diêm của anh sắp tắt rồi.”

Teddy nhìn lên mảng da đầu hói và thân hình run rẩy của người đàn ông.

“Tôi đang nói với anh là, anh bạn...” 

“Nói gì với tôi? Nói gì với tôi? Anh có thể nói gì với tôi? Lại thêm những lời nói dối, tất cả chỉ có thế.”

“Tôi không...” 

“Anh là một kẻ lừa dối.”

“Không. Tôi không phải là kẻ lừa dối. Anh hãy ngẩng đầu...”

Ngọn lửa bắt đầu liếm vào đầu ngón tay trỏ và một bên ngón tay cái của Teddy nên anh vội vứt que diêm xuống sàn.

Căn phòng biến mất. Anh chỉ còn nghe thấy tiếng chân giường kêu cọt kẹt, tiếng quần áo cọ vào đá và tiếng xương kêu răng rắc. Teddy lại nghe thấy cái tên đó lần nữa:

“Laeddis.”

Lần này thì giọng nói vang lên từ phía bên phải buồng giam. 

“Đó không phải là để tìm kiếm sự thật.”

Teddy rút hai que diêm ra cùng một lúc và chụm chúng lại. 

“Chưa bao giờ.”

Anh đánh hai que diêm. Chiếc giường trống không. Anh soi diêm sang phía bên phải và nhìn thấy người đàn ông đó lúc này đang đứng trong góc tường, quay lưng lại phía anh.

“Tôi nói có đúng không?”

“Cái gì đúng cơ?” Teddy nói.

“Tìm kiếm sự thật ấy?”

“Có chứ.”

“Không.”

“Đó chính là để tìm kiếm sự thật. Bằng cách phơi bày...”

“Đó chính là về anh. Và Laeddis. Đó là tất cả những gì mà câu chuyện này xoay quanh. Tôi chỉ là một thứ công cụ. Một phương tiện giúp anh đạt mục đích.”

Người đàn ông xoay mình lại. Bước về phía anh. Khuôn mặt của anh ta hoàn toàn biến dạng. Một đống thịt bầy nhầy, sưng vều, đen, đỏ, tím bầm. Mũi bị đấm vỡ và dán băng cứu thương hình chữ X màu trắng.

“Chúa ơi,” Teddy kêu lên.

“Anh hài lòng chứ?”

“Ai đã gây ra chuyện này?”

“Anh chứ ai.”

“Làm thế quái nào mà tôi có thể...” 

George Noyce bước lại gần song sắt, môi anh ta sưng vều như cái lốp xe bầm máu. “Tất cả những lời ngon ngọt của anh. Những gì anh nói đã khiến tôi phải vào lại đây. Chỉ tại anh.”

Teddy nhớ lại lần cuối cùng anh gặp anh ta trong phòng tiếp khách nhà tù. Thậm chí với nước da tối màu do bị cầm tù lâu ngày, anh ta trông vẫn khỏe mạnh, sống động, gánh nặng ưu phiền đã được trút bỏ phần nhiều. Anh ta còn kể câu chuyện cười gì đó về một anh chàng người Ý và một anh chàng người Đức cùng bước vào quán bar ở El Paso.

“Anh hãy nhìn tôi,” George Noyce nói. “Đừng nhìn đi chỗ khác. Anh chưa bao giờ muốn phanh phui chỗ này ra ánh sáng.”

“George,” Teddy nói, giọng vẫn nhẹ nhàng, bình tĩnh. “Không đúng vậy.”

“Đúng thế.”

“Không đúng. Thế anh nghĩ tôi dành suốt cả một năm vừa rồi để lên kế hoạch cho cái gì? Cho chuyện này. Chính lúc này. Ngay tại đây.”

“Anh là đồ chó chết!”

Teddy có thể cảm thấy tiếng kêu của anh ta táp vào mặt anh. 

“Anh là đồ chó chết!” George lại hét lên. “Anh dành suốt cả năm vừa rồi lên kế hoạch? Kế hoạch giết người. Tất cả là thế. Giết Laeddis. Đó là trò chơi khốn kiếp của anh. Và nhìn xem nó đưa tôi tới đâu. Chỗ này đây. Về lại chỗ này. Tôi không thể chịu đựng được chỗ này. Tôi không thể nào chịu đựng được cái nhà thương điên rùng rợn này. Anh có nghe thấy tôi nói gì không? Tôi không chịu nổi nữa. Không chịu nổi nữa. Không chịu nổi nữa rồi!”

“George, nghe này. Làm thế nào mà họ lại túm được anh? Cần phải có lệnh chuyển trại giam. Cần có kết luận của các bác sĩ tâm lý. Hồ sơ bệnh lý, George. Mọi thủ tục giấy tờ.”

George cười phá lên. Anh ta áp mặt vào song sắt, nhướng mày bảo Teddy, “Anh có muốn nghe một bí mật không?”

Teddy tiến gần thêm một bước. 

George nói, “Thế là tốt...”

“Nói cho tôi biết xem nào,” Teddy nói.

George nhổ vào mặt anh.

Teddy lùi lại, vứt que diêm xuống đất rồi lấy tay áo lau miếng đờm khỏi trán.

Trong bóng tối, George nói, “Anh có biết bác sĩ Cawley đáng mến là chuyên gia về lĩnh vực gì không?”

Teddy sờ tay lên trán và sống mũi, thấy da đã khô. “Cảm giác tội lỗi của những người sống sót, chấn thương tâm lý sau khi mất người thân.”

“Khôôông,” George vừa nói vừa cười khô khốc. “Bạo lực. Ở giống đực. Ông ta đang tiến hành nghiên cứu.”

“Không. Đó là Naehring.”

“Là Cawley. Hoàn toàn là Cawley. Người ta gửi cho ông ta những bệnh nhân và tội nhân bạo lực nhất từ khắp nơi trên cả nước. Anh có bao giờ hỏi tại sao cái nhà thương điên này lại có ít bệnh nhân thế không? Và anh có nghĩ, thực lòng nhé, rằng có ai đó lại rỗi hơi đi nhòm ngó giấy thuyên chuyển của một người có tiền án bạo lực và tiền sử bệnh tâm thần? Mẹ kiếp, anh thực sự nghĩ thế ư?”

Teddy lại quẹt thêm hai que diêm.

“Giờ thì tôi sẽ chẳng bao giờ ra khỏi đây được nữa,” Noyce nói. “Tôi đã đi khỏi chỗ này một lần. Nhưng không có lần thứ hai. Vĩnh viễn chẳng có lần thứ hai.” 

Teddy nói, “Bình tĩnh nào, bình tĩnh nào. Làm thế nào mà họ tóm được anh?”

“Họ biết hết. Anh vẫn chưa hiểu ra à? Tất cả những gì anh đang mưu tính. Tất cả các kế hoạch của anh. Đây là một trò chơi. Một vở kịch được dàn dựng rất công phu. Tất cả những chuyện này,” anh ta giơ tay quét một vòng trên đầu rồi nói tiếp, “đều là vì anh.”

Teddy mỉm cười, “Họ cũng tạo ra luôn cả cơn bão này vì tôi hả? Đúng là khiếp thật.”

Noyce im lặng.

“Chuyện này giải thích thế nào?”

“Tôi chịu.”

“Đừng suy nghĩ linh tinh. Hãy bớt hoang tưởng đi được không?”

“Ở một mình nhiều không?” Noyce nói và nhìn anh chằm chằm qua song sắt.

“Gì cơ?”

“Một mình. Kể từ khi chuyện này bắt đầu, anh hoạt động một mình chứ?” 

“Một mình suốt.”

George nhướng một bên mày. “Hoàn toàn chỉ có một mình?”

“À, với đồng sự của tôi nữa.”

“Thế ai là đồng sự của anh?”

Teddy tì ngón tay cái lên song sắt. “Tên cậu ta là Chuck. Cậu ta...” 

“Để tôi đoán xem nhé,” Noyce nói. “Anh chưa từng làm việc với anh ta trước đây, đúng không?”

Teddy cảm thấy như chính anh đang ở trong buồng giam. Những khớp xương trên cánh tay anh lạnh buốt. Trong giây lát anh không tài nào mở miệng được như thể não anh đã quên mất cách điều khiển lưỡi. 

“Cậu ta là một đặc vụ Mỹ ở Seattle...” cuối cùng anh lên tiếng.

“Anh chưa từng làm việc với anh ta trước đây đúng không?”

Teddy nói, “Chuyện này chẳng có liên quan gì. Tôi biết nhìn người. Tôi biết anh chàng đó. Tôi tin cậu ta.”

“Dựa vào đâu?”

Không có câu trả lời đơn giản cho chuyện này. Làm sao một người có thể biết được niềm tin của anh ta bắt đầu từ đâu? Phút trước thôi nó chưa hề xuất hiện, phút sau nó đã ở đó rồi. Teddy đã từng biết những người đàn ông anh có thể tin tưởng giao phó cả cuộc đời mình trong chiến đấu nhưng thậm chí không dám giao ví cho họ ở đời thường. Anh cũng từng biết những người đàn ông mà anh có thể tin cậy gửi ví tiền, thậm chí cả vợ mình, nhưng chưa bao giờ có ý định sát cánh với họ trong một trận chiến hay bước cùng họ qua một cánh cửa. 

Chuck có thể từ chối đi cùng anh, có thể chọn cách ở lại khu nội trú nam, ngủ cho tới khi cơn bão tan và chờ con phà tới đón. Công việc của họ đã xong - Rachel Solando đã được tìm thấy. Chuck chẳng có lý do hay ích lợi gì khi cùng Teddy theo đuổi việc tìm kiếm Laeddis và điều tra để chứng minh bệnh viện Ashecliffe là một sự xúc phạm đối với lời thề Hippocrat. Thế mà Chuck vẫn có mặt ở đây.

“Tôi tin cậu ấy,” Teddy nhắc lại. “Chỉ đơn giản thế thôi.”

Noyce nhìn anh một cách buồn bã sau song sắt. “Thế là họ thắng rồi.”

Teddy vẩy tắt que diêm rồi vứt xuống đất. Anh mở bao diêm và lôi ra que cuối cùng. Anh nghe thấy tiếng Noyce khịt mũi bên cạnh song sắt. 

“Làm ơn,” anh ta nói khẽ và Teddy biết là anh ta đang khóc. “Làm ơn.”

“Gì cơ?”

“Làm ơn đừng để tôi chết ở đây.”

“Anh sẽ không chết ở đây.”

“Họ sẽ mang tôi ra chỗ ngọn hải đăng. Anh biết thế mà.”

“Ngọn hải đăng hả?”

“Họ sẽ cắt não tôi ra.” 

Teddy châm que diêm và khi ngọn lửa lóe lên anh thấy Noyce túm chặt lấy song sắt và lay mạnh, nước mắt ứa ra từ đôi mắt húp híp chảy tràn xuống khuôn mặt sưng vều. 

“Họ sẽ không...”

“Anh hãy tới đó. Anh tới xem cái chỗ đó đi. Và nếu anh còn sống sót mà trở lại thì hãy nói cho tôi biết họ làm gì ở đó. Tự anh hãy tới đó mà xem.”

“Tôi sẽ đi, George. Tôi sẽ làm việc đó. Tôi sẽ tìm cách đưa anh ra khỏi chỗ này.”

Noyce cúi mặt, tì cái đỉnh đầu trọc lóc vào song sắt và khóc sụt sùi. Teddy nhớ lại lần cuối cùng họ gặp nhau trong phòng khách nhà tù, George nói với anh, “Nếu tôi phải quay lại cái chỗ đó, tôi sẽ tự sát,” và Teddy trả lời, “Chuyện đó sẽ không bao giờ xảy ra.”

Đó rõ ràng là một lời nói dối.

Bởi vì Noyce đã quay trở lại đây. Bị đánh đập, suy sụp, run rẩy vì sợ hãi. 

“George, hãy nhìn tôi.” Noyce ngẩng đầu lên.

“Tôi sẽ đưa anh ra khỏi chỗ này. Cố gắng lên. Đừng làm việc gì để hối không kịp. Anh có nghe tôi nói không? Anh phải cố gắng cầm cự. Tôi sẽ trở lại tìm anh.”

George Noyce mỉm cười qua làn nước mắt và chậm rãi lắc đầu. “Anh không thể nào giết Laeddis và phơi bày sự thật cùng một lúc. Anh phải lựa chọn. Anh hiểu điều đó, đúng không?”

“Hắn ở đâu?”

“Hãy nói với tôi là anh hiểu.”

“Tôi hiểu. Hắn ở đâu?”

“Anh phải chọn.”

“Tôi sẽ không giết ai cả. George? Không đâu.”

Nhìn Noyce đằng sau song sắt anh cảm thấy anh sẽ không làm chuyện đó thật. Nếu điều đó có thể giúp cái sinh vật đáng thương, cái nạn nhân khốn khổ kia được trở về nhà, anh sẽ sẵn sàng chôn đi mối hận của mình. Không trả thù. Để dành nó vào dịp khác. Hy vọng Dolores sẽ hiểu.

“Tôi sẽ không giết ai cả,” anh nhắc lại.

“Đồ nói dối.”

“Không đúng.”

“Cô ấy chết rồi. Hãy để cô ấy đi đi.”

Anh ta áp khuôn mặt dở khóc dở cười vào giữa hai chấn song và nhìn Teddy với ánh mắt dịu dàng từ đôi mắt sưng vù. 

Teddy cảm thấy cô đã xuất hiện ngay trong cơ thể anh, nghèn nghẹn nơi cổ họng. Anh có thể thấy cô đang ngồi giữa làn sương mờ một ngày đầu tháng Bảy, dưới ánh sáng màu cam sẫm của thành phố vào những buổi tối mùa hè khi hoàng hôn vừa tắt, quần áo phơi phấp phới phía trên, cô ngẩng đầu nhìn lên khi thấy anh đỗ xe lại bên lề đường và lũ trẻ trở về sau khi chơi bóng chày giữa phố. Và rồi cô quan sát anh tiến lại gần, tay chống cằm, một điếu thuốc gài bên tai. Có một lần anh mua hoa tặng cô vì lẽ rất đơn giản, cô là tình yêu của đời anh, là vợ anh, là người ngắm nhìn anh khi anh bước lại gần như thể cố ghi lại từng đường nét của anh, cái cách anh rảo bước về phía cô với những bông hoa đó, trong giây phút đó. Và anh những muốn hỏi cô trái tim phát ra âm thanh gì khi nó òa vỡ vì sung sướng, khi bóng dáng một người khiến cõi lòng anh viên mãn tràn đầy theo cách mà đồ ăn, máu hay không khí chẳng bao giờ làm được, khi anh cảm thấy như thể anh được sinh ra chỉ cho một giây phút duy nhất, và giây phút ấy, vì bất cứ lý do gì chính là lúc này đây. 

Hãy để cô ấy đi, Noyce vừa nói thế.

“Tôi không thể,” Teddy nói và những từ đó vỡ ra với một âm điệu chói tai khiến anh cảm thấy tiếng la hét vẫn còn dội lên giữa ngực. 

Noyce vẫn bám tay vào song sắt, ngửa người ra phía sau và ngoẹo đầu cho tới khi tai dựa vào vai. 

“Thế thì anh sẽ chẳng bao giờ rời khỏi hòn đảo này.”

Teddy im lặng không nói gì.

Noyce thở dài như thể những gì Teddy vừa nói đang làm anh ta chán tới độ muốn ngủ gật dù đang đứng. “Hắn đã được chuyển ra khỏi Khu C. Nếu hắn không ở Khu A thì chỉ có mỗi một chỗ duy nhất nữa thôi.”

Anh ta chờ cho tới khi Teddy hiểu ý.

“Ngọn hải đăng,” Teddy nói.

Noyce gật đầu, và que diêm cuối cùng phụt tắt. 

Phải mất tới một phút Teddy chỉ đứng đó, nhìn chằm chằm vào bóng tối và rồi anh nghe thấy tiếng thang giường lách cách khi Noyce đặt mình xuống. 

Anh quay người bỏ đi.

“Này,” Noyce nói.

Anh dừng lại, đứng quay lưng về phía song sắt và chờ đợi.

“Chúa phù hộ cho anh!”

KHI ANH QUAY NGƯỜI định rời khỏi khu xà lim thì thấy Al đang đứng đợi. Ông ta đứng ở giữa hành lang lát đá hoa cương uể oải nhìn Teddy. 

“Ông đã tìm thấy bệnh nhân của mình chưa?” Teddy hỏi.

Al bước tới đi bên cạnh anh. “Rồi chứ. Tên khốn trơn thùi lụi, nhưng mà ở đây thì cũng chẳng chạy đi đâu xa được.”

Họ đi về phía cuối xà lim, di chuyển ở giữa hành lang, và Teddy như nghe thấy Noyce hỏi nếu anh có lúc nào ở nơi này một mình? Anh băn khoăn không hiểu Al đã quan sát anh từ bao lâu? Anh nghĩ tới ba ngày vừa qua, cố tìm lấy một giây mà anh hoàn toàn chỉ có một mình? Thậm chí cả lúc tắm anh cũng phải sử dụng phòng tắm chung của nhân viên cùng với một người khác ở ô bên cạnh hay đứng chờ trước cửa. 

Nhưng không, anh và Chuck đã một mình đi ra bên ngoài mấy lần...

Anh và Chuck. 

Anh thật sự biết gì về Chuck? Anh hình dung ra khuôn mặt Chuck trong giây lát, lúc cậu ấy đứng trên con phà nhìn xuống biển...

Một chàng trai tuyệt vời có thể khiến bạn thích ngay lập tức, dễ dàng tự nhiên hòa nhập với mọi người, kiểu đàn ông mà bạn muốn được giao du. Từ Seattle đến. Mới chuyển công tác. Một tay chơi bài cừ khôi. Ghét bố đẻ - một thứ có vẻ không ăn nhập với phần còn lại của con người anh ta. Còn có một cái gì đó không phù hợp nữa, cái gì đó mà Teddy chịu không tìm ra được từ chính xác để diễn tả, một cái gì đó... Gọi nó là gì nhỉ? Vụng về. Chính là từ này. Nhưng không, không có gì vụng về ở Chuck. Anh ta là hóa thân của suôn sẻ. Trơn như đít vịt, đó là một câu ngạn ngữ mà cha của Teddy rất thích. Không, chẳng có chút gì vụng về ở con người này. Không lẽ, không có lấy một giây phút nào Chuck tỏ ra lúng túng hay bối rối sao? Hẳn là phải có chứ. Teddy dám chắc thế. Nhưng ngay lúc này anh không tài nào nhớ ra nổi những tiểu tiết như vậy. Không phải bây giờ. Không phải ở đây. Và dù gì đi nữa thì toàn bộ cái ý tưởng đó cũng thật lố bịch. Anh tin Chuck. 

Chuck đã lục lọi bàn làm việc của Cawley để tìm hồ sơ cho anh còn gì.

Thế anh có nhìn thấy anh ta làm vậy không? 

Chuck, ngay lúc này đây, đang mạo hiểm sự nghiệp của mình để đi tìm hồ sơ của Laeddis. 

Làm sao mà anh biết được?

Hai người đi ra tới cửa và Al nói, “Chỉ cần quay lại chỗ đầu cầu thang rồi đi lên. Anh sẽ tìm thấy tầng mái không khó khăn gì.”

“Cảm ơn ông.”

Teddy nói rồi đợi, chưa vội mở cửa ra vì muốn xem Al sẽ quanh quẩn ở đây trông chừng anh bao lâu. Nhưng Al chỉ gật đầu và quay trở lại khu buồng giam khiến Teddy cảm thấy như được giải thoát. Dĩ nhiên là họ không theo dõi anh. Al chỉ biết Teddy như một hộ lý. Noyce thì bị bệnh hoang tưởng. Điều này có thể hiểu được, những người không ở trong trường hợp của Noyce nhưng bị bệnh hoang tưởng cũng sẽ cư xử y như vậy. 

Al tiếp tục rảo bước. Teddy xoay nắm đấm và mở cửa ra, không có hộ lý hay lính gác nào đứng chờ anh ở đầu cầu thang. Anh chỉ có một mình. Hoàn toàn một mình. Không bị theo dõi. Anh để cánh cửa khép lại sau lưng mình và đi xuống cầu thang. Anh nhìn thấy Chuck đang đứng ở khúc ngoặt nơi họ bắt gặp Baker và Vingis lúc trước. Anh ta kẹp chặt điếu thuốc, rít một hơi thật sâu nhìn Teddy bước xuống cầu thang rồi quay người và rảo bước thật nhanh.

“Tôi nghĩ là chúng ta gặp nhau ở sảnh lớn cơ mà.”

“Họ ở đây,” Chuck nói khi Teddy bắt kịp anh ta và hai người rẽ vào căn phòng rộng. 

“Ai cơ?”

“Giám đốc trại giam và Cawley. Đi tiếp đi đừng dừng lại. Chúng ta phải nhanh lên mới được.”

“Họ nhìn thấy cậu à?”

“Tôi cũng không biết nữa. Tôi vừa chui ra khỏi phòng hồ sơ cách đây hai tầng lầu. Tôi nhìn thấy họ đang đi về cuối hành lang. Cawley quay đầu lại nên tôi rẽ vội sang phải và đi qua chiếc cửa dẫn xuống cầu thang.”

“Thế thì chắc họ chẳng để ý đâu.”

Chuck đi như chạy. “Một hộ lý mặc áo mưa và đội mũ kiểm lâm chui ra khỏi phòng hồ sơ trên tầng hành chính? Ồ, tôi cũng nghĩ là chẳng có chuyện gì.”

Các bóng đèn trên đầu họ đột nhiên kêu từng tràng lách tách như tiếng xương bị gẫy dưới nước. Tiếng máy phát điện khởi động rùng rùng, vỡ òa cùng những tiếng la hét, tiếng huýt sáo, tiếng than khóc rền rĩ. Cả tòa nhà như vươn vai thức dậy xung quanh họ trong giây lát và rồi trở lại với nhịp sống thường ngày. Chuông báo động dội vang trên những bức tường và sàn nhà bằng đá. 

“Có điện trở lại rồi. Mới tuyệt làm sao,” Chuck nói.

Hai người đi xuống cầu thang thì bắt gặp bốn người lính gác chạy lên nên đứng sát vào tường để nhường đường cho họ. 

Người lính gác ngồi bên cái bàn chơi bài vẫn ở đó, đang nghe điện thoại, đờ đẫn ngước lên nhìn khi họ bước xuống cầu thang. Rồi bỗng mắt anh ta linh hoạt trở lại, và anh ta nói vào điện thoại “Đợi một chút” đoạn quay ra bảo “Này, hai anh kia, chờ tôi một phút” khi hai người bọn họ vừa rời khỏi bậc thang cuối cùng. 

Một đám đông đang đi lại nhốn nháo trong hành lang, cả hộ lý, lính gác và hai bệnh nhân người lấm bùn bị cùm chân. Teddy và Chuck hòa vào đám đông, lướt qua một người đi từ bàn pha cà phê lại khiến chiếc ly của anh ta chới với ngay trước ngực Chuck. 

Người lính gác lại gọi, “Này! Hai anh kia! Này!”

Họ vẫn không hề dừng bước, Teddy thấy đám đông xung quanh ngơ ngác không hiểu người lính gác đang gọi ai. Chỉ cần một hai giây nữa thôi là họ sẽ phát hiện ra anh ta đang gọi anh và Chuck. 

“Tôi nói ‘Dừng lại!’ cơ mà.”

Teddy lấy tay đẩy cánh cửa ra. Nhưng nó không nhúc nhích.

“Này!”

Anh để ý thấy một nắm đấm bằng đồng hình quả táo giống cái ở nhà Cawley, anh bèn tóm lấy nó, nắm đấm cửa trơn tuột vì nước mưa. 

“Tôi cần nói chuyện với các anh!”

Teddy xoay nắm đấm và mở cánh cửa ra. Bên ngoài có hai người lính gác đang toan mở cửa bước vào. Anh đứng tránh ra ngoài, tay vẫn giữ cửa mở cho Chuck đi qua và hai người lính gác đi vào, một trong hai người lính gác gật đầu cảm ơn anh. Teddy buông tay khỏi nắm đấm cửa rồi hai người họ bước xuống bậc tam cấp.

Anh nhìn thấy phía bên tay trái anh một nhóm người mặc đồng phục đang đứng túm tụm hút thuốc và uống cà phê dưới trời mưa lất phất, vài người đứng dựa lưng vào tường, tất cả đều đang vui vẻ đùa cợt và phả vào không khí những làn khói thuốc dày đặc. Teddy và Chuck bước về phía họ không hề ngoái đầu lại, chờ đợi nghe thấy tiếng cánh cửa mở ra phía sau lưng họ và ai đó kêu toáng lên. 

“Anh có tìm thấy Laeddis không?” Chuck nói.

“Không. Nhưng mà tìm thấy Noyce.”

“Gì cơ?”

“Cậu nghe thấy tôi nói gì mà.”

Họ gật đầu chào khi tới gần đám đông. Hai bên trao đổi những cái mỉm cười, vẫy tay, Teddy còn nhờ một người trong số họ châm thuốc cho anh. Rồi hai người họ tiếp tục đi dọc theo bức tường như thể nó kéo dài tới hàng trăm cây số, tiếp tục đi như thể có ai đó sắp hét với theo họ, tiếp tục vừa đi vừa nhìn những mũi súng thò ra từ các lỗ châu mai trên nóc pháo đài ở độ cao mười lăm mét phía trên đầu họ.

Họ đi tới cuối bức tường rồi rẽ trái ra một đồng cỏ sũng nước và nhìn thấy những đoạn hàng rào hỏng đã được thay thế, từng nhóm người đang đổ vữa xuống các chân cọc. Hàng rào mới đã được dựng lại, bao bọc kín quanh khu pháo đài, và họ biết rằng không thể nào thoát ra ngoài bằng cách chui qua hàng rào đổ được nữa. 

Họ quay lại, tiến về phía cửa, và Teddy biết rằng cách duy nhất thoát được là đi thẳng. Chắc chắn họ sẽ gây chú ý nếu cố tình đổi hướng đi để tránh đối mặt với đám lính gác. 

“Chúng ta sẽ phải liều mạng mà xông ra đúng không sếp?”

“Chính xác.”

Teddy bỏ mũ, Chuck làm theo anh rồi hai người cùng cởi áo mưa vắt lên cánh tay và bước đi dưới trời mưa bụi. Vẫn người lính gác lúc trước đứng chờ họ ở đó, Teddy nói với Chuck, “Đừng có đi chậm lại.”

“Nhất trí.”

Teddy cố gắng đọc nét mặt của người lính gác. Nó hoàn toàn phẳng lặng khiến anh tự hỏi không hiểu sự vô cảm đó là vì buồn chán hay vì anh ta đang cố làm mặt lạnh cho phù hợp với tình hình căng thẳng. Teddy giơ tay vẫy khi đi qua chỗ anh ta và người lính gác bảo anh, “Họ gửi xe tải tới bây giờ.”

Teddy quay đầu và vừa đi giật lùi vừa hỏi, “Xe tải hả?”

“Đúng vậy, để chở các anh về. Các anh muốn đợi thì có một chiếc vừa đi được năm phút và sẽ quay trở lại bất cứ lúc nào đấy.”

“Thôi. Phải tập thể dục một tí.”

Trong giây lát, có cái gì đó lóe lên trên khuôn mặt người lính gác. Có thể đó chỉ là sự tưởng tượng của Teddy hay có lẽ người lính gác đã đánh hơi thấy cái gì đó bất thường trong câu chuyện của họ. 

“Bảo trọng nhé,” Teddy nói rồi quay người bỏ đi. Anh và Chuck bước về phía rặng cây và anh có thể cảm thấy người lính gác vẫn đang quan sát mình, cả khu pháo đài đang dõi theo mình. Có thể Cawley và giám đốc trại giam giờ đang đứng ở bậc tam cấp ngay phía trước hay trên nóc pháo đài quan sát họ. 

Họ tới chỗ rặng cây mà không có ai hét với theo hay bắn một phát súng cảnh cáo. Họ đi sâu vào bên trong, biến mất sau những thân cây đồ sộ và đám lá mục. 

“Chúa ơi,” Chuck nói. “Chúa ơi, Chúa ơi, Chúa ơi!”

Teddy ngồi xuống một tảng đá và mặc cho toàn thân đầm đìa mồ hôi, bộ quần áo màu trắng ướt sũng, trong lòng anh rất đỗi hân hoan. Tim anh vẫn đập thình thịch, mắt anh vẫn giần giật, phía sau gáy và vai anh vẫn ngứa ran như có kiến bò và anh biết, ngoài tình yêu ra, đó là thứ cảm giác tuyệt với nhất trên đời. Cảm giác vừa chạy thoát. 

Anh nhìn Chuck cho tới khi cả hai người cùng phá lên cười.

“Tôi rẽ ra cái góc đó và nhìn thấy chỗ hàng rào hỏng đã được dựng lại,” Chuck nói. “Ối giời ơi, Teddy, lúc đó tôi nghĩ chúng ta thế là xong.”

Teddy nằm ngả lưng ra phiến đá, cảm giác tự do như thời con trẻ. Anh ngắm nhìn bầu trời bắt đầu xuất hiện sau những đám mây mù và cảm thấy làn gió nhẹ trên da thịt anh. Anh có thể ngửi thấy mùi lá mục, mùi đất ẩm ướt, mùi vỏ cây ngai ngái và nghe thấy tiếng thánh thót của những giọt mưa cuối cùng. Anh muốn nhắm mắt lại và tỉnh dậy phía bên kia bến cảng, ở Boston, trên giường của anh. 

Suýt nữa thì anh ngủ gật và điều đó khiến anh nhớ ra rằng anh mới mệt mỏi làm sao. Anh ngồi dậy, lục tìm trong túi áo một điếu thuốc và xin lửa từ điếu thuốc của Chuck. Anh quỳ dậy, vươn người ra và nói, “Từ bây giờ chúng ta phải tính tới khả năng là họ sẽ phát hiện ra việc chúng ta lẻn vào pháo đài. Đấy là trong trường hợp lúc này họ vẫn chưa biết.” 

Chuck gật đầu. “Baker chắc hẳn là đang nghi ngờ.”

“Cả cái gã lính gác chỗ cầu thang nữa, anh ta hẳn đã được thông báo về chúng ta, tôi nghĩ thế.”

“Hay anh ta chỉ muốn chúng ta ký tên khi ra về mà thôi.”

“Dù sao thì họ cũng sẽ ghi chú trường hợp của chúng ta.”

Tiếng còi ủ từ ngọn hải đăng Boston kêu rền rĩ khắp vịnh, thứ âm thanh mà Teddy nghe thấy mỗi đêm trong suốt thời thơ ấu ở Hull. Cái âm thanh cô độc nhất mà anh từng biết. Khiến người ta chỉ muốn ôm ghì lấy một cái gì đó, một ai đó, một chiếc gối ôm hay chính bản thân mình. 

“Sếp tìm thấy Noyce à?” Chuck hỏi.

“Ừ.”

“Anh ta đang ở đây thật hả?”

“Bằng xương bằng thịt.”

“Ôi Chúa ơi, Teddy, sao lại thế được?”

Và Teddy kể cho anh ta nghe về Noyce, về chuyện anh ta bị đánh đập, chuyện anh ta thù hận Teddy, về nỗi sợ hãi của anh ta, về chuyện cả người anh ta cứ run lên bần bật và không ngừng khóc than. Anh kể cho Chuck mọi chuyện ngoại trừ những gì Noyce nói với anh về Chuck. Và Chuck lắng nghe, thỉnh thoảng lại gật đầu, nhìn Teddy với cái vẻ của một đứa trẻ con nhìn người hướng dẫn viên trại hè kể chuyện ma bên đống lửa lúc nửa đêm. Nhưng sau khi câu chuyện kết thúc thì chính Teddy lại bắt đầu băn khoăn về tính xác thực của nó.

“Sếp có tin anh ta không?” Chuck hỏi.

“Tôi tin vào việc anh ta bị gửi lại đây. Cái này thì không còn nghi ngờ gì nữa.”

“Có thể anh ta phát bệnh, lên cơn thần kinh. Ý tôi là bệnh thật sự ấy. Dù sao anh ta cũng có tiền sử về chuyện đó. Thế thì việc chuyển anh ta về đây là hoàn toàn hợp lệ. Anh ta lên cơn ở trong nhà tù và họ nghĩ rằng, ‘Này, cái gã này đã từng là bệnh nhân ở Ashecliffe. Hãy gửi hắn về lại đó thôi.’ ”

“Cũng có thể,” Teddy nói. “Nhưng lần cuối cùng tôi gặp anh ta, trông anh ta hoàn toàn tỉnh táo.”

“Đó là khi nào?”

“Một tháng trước.”

“Khối thứ có thể thay đổi trong một tháng.”

“Đúng vậy.”

“Thế còn ngọn hải đăng thì sao?” Chuck nói. “Anh tin là ở đó có một đám bác sĩ điên đang cấy ăng ten vào trong đầu Leaddis như chúng ta nói?”

“Tôi chỉ không nghĩ rằng họ dựng cả một cái hàng rào như vậy chỉ để bảo vệ việc xử lý rác thải tự hoại.”

“Sếp có lý,” Chuck nói. “Nhưng tất cả chuyện này có gì đó hơi giống Grand Guignol(11), sếp nghĩ vậy không?”

Teddy nhíu mày. “Tôi chẳng hiểu cậu đang nói cái quái gì?”

“Rùng rợn,” Chuck nói. “Trong một chuyện bịa, kiểu người bị hóa đá từ lưng trở xuống ấy.”

“Tôi hiểu ý cậu,” Teddy nói. “Nhưng cái grangweeg gì gì đó nghĩa là gì?”

“Grand Guignol,” Chuck nói. “Đó là tiếng Pháp, thứ lỗi cho tôi.”

Teddy nhìn Chuck cười lảng đi, có lẽ đang nghĩ cách thay đổi chủ đề câu chuyện.

“Cậu lớn lên ở Portland mà học nhiều tiếng Pháp thế à?”

“Ở Seattle chứ.”

“Phải rồi.” Teddy nói và trịnh trọng đặt một tay lên ngực. “Thứ lỗi cho tôi.”

“Tôi thích kịch nghệ, được chưa?” Chuck nói. “Đó là một thuật ngữ kịch nghệ.”

“Cậu biết không, tôi có quen một người làm việc ở văn phòng Seattle,” Teddy nói.

“Thật sao?” Chuck vỗ vỗ vào túi vẻ lơ đãng.

“Ừ. Có thể cậu cũng biết anh ta.”

“Có thể,” Chuck nói. “Sếp có muốn biết tôi tìm thấy gì trong hồ sơ của Laeddis không?”

“Tên anh ta là Joe. Joe...” Teddy bẻ các ngón tay, nhìn Chuck vẻ chờ đợi. “Giúp tôi nhớ ra họ của anh ta nào. Tôi suýt buột miệng nói ra rồi mà lại quên béng mất. Joe, hừm, Joe...”

“Có rất nhiều người tên Joe,” Chuck nói, tay bắt đầu lần ra túi sau.

“Tôi cứ tưởng đó là một văn phòng nhỏ.”

“Nó đây rồi.” Chuck rút phắt tay ra khỏi túi sau nhưng chẳng có gì trong đó.

Teddy có thể nhìn thấy một mẩu giấy gấp vuông vắn đang thòi lòi ra khỏi túi quần anh ta. 

“Joe Fairfield,” Teddy nói và lại nghĩ đến cái cảnh Chuck vội vàng rút tay ra khỏi túi. Một cách vụng về. “Cậu có biết anh ta không?”

Chuck lại thò tay vào túi. “Không.”

“Tôi chắc chắn anh ta được thuyên chuyển tới đó mà.”

Chuck nhún vai. “Cái tên đó chẳng gợi cho tôi điều gì.”

“Hay là ở Portland nhỉ. Tôi cứ nhầm hai chỗ đó với nhau.”

“Đúng vậy, tôi cũng nhận thấy thế.”

Chuck rút mẩu giấy ra và Teddy lại nhớ đến ngày đầu tiên khi họ tới đây, Chuck đã luống cuống thế nào khi trao súng cho người lính gác và gặp rắc rối với chiếc bao súng. Một điều mà không đặc vụ hạng trung nào mắc phải. Một điều mà, trên thực tế, sẽ khiến anh mất mạng trong lúc làm việc. 

Chuck giơ mẩu giấy ra. “Đây là giấy nhập viện của hắn. Laeddis. Cái này và hồ sơ bệnh án của hắn là tất cả những gì tôi tìm được. Không có các hồ sơ liên quan, những ghi chép xung quanh các buổi điều trị hay ảnh của hắn. Rất kỳ lạ.”

“Kỳ lạ,” Teddy nói. “Hẳn rồi.”

Tay Chuck vẫn chìa ra, mẩu giấy khẽ oằn xuống phía đầu ngón tay.

“Cầm lấy này,” Chuck nói.

“Thôi,” Teddy nói. “Cậu giữ lấy nó.”

“Sếp không muốn xem à?”

“Tôi sẽ xem sau.”

Teddy nói rồi nhìn người cộng sự và để cho sự im lặng lớn dần lên giữa họ.

“Gì đây?” Cuối cùng Chuck lên tiếng. “Chỉ vì tôi không biết cái gã Joe quái gì đó là ai mà giờ sếp nhìn tôi với vẻ kỳ cục thế à?”

“Tôi không nhìn cậu với vẻ kỳ cục, Chuck. Tôi đã nói là tôi vẫn thường xuyên nhầm lẫn giữa Portland và Seattle mà.”

“Thôi được, vậy thì...”

“Hãy đi tiếp nào,” Teddy nói nốt rồi đứng dậy. Chuck vẫn ngồi đó thêm một lúc nữa, nhìn mẩu giấy lủng lẳng trên tay. Nhìn đám cây cối xung quanh họ. Nhìn lên Teddy rồi nhìn ra xa về phía bãi biển. Tiếng còi ủ lại vang lên lần nữa.

Cuối cùng Chuck cũng đứng dậy, đút mẩu giấy vào lại túi.

“Thôi được,” Chuck nói.

“Tốt.”

“Sếp dẫn đường đi.”

Teddy bắt đầu rảo bước về phía Đông của khu rừng.

“Sếp định đi đâu?” Chuck nói. “Ashecliffe phía đằng kia cơ mà.”

Teddy quay lại nhìn Chuck. “Tôi có đi về Ashecliffe đâu.”

Chuck trông đầy lo lắng, thậm chí là sợ hãi. “Thế chúng ta đi ra chỗ quái nào hả Teddy?”

Teddy mỉm cười. “Ra ngọn hải đăng, Chuck.” 

“CHÚNG TA ĐANG Ở ĐÂU VẬY?” Chuck hỏi.

“Đang bị lạc.”

Họ ra khỏi khu rừng và thay vì nhìn thấy lớp hàng rào phía trước ngọn hải đăng thì họ phát hiện ra rằng họ đã bị đi chệch khá xa về phía Bắc. Sau cơn bão, khu rừng đã biến thành một con kênh chằng chịt những thân cây đổ ngổn ngang khiến họ buộc phải đi chệch khỏi đường chính. Teddy biết trước là họ sẽ đi vòng một chút nhưng với tính toán mới nhất của anh thì họ đã quanh co khá xa, gần bằng đoạn đường tới khu nghĩa địa.

Nhưng anh vẫn có thể nhìn thấy ngọn hải đăng khá rõ. Một phần ba phía trên của ngọn hải đăng ló ra sau một con dốc dài, giữa những vạt cây và thảm thực vật màu xanh lẫn với màu nâu. Ngay phía sau vạt cây cỏ đó là một đầm lầy dài do thủy triều tạo nên, sau đó nữa là những mỏm đá đen lởm chởm, sắc nhọn tạo thành hàng rào tự nhiên bao bọc con dốc. Và Teddy biết rằng họ chỉ còn một cách duy nhất là quay lại khu rừng, hy vọng tìm ra cái chỗ họ đã rẽ nhầm thay vì phải đi lại từ đầu. 

Anh cũng chỉ nói với Chuck có thế.

Chuck dùng một cái gậy đập đập vào ống quần để đuổi côn trùng. “Hoặc là chúng ta có thể đi vòng xung quanh và tới đó từ hướng Đông. Có nhớ McPherson đêm qua không? Người lái xe của ông ta sử dụng cái gì đó giống như một đường tắt. Khu nghĩa địa hẳn ở phía bên kia ngọn đồi. Chúng ta thử đi một vòng chứ?”

“Có nhanh hơn cái đường mà chúng ta vừa đi không?”

“Ối, sếp không thích à?” Chuck lấy tay xoa gáy. “Tôi thì tôi rất yêu quý bọn muỗi này. Sự thực thì chỉ còn một vài chỗ trên mặt tôi là chúng chưa kịp đốt mà thôi.”

Đó là cuộc đối thoại duy nhất giữa hai người họ trong suốt hơn một tiếng đồng hồ qua, và Teddy có thể cảm thấy cả hai đang cố gắng vượt qua cái bóng của sự căng thẳng đang lớn dần lên giữa họ. 

Nhưng phút giây ấy trôi qua rất nhanh khi Teddy vẫn giữ im lặng và Chuck bắt đầu bước dọc theo rìa cánh đồng, di chuyển về phía Tây Bắc, hòn đảo luôn tìm cách đẩy họ về phía bờ biển. 

Teddy trông chừng phía sau lưng Chuck khi cả hai tiếp tục đi và leo trèo thêm một đoạn nữa. Đồng sự của anh, anh nói với Noyce. Anh tin tưởng cậu ta, anh đã nói vậy. Nhưng tại sao? Bởi vì anh bắt buộc phải làm thế. Bởi vì không ai muốn vượt qua tất cả chuyện này một mình. 

Nếu như anh biến mất, nếu như anh không bao giờ trở về từ hòn đảo này? Thượng nghị sĩ Hurly là một người bạn tốt. Không còn nghi ngờ gì về điều đó. Cuộc điều tra của anh sẽ được ghi nhận. Sẽ được nhắc đến. Nhưng trong cái bối cảnh chính trị hiện nay thì liệu tiếng nói của một đại biểu đảng Dân chủ ít tiếng tăm ở một tiểu bang của New England có đủ gây áp lực? 

Các đặc vụ sẽ có trách nhiệm đối với người của họ. Chắc chắn họ sẽ cử người tới. Nhưng vấn đề là thời gian, liệu họ có thể đến được đây trước khi Ashecliffe và các bác sĩ của nó kịp thay đổi Teddy vĩnh viễn, biến anh thành một người như Noyce? Hay tệ hơn, như cái gã chơi trò đuổi bắt?

Anh hy vọng mọi việc sẽ ổn thỏa vì càng nhìn Chuck anh càng chắc rằng từ giờ trở đi anh sẽ phải đối diện với chuyện này một mình. Hoàn toàn chỉ có một mình.

“LẠI ĐÁ NỮA, sếp ơi,” Chuck nói. “Mẹ kiếp.”

Họ đứng trên một mũi đất hẹp nhô ra biển, bên phải là vực đá thẳng đứng, bên trái là một đồng cỏ lúp xúp cây bụi, gió bắt đầu nổi lên khi nền trời chuyển màu đỏ ối và không khí mặn chát vị biển. 

Những đống đá được xếp riêng rẽ trên đồng cỏ. Chín đống, chia thành ba hàng, được bảo vệ từ mọi hướng bởi những con dốc ôm lấy cánh đồng như một lòng chảo.

Teddy nói, “Thì sao, bỏ qua à?”

Chuck giơ một tay lên trời. “Mặt trời sẽ lặn trong vài tiếng nữa. Chúng ta vẫn chưa tới được ngọn hải đăng, xin nhắc thế trong trường hợp sếp không để ý. Chúng ta cũng chưa tới được khu nghĩa địa. Chúng ta thậm chí còn không chắc liệu có tìm ra được đường tới đó. Mà sếp lại còn muốn trèo xuống tuốt dưới đó chỉ để xem đá.” 

“Này, nếu như đó là mật mã...”

“Thì có nghĩa lý gì? Chúng ta đã có bằng chứng về việc Laeddis đang ở đây. Sếp đã nhìn thấy Noyce. Tất cả những gì chúng ta phải làm là trở về nhà với những thông tin đó, bằng chứng đó. Thế là hoàn tất nhiệm vụ.”

Cậu ta nói đúng. Teddy biết thế. 

Đúng, tuy nhiên với điều kiện hai người vẫn cùng một chiến tuyến. Còn nếu không phải vậy và đây là một mật mã mà Chuck không muốn anh nhìn thấy thì...

“Chỉ mất mười phút đi xuống và mười phút leo lên,” Teddy nói.

Chuck ngồi phịch xuống một tảng đá sẫm màu và rút ra một điếu thuốc. “Được thôi, nhưng lần này tôi sẽ ngồi chờ ở đây.”

“Tùy cậu.”

Chuck khum tay để châm thuốc rồi nói, “Thỏa thuận xong.”

Teddy nhìn khói thuốc bay qua những ngón tay cong cong của Chuck và trôi dạt ra phía biển. 

“Gặp lại sau nhé,” Teddy nói. 

“Cố đừng có ngã gẫy cổ đấy!” Chuck nói, vẫn ngồi xoay lưng về phía anh. 

Teddy đi xuống mất bảy phút, nhanh hơn suy đoán của anh ba phút vì sườn dốc trơn và đầy cát nên anh trượt xuống nhiều lần. Anh ước gì sáng nay đã uống nhiều cà phê hơn bởi bụng anh bắt đầu ọc ạch vì trống rỗng, và việc hạ đường huyết cộng với thiếu ngủ khiến đầu anh lùng nhùng với những đốm đen tản mát, bồng bềnh trước mắt.

Anh đếm số viên đá ở mỗi đống và ghi chúng vào sổ tay với chú giải là chữ cái bên cạnh.

13(M)-21(U)-25(Y)-18(R)-1(A)-5(E)-8(H)-15(O)-9(I)

Anh gập quyển sổ lại, bỏ vào túi trước rồi bắt đầu trèo lên con dốc đầy cát, bám chặt vào mặt đất khi bò qua những chỗ trơn nhất, rứt theo từng búi cỏ biển những lúc bị trượt chân tụt xuống dưới. Anh mất gần hai mươi lăm phút để leo lên, bầu trời lúc này đã chuyển sang màu đồng hun. Chuck nói đúng, dù cậu ta đứng về phía nào thì hoàng hôn cũng đã xuống rất nhanh và đây đúng là một sự lãng phí thời gian cho dù mật mã đó có nói lên điều gì đi nữa.

Chắc giờ thì họ không thể nào tới được ngọn hải đăng nữa nhưng nếu họ đến được đó thì sao chứ? Nếu Chuck làm việc cho bọn họ thì việc Teddy đi với cậu ta tới ngọn hải đăng đó có khác nào mỡ đưa miệng mèo.

Teddy nhìn thấy đỉnh đồi và chỗ nhô ra của mũi đất, trên cùng là vòm trời màu đồng hun và nghĩ, có lẽ mọi chuyện nên như thế, Dolores. Có lẽ đó là tất cả những gì anh có thể làm được lúc này. Laeddis sẽ tiếp tục sống. Ashecliffe sẽ tiếp tục tồn tại. Nhưng chúng ta có thể hài lòng với chính mình khi biết rằng chúng ta đã khởi đầu một tiến trình, một tiến trình mà cuối cùng có thể dẫn đến sự kết thúc của tất cả những thứ này. 

Anh tìm thấy một vết nứt trên đỉnh đồi, một khe hở tiếp giáp với mũi đất, nơi có đủ độ xói mòn để Teddy có thể tì vào đó, hai tay bám lấy phiến đá phía trên, và đu người lên cho tới khi ngực anh sấp xuống mũi đất, rồi xoay người đưa nốt hai chân lên.

Anh nằm nghiêng nhìn ra biển. Biển mới xanh làm sao trong cái thời điểm nhợt nhạt này của một ngày, mới sống động làm sao khi hoàng hôn đang chết dần xung quanh nó. Anh nằm đó, cảm thấy gió mơn man trên mặt và biển cả trải dài vô tận dưới bầu trời đang tối dần và thấy mình mới nhỏ bé làm sao, mới con người làm sao. Nhưng đó không phải là cảm giác yếu hèn. Mà là một cảm giác tự hào rất đỗi lạ thường. Được là một phần của khung cảnh này. Một đốm nhỏ thôi, đúng vậy. Nhưng vẫn là một phần trong vạn vật. Và đang thở.

Anh tì một bên má lên phiến đá phẳng, màu sẫm, nhìn sang ngang, và chợt nhận ra rằng Chuck không còn ở đó với anh. 

XÁC CỦA CHUCK nằm dưới chân vách đá, sóng đánh dập dềnh lên người anh ta. 

Trước tiên, Teddy trườn hai chân ra mép vực, dùng gót chân dò tìm những vỉa đá màu đen ở bên dưới đủ chắc chắn để đỡ được trọng lượng của toàn bộ cơ thể anh. Anh thở hắt ra mà không hề biết là anh đã nín thở quá lâu, rồi bắt đầu tụt xuống, khuỷu tay trượt dần khỏi miệng vực cho tới khi chân anh tì được vào những rìa đá phía dưới, cảm thấy chúng khẽ trồi sụt khiến mắt cá chân phải của anh khẽ trẹo sang phía trái. Anh quăng người vào vách đá, dựa lưng lên đó và những vỉa đá dưới chân anh không còn lung lay nữa.

Anh xoay người lại, cúi thấp xuống cho tới khi trông anh giống như một con cua đang bám vào đá và bắt đầu trèo xuống. Việc này không thể vội vàng. Có những hòn đá ăn sâu vào trong vách như những chiếc bu lông trên thân tàu chiến. Lại có những hòn đá chẳng bám vào đâu ngoài việc tì lên những hòn đá ở phía dưới mà không tài nào phân biệt nổi hòn nào với hòn nào nếu không thử giẫm chân lên đó.

Trèo xuống được khoảng mười phút thì anh nhìn thấy một điếu thuốc hiệu Lucky của Chuck, mới hút được một nửa, đầu thuốc cháy đen và chổng lên như đầu bút chì của thợ mộc. 

Cái gì đã gây ra cú ngã? Gió bắt đầu mạnh dần lên nhưng vẫn chưa đủ để thổi bay một người ra khỏi miệng vực bằng phẳng.

Teddy nghĩ tới Chuck, đứng đó, một mình, hút thuốc trong những giây phút cuối cùng của cuộc đời và anh nghĩ tới tất cả những người anh quan tâm đều đã chết trong khi anh vẫn phải tiếp tục sống. Đầu tiên là Dolores, dĩ nhiên rồi. Và cha của anh, đâu đó dưới thềm của chính đại dương này. Mẹ anh, khi anh mới mười sáu tuổi. Tootie Vicelli, bị đạn bắn xuyên qua răng ở Sicily, mỉm cười một cách hiếu kỳ như thể cậu ta vừa nuốt phải một cái gì có vị lạ trong khi máu đang trào ra từ khóe miệng. Martin Phelan, Jason Hill và cậu thanh niên cao lớn người Ba Lan tới từ Pittsburgh - tên cậu ta là gì nhỉ? -Yardak. Đúng vậy. Yardak Gilibiowski. Cậu thanh niên tóc vàng luôn pha trò cho họ cười những ngày ở Bỉ. Bị bắn vào đùi, cứ tưởng không sao cho tới khi không thể cầm được máu. Và Frankie Gordon, dĩ nhiên rồi, người anh đã bỏ mặc ở Cocoanut Grove đêm đó. Hai năm sau, Teddy dụi tắt điếu thuốc trên chiếc mũ sắt của Frankie và gọi cậu ta là tên khốn nhặt cứt chim ở Iowan thì Frankie trả lời, “Anh chửi thề khá hơn bất cứ người nào mà tôi...” đoạn giẫm chân lên trái mìn. Teddy vẫn còn một mảnh đạn găm ở bắp chân trái.

Và bây giờ là Chuck.

Liệu có một ngày nào đó Teddy biết được rằng lẽ ra anh phải tin tưởng Chuck? Lẽ ra anh phải nói thẳng cho Chuck biết là anh nghi ngờ tính trung thực của cậu ấy. Chuck, người đã làm anh cười và khiến những chuyện đau đầu trong suốt ba ngày qua dễ chịu hơn rất nhiều. Chuck, người chỉ mới sáng nay thôi nói rằng họ sẽ được thưởng thức món trứng Benedict cho bữa sáng và bánh sandwich thịt bò muối Reuben vào bữa trưa. 

Teddy ngẩng đầu nhìn lên miệng vực. Anh ước tính mình đã xuống được nửa đường, bầu trời lúc này xanh thẫm lại như màu của đại dương và tối dần sau mỗi giây đồng hồ. 

Cái gì có thể hất Chuck khỏi miệng vực? 

Không phải là tự nhiên.

Trừ phi cậu ta đánh rơi cái gì đó và xuống tìm. Trừ phi, giống như Teddy lúc này đây, cậu ta đã cố leo xuống vách đá nhưng chẳng may túm tay và giẫm chân phải những hòn đá bị lở. 

Teddy dừng lại để lấy hơi, mồ hôi chảy ròng ròng trên mặt anh. Anh thận trọng buông một tay ra, chùi vào quần cho hết mồ hôi rồi tóm lấy một vỉa đá khác trước khi lặp lại động tác tương tự với bàn tay kia. Khi bàn tay còn lại đã khô ráo, anh túm lấy một vỉa đá nhọn chìa ra phía trước và nhìn thấy một mẩu giấy ở bên cạnh. 

Mẩu giấy mắc giữa một tảng đá và một đám rễ cây leo màu nâu, khẽ bay trong không khí. Teddy dùng hai ngón tay kẹp vào, lôi mảnh giấy đó ra và không cần mở cũng biết đó là mảnh giấy gì. 

Giấy nhập viện của Laeddis. 

Anh đút tờ giấy vào túi sau, nhớ lại cái cách nó nằm chểnh mảng trong túi sau của Chuck và anh biết tại sao Chuck lại leo xuống dưới này.

Là vì mảnh giấy này.

Là vì Teddy.

NĂM MÉT DƯỚI CÙNG của vách đá toàn là những tảng đá cuội, trông như những quả trứng màu đen khổng lồ ken dày tảo bẹ. Leo xuống tới đây, Teddy quay người lại, hai tay tì ra sau, dồn trọng lượng vào hai gót chân, lần bước xuống và nhìn thấy lũ chuột trú trong những cái hốc của chúng. 

Khi anh bước tới tảng đá cuối cùng thì anh đã ra tới bờ biển, anh bước lại gần xác của Chuck và nhận ra đó không phải là thây người. Chỉ là một khối đá lớn, bị tẩy trắng bởi ánh nắng mặt trời, tảo biển cuốn chặt lấy nó như những bện thừng màu đen.

Ơn Chúa là Chuck vẫn chưa chết. Cái khối đá dài, hẹp phủ đầy tảo biển này không phải là cậu ta.

Teddy khum tay quanh miệng và gọi to tên Chuck. Anh gọi đi gọi lại nhiều lần và nghe thấy tiếng gọi của mình vang ra ngoài biển, đập vào những vách đá, cuốn theo chiều gió, và chờ đợi để nhìn thấy cái đầu của Chuck thò ra trên miệng vực.

Có lẽ cậu ta đang chuẩn bị leo xuống để tìm Teddy. 

Có thể lúc này cậu ta đang ở trên đó, chuẩn bị sẵn sàng. 

Teddy tiếp tục gọi tên Chuck cho tới khi cổ họng anh bỏng rát. Rồi anh dừng lại và đợi nghe Chuck trả lời. Trời đã tối tới mức không còn có thể nhìn thấy gì trên miệng vực nữa. Teddy nghe thấy tiếng gió. Tiếng lũ chuột trong các hốc đá. Tiếng sóng vỗ. Vài phút sau, anh lại nghe thấy tiếng còi ủ từ ngọn hải đăng Boston. 

Khi mắt anh bắt đầu quen với bóng tối, anh nhìn thấy có những con mắt đang quan sát mình. Hàng chục con. Lũ chuột ngả ngốn trên những tảng đá cuội nhìn anh không sợ sệt. Ban đêm, bãi biển là của chúng, chứ không phải của anh.

Tuy nhiên Teddy chỉ sợ nước chứ không sợ chuột. Những con vật bé tí, bẩn thỉu nhớp nhúa. Anh có thể bắn chúng. Xem có bao nhiêu con trụ lại được sau khi bạn chúng bị nổ tung xác. Ngoại trừ việc anh chẳng có khẩu súng nào và quân số của chúng đã tăng lên gấp đôi trong khi anh quan sát chúng. Những cái đuôi dài ve vẩy, quét từ đằng trước ra đằng sau phía trên tảng đá. Teddy cảm thấy nước đang đập vào gót chân anh, những đôi mắt kia đang dán vào người anh, sợ hay không sợ thì anh cũng bắt đầu cảm thấy lạnh sống lưng và ngứa ngáy mắt cá chân. 

Anh bắt đầu bước đi chậm rãi dọc theo mép nước và nhìn thấy hàng trăm con chuột, đứng trên những mỏm đá dưới ánh trăng như những con hải cẩu dưới ánh mặt trời. Anh quan sát chúng rơi tõm từ những tảng đá xuống cát đúng chỗ anh đứng chỉ vài phút trước, rồi quay ra nhìn xem có cái gì ở dải bờ biển hẹp anh đang men theo.

Không nhiều lắm. Cách đó khoảng mười mét lại có một vách đá khác nhô ra khỏi mặt nước, và bên phải nó, về phía biển, Teddy nhìn thấy một hòn đảo mà anh chưa nhìn thấy bao giờ. Nó nằm dưới ánh trăng như một miếng xà phòng màu nâu và trông nó thật nhỏ nhoi giữa biển cả. Anh đã leo lên những vách đá này với McPherson trong ngày đầu tiên tới đây. Lúc ấy rõ ràng là không có hòn đảo nào ở đó. Anh hoàn toàn chắc chắn về điều ấy.

Vậy nó mọc ra từ chỗ quái nào vậy?

Anh có thể nghe thấy chúng, một vài con đang đánh lộn nhưng đa số thì mài móng vuốt trên những tảng đá và kêu rin rít lên với nhau. Teddy cảm thấy cơn ngứa bắt đầu lan từ mắt cá chân lên đầu gối, rồi lên tới đùi anh. 

Anh nhìn lại phía bãi biển lúc trước và thấy chúng đông kịt, không còn thấy cát đâu nữa. Anh nhìn lên vách đá, nhẹ nhõm hẳn khi thấy mặt trăng đêm nay khá tròn và những vì sao lấp lánh bạt ngàn. Và rồi anh nhìn thấy một vách đá có màu rất kỳ lạ, cũng kỳ lạ như việc hòn đảo đã không hề tồn tại ở đây hai ngày trước. Đó là màu da cam. Nửa trên của vách đá lớn nhất. Màu da cam. Trên một nền đá màu đen. Vào lúc hoàng hôn. 

Teddy nhìn chằm chằm vào cái màu da cam ấy và thấy nó lóe lên rồi dịu đi, bừng lên rồi dịu đi, cứ thế cứ thế. Thực sự nhịp nhàng. Giống như một ngọn lửa. 

Anh chợt nhận ra đó là một cái hang. Hay ít nhất là một hốc đá lớn. Và có người ở bên trong. Chuck. Hẳn thế. Có thể cậu ta đi tìm tờ giấy bay xuống vực. Có thể đang trèo xuống giữa đường thì bị thương nên cậu ta bỏ cuộc, rẽ ngang, lần sang các vách đá bên cạnh. 

Teddy bỏ chiếc mũ kiểm lâm trên đầu xuống và tiến lại tảng đá gần nhất. Có vài con chuột giương mắt nhìn anh, Teddy lấy mũ đập chúng khiến chúng giật mình, luống cuống rồi lao đi chỗ khác. Teddy bước vội lên đó, đá vào mấy con trên tảng đá bên cạnh cho lũ chuột chạy dạt sang hai bên. Cứ thế anh vừa chạy vừa đuổi chuột, nhảy từ tảng đá này sang tảng đá khác, càng về sau lũ chuột càng ít dần cho tới khi không còn con chuột nào chờ anh ở mấy tảng đá phía cuối thì anh bắt đầu trèo lên, tay vẫn còn rớm máu từ lúc leo xuống. 

Trèo lên thì không khó lắm. Vách đá này cao hơn và lớn hơn rất nhiều vách đá mà anh leo xuống, tuy mấp mô và chia thành nhiều tầng bậc. 

Anh trèo gần một tiếng rưỡi dưới ánh trăng, những vì sao dõi theo anh từng bước, cả lũ chuột cũng vậy. Nhưng khi trèo anh không còn Dolores nữa, anh không thể hình dung nổi cô, không thể nhìn thấy khuôn mặt, bàn tay hay đôi môi quá dày của cô. Anh cảm thấy cô đã rời bỏ anh theo cái cách mà anh chưa hề biết đến kể từ khi cô qua đời. Anh biết rằng tất cả chỉ là do anh quá mệt mỏi vì ráng sức, vì thiếu ngủ và đói nhưng cô đã biến mất. Biến mất trong lúc anh trèo dưới ánh trăng.

Nhưng anh có thể nghe thấy cô. Ngay cả khi anh không thể hình dung ra cô, anh vẫn có thể nghe thấy cô trong tâm trí, và cô đang nói, Tiến tới đi, Teddy. Tiến tới đi. Anh có thể bắt đầu lại từ đầu. 

Tất cả chỉ có thế thôi ư? Sau hai năm sống như người đi trên mây, sau những lần ngồi trong bóng tối nhìn chằm chằm vào khẩu súng đặt ở phía cuối bàn trong phòng khách, nghe Tommy Dorsey và Duke Ellington, sau khi đã khẳng định rằng anh không thể nào dấn thêm bước nào vào cái cuộc sống khốn nạn này, sau nỗi nhớ nhung da diết tới mức có lần anh nghiến chặt đến gãy răng cửa để chống lại nỗi khao khát cô - sau tất cả những chuyện đó, liệu đây có thật sự là lúc anh nên quên cô không?

Anh đã không mơ thấy em, Dolores. Anh biết thế. Nhưng lúc này đây anh có cảm giác như anh đã mơ.

Và nên như thế, Teddy. Nên như thế. Hãy để em đi.

Thật sao?

Thật vậy, anh yêu.

Anh sẽ cố, được không?

Được thôi.

Teddy có thể nhìn thấy cái ánh sáng màu da cam lóe lên phía trên đầu anh. Anh có thể cảm thấy độ nóng của nó, không rõ rệt nhưng chẳng thể nhầm lẫn vào đâu được. Anh đặt tay lên gờ đá phía trên đầu và thấy ánh sáng màu da cam phản chiếu lên cổ tay anh. Anh đu người lên để chui vào miệng hang và thấy ánh sáng màu da cam phản chiếu lên những vách đá dựng đứng. Anh đứng dậy. Đầu anh gần chạm nóc hang. Nhìn thấy một lối đi bên phải anh bèn lần theo và phát hiện ra cái ánh sáng màu da cam đó phát ra từ một đống củi đang cháy trong một cái hố nhỏ trên sàn và một người phụ nữ đứng cạnh đó, tay giấu sau lưng.

“Anh là ai?” cô ta hỏi anh.

“Teddy Daniels.”

Người phụ nữ này có mái tóc dài, trên người vận một chiếc áo bệnh nhân màu hồng nhạt, quần dải rút, chân đi dép lê.

“Đó là tên của anh,” cô ta nói. “Nhưng nghề nghiệp của anh là gì?”

“Tôi là cảnh sát.”

Cô ta khẽ nghiêng đầu, tóc cô ta bắt đầu ngả bạc. “Anh là đặc vụ.”

Teddy gật đầu. “Cô có thể bỏ tay ở sau lưng ra được không?”

“Tại sao?” 

“Vì tôi muốn biết cô đang giữ cái gì.”

“Tại sao?”

“Vì tôi muốn biết liệu nó có thể làm tôi bị thương.”

Cô ta khẽ mỉm cười. “Cũng có lý.”

“Tôi rất mừng là cô nghĩ thế.”

Cô ta rút tay từ sau lưng ra, trong tay cô ta là một con dao mổ dài, mảnh. “Nhưng tôi vẫn giữ nó trong tay nếu anh không phiền?”

Teddy giơ hai tay lên trời. “Được thôi.”

“Anh có biết tôi là ai không?”

“Một bệnh nhân của Ashecliffe.”

Cô ta lại nghiêng đầu và vân vê chiếc áo ngủ. “Chúa ơi, tôi mà có vẻ thế sao?”

“Thôi được, đồng ý, cô có lý.”

“Có phải tất cả đặc vụ Mỹ đều rất tinh ranh?”

“Tôi đã không ăn gì khá lâu rồi nên có hơi chậm chạp hơn thường lệ.”

“Ngủ được nhiều không?”

“Gì cơ?”

“Kể từ khi ra đảo anh có ngủ được nhiều không?”

“Không tốt lắm, nếu như điều đó là quan trọng.”

“Ôi, quan trọng chứ.” Cô ta kéo ống quần lên đến đầu gối rồi ngồi xuống sàn và ra hiệu cho anh làm theo. 

Teddy ngồi xuống và nhìn cô ta qua ánh lửa.

“Cô là Rachel Solando,” anh nói. “Rachel Solando thật.”

Cô ta nhún vai. 

“Cô giết các con mình à?” anh nói.

Cô ta dùng chiếc dao mổ để lật một khúc gỗ. “Tôi chưa bao giờ có con.”

“Chưa hả?”

“Chưa. Tôi còn chưa bao giờ kết hôn. Tôi là, anh hẳn sẽ ngạc nhiên khi biết rằng tôi còn hơn là một bệnh nhân ở đây.”

“Hơn một bệnh nhân là thế nào?”

Cô ta lại lật một khúc gỗ khác khiến nó kêu răng rắc, những đốm lửa bay lên trên ngọn lửa và tàn ngay trước khi kịp rơi xuống đất. 

“Tôi là nhân viên,” cô ta nói. “Từ khi chiến tranh vừa kết thúc.”

“Cô là y tá à?”

Cô ta nhìn anh qua ngọn lửa. “Tôi là một bác sĩ, đặc vụ. Nữ bác sĩ đầu tiên ở bệnh viện Drummond tại Delaware. Bác sĩ đầu tiên ở Ashecliffe. Thưa quý ngài, ngài đang nhìn vào một người tiên phong thật sự đấy.”

Hay là một bệnh nhân mắc chứng ảo tưởng, Teddy nghĩ.

Anh nhìn lên và bắt gặp ánh mắt cô ta đang nhìn anh một cách tử tế, nghiêm túc và hiểu biết. “Anh nghĩ là tôi bị điên?”

“Không.”

“Anh còn có thể nghĩ gì khác về một phụ nữ chui lủi trong một cái hang?”

“Tôi cho rằng hẳn phải có một lý do.”

Cô ta mỉm cười u ám và lắc đầu. “Tôi không điên. Không hề. Dĩ nhiên một người điên thì còn biết nói gì khác nữa? Thiên tài của Kafka là ở chỗ đó. Nếu anh không điên nhưng người ta bảo với cả thế giới là anh điên thì mọi nỗ lực phản đối nhằm chứng minh ngược lại sẽ càng giúp củng cố quan điểm của họ. Anh hiểu tôi nói gì chứ?”

“Ở một mức nào đó,” Teddy nói.

“Hãy coi nó như một phương pháp suy luận. Một phương pháp suy luận bắt đầu với một nguyên tắc thế này: ‘Những người điên thì không bao giờ thừa nhận là mình điên.’ Anh hiểu ý tôi chứ?”

“Hẳn rồi.”

“Được rồi, chuyển sang vế thứ hai: ‘Bob không nhận là mình bị điên.’ Vế thứ ba, gọi là vế ‘vậy thì’. ‘Vậy thì Bob bị điên.’ ” 

Cô ta đặt con dao xuống đất, cạnh đầu gối và dùng một cái que để khều lửa. “Nếu người ta cho rằng anh bị điên thì tất cả những gì anh làm nhằm chứng tỏ anh không bị điên trên thực tế lại rơi vào cái khung hành động của một người điên. Những hành động phản kháng gay gắt của anh sẽ bị quy thành hành vi phủ nhận. Những nỗi sợ hãi rất bình thường của anh sẽ bị cho là biểu hiện của sự hoang tưởng. Bản năng sống sót của anh sẽ bị gọi là cơ chế phòng vệ. Tóm lại là một tình thế vô vọng. Một bản án tử hình thật sự. Một khi đã vào đây, anh không còn đường thoát. Chưa ai được ra khỏi Khu C. Chưa một ai. À, đúng ra là có vài người, đúng vậy, tôi phải nói với anh là thực tế có vài người đã xuất viện. Nhưng họ đã bị phẫu thuật. Ở não. Xoẹt - xuyên qua mắt. Đó là một phương pháp y học man rợ, vô lương tâm, tôi bảo họ thế. Tôi tranh đấu với họ. Tôi viết thư. Họ có thể đuổi hay cho tôi thôi việc, để tôi nhận một chân giảng dạy hay khám bệnh ở bang khác nhưng thế vẫn chưa ổn. Họ không thể để tôi đi, chỉ là họ không thể làm thế. Không, không, không.”

Cô ta nói, càng lúc càng trở nên bức xúc, vừa nói vừa vụt ngang dọc vào ngọn lửa, và có vẻ nói cho đầu gối cô ta nghe hơn là nói với Teddy.

“Cô là bác sĩ thật à?” Teddy hỏi.

“Ừ, đúng thế. Tôi đã từng là bác sĩ.” Cô ta ngẩng mặt lên, rời mắt khỏi hai đầu gối và chiếc que cời lửa. “Thật ra thì tôi vẫn đang là bác sĩ. Nhưng, đúng thế, tôi không còn là nhân viên ở đây. Tôi bắt đầu hỏi han về việc họ thường xuyên đặt mua khối lượng lớn chất Sodium Amytal và những chất gây ảo giác có nguồn gốc á phiện. Tôi bắt đầu thắc mắc một cách công khai, thật không may là thế, về những ca phẫu thuật mà nói nhẹ đi là có vẻ mang tính thí nghiệm cao.”

“Họ âm mưu gì vậy?” Teddy hỏi.

Cô ta mím môi cười nói, “Anh không biết gì sao?”

“Tôi chỉ biết là họ phớt lờ Luật Nuremberg.”

“Phớt lờ hả? Họ thủ tiêu nó thì có.”

“Tôi biết là họ có áp dụng các phương pháp chữa bệnh cấp tiến.”

“Cấp tiến thì đúng. Nhưng chữa bệnh thì không. Chẳng có ai chữa bệnh ở đây cả, đặc vụ. Anh có biết ngân quỹ của bệnh viện này đến từ nguồn nào không?”

Teddy gật đầu. “HUAC.”

“Đấy là còn chưa kể đến các quỹ đen khác nữa,” cô ta nói. “Tiền đổ về đây như nước. Giờ anh hãy thử nghĩ xem, sự đau đớn thâm nhập vào cơ thể chúng ta như thế nào?” 

“Phụ thuộc vào cô bị đau ở đâu chứ!”

“Không đúng.” Cô ta lắc đầu quả quyết. “Chẳng có gì liên quan tới da thịt cả. Não bộ gửi các chất truyền dẫn thần kinh xuống hệ thần kinh. Não bộ điều khiển cảm giác đau đớn,” cô ta nói. “Nó điều khiển nỗi sợ. Giấc ngủ. Sự thấu cảm. Đói khát. Tất cả những gì chúng ta vẫn thường liên hệ tới trái tim, tâm hồn hay hệ thần kinh trên thực tế đều do não điều khiển. Tất tần tật.”

“Phải...”

“Chuyện gì sẽ xảy ra nếu anh có thể điều khiển nó?” Cô ta nói, mắt sáng rực trước ngọn lửa.

“Não bộ hả?”

Cô ta gật đầu. “Tái tạo ra một người để anh ta không cần ngủ, không cảm thấy đau. Hay yêu thương, cảm thông. Một người không thể nào thẩm vấn được vì trí nhớ của anh ta đã bị gột rửa sạch sẽ.” Cô ta đẩy lửa rồi ngước lên nhìn anh. “Ở đây, người ta tạo ra những bóng ma, đặc vụ. Những bóng ma sẽ đi ra bên ngoài và làm những việc ma quỷ.”

“Nhưng cái tầm khả năng đó, cái tầm kiến thức đó...”

“Còn mất nhiều năm để đạt được. Đúng vậy. Đó là một quá trình kéo dài hàng thập kỷ, đặc vụ. Nhưng họ cũng xuất phát từ một điểm giống y như bọn phát xít: Tẩy não. Những thí nghiệm tước đoạt. Giống như những thí nghiệm của bọn phát xít lên người Do Thái về khả năng chịu đựng nhiệt độ nóng, lạnh ở mức tối đa và dùng kết quả nghiên cứu đó để hỗ trợ lính của chúng ở Reich. Nhưng đặc vụ, anh không thấy sao? Nửa thế kỷ sau, những người hiểu biết sẽ nhìn lại và nói” - cô ta ấn ngón tay trỏ xuống đất - “đây chính là nơi khởi đầu mọi chuyện. Bọn quốc xã sử dụng người Do Thái và các tù nhân trong trại tập trung của chúng. Còn ở đây, tại Mỹ, chúng ta thí nghiệm bệnh nhân trên đảo Shutter.”

Teddy im lặng. Anh không nghĩ ra từ gì để nói.

Cô ta lại nhìn vào ngọn lửa. “Họ không thể để anh đi. Anh biết thế, đúng không?”

“Tôi là đặc vụ liên bang,” Teddy nói. “Làm sao họ có thể cản tôi được?”

Câu trả lời của anh khiến cô ta vỗ tay và nở một nụ cười khoái trá. “Tôi từng là một bác sĩ có uy tín trong một gia đình được kính trọng. Tôi từng nghĩ thế là đủ. Tôi phải nói với anh thế, nhưng không đúng vậy. Hãy để tôi hỏi anh, trong đời anh, anh có nỗi phiền muộn quá khứ nào không?”

“Ai là không có cơ chứ?”

“Đúng vậy. Nhưng chúng ta không bàn về mọi người nói chung, về những người khác. Chúng ta bàn về những trường hợp cụ thể. Về anh. Anh có bất cứ điểm yếu nào về mặt tâm lý mà họ có thể khai thác không? Trong quá khứ của anh có một sự kiện hay những sự kiện nào đó có thể bị coi là những nhân tố khiến anh mất trí? Họ sẽ vin vào đó để gán cho anh bệnh tâm thần và họ sẽ làm thế, bạn bè và đồng nghiệp của anh rồi sẽ chỉ nói, ‘Dĩ nhiên rồi. Cuối cùng thì anh ta cũng phát điên. Có ai mà lại không cơ chứ? Chiến tranh đã khiến anh ta ra nông nỗi đó. Và cả việc mẹ anh ta qua đời nữa - hay bất cứ cái gì tương tự.’ Đúng không?”

“Thế thì điều đó có thể dùng để nói về bất kỳ ai,” Teddy nói.

“Chính vậy, trọng tâm của vấn đề chính là chỗ đó. Anh không thấy sao? Họ có thể nói như vậy về bất kỳ ai, nhưng anh sẽ là mục tiêu tới đây của họ. Đầu anh sao rồi?”

“Đầu tôi hả?”

Cô ta cắn môi dưới và gật đầu nhiều lần. “Cái khối trên cổ anh, phải. Nó thế nào? Gần đây có hay nằm mơ linh tinh không?”

“Có.”

“Có đau đầu không?”

“Tôi hay bị đau nửa đầu.”

“Ôi mẹ ơi, không phải thật thế chứ?”

“Tôi bị bệnh đó mà.”

“Từ lúc tới đây anh đã uống viên thuốc nào chưa, kể cả aspirin?”

“Rồi.”

“Có thể anh chỉ cảm thấy hơi mệt? Không được phong độ một trăm phần trăm? Ôi, chẳng có gì quan trọng, anh tự nói với bản thân mình thế, chỉ là hơi xuống sức một tí thôi mà. Có thể não anh không phản ứng nhanh như thường lệ. Nhưng anh lại nói, ôi dào, chỉ là do mình thiếu ngủ. Lạ giường, lạ nhà, lại gặp phải mưa bão. Anh tự nói với mình những điều như thế, đúng không?”

Teddy gật đầu.

“Và anh ăn ở căng tin. Tôi đoán thế. Uống cà phê họ pha cho anh. Nói xem, ít nhất anh cũng hút thuốc lá của mình đấy chứ?”

“Của người đồng sự,” Teddy thú nhận.

“Không hút điếu nào của bác sĩ hay hộ lý đưa cho chứ?”

Teddy có thể cảm thấy những điếu thuốc anh thắng khi chơi bài đêm nào đang rúm lại trong túi áo sơ mi của anh. Anh nhớ lại điếu thuốc Cawley đưa cho anh hút ngày họ mới đến có vị ngọt hơn so với tất cả loại thuốc mà anh từng hút. 

Cô ta có thể đọc thấy câu trả lời trên nét mặt anh.

“Thông thường sẽ mất từ ba đến bốn ngày để các loại thuốc gây mê thần kinh kích hoạt trong máu và phát huy tác dụng. Trong quãng thời gian đó anh gần như không nhận thấy các tác động của nó. Đôi khi, bệnh nhân bị co giật. Chứng co giật thường được coi là triệu chứng của bệnh đau nửa đầu, nhất là đối với những bệnh nhân có tiền sử về bệnh này. Thông thường, tác động dễ nhận biết nhất của loại thuốc này là bệnh nhân...”

“Đừng có gọi tôi là bệnh nhân nữa.”

“... nằm mơ với những chi tiết càng lúc càng sống động trong những khoảng thời gian dài, những giấc mơ này thường kết nối và chồng chất lên nhau cho tới khi chúng giống như một cuốn tiểu thuyết viết bởi Picasso. Một tác động dễ nhận biết khác nữa là bệnh nhân cảm thấy hơi lơ mơ. Ý nghĩ đến chậm chạp hơn. Nhưng vì anh ta không ngủ được do những giấc mơ kỳ quái đó nên anh ta nghĩ việc đầu óc không minh mẫn lắm trong lúc này cũng là bình thường. Và, không, đặc vụ, tôi không gọi anh là một bệnh nhân. Chưa đến lúc. Tôi chỉ đang nói chung chung.”

“Nếu giờ tôi không ăn, không hút thuốc, không uống cà phê hay thuốc thang gì nữa thì mức độ tổn hại liệu đến đâu rồi?” 

Cô ta vuốt tóc ra đằng sau rồi búi lại. “Tôi e là đã rất nghiêm trọng.”

“Cứ cho là tôi không thể rời khỏi hòn đảo này trước ngày mai. Cho rằng thuốc bắt đầu phát huy tác dụng. Làm sao tôi có thể nhận biết các triệu chứng?”

“Rõ ràng nhất là biểu hiện bị khô miệng đi kèm với phản ứng muốn tiết nước bọt, và chứng tê liệt. Anh sẽ để ý thấy những cơn run rẩy. Chúng bắt đầu ở đoạn tiếp giáp cổ tay với ngón tay cái, chạy dọc theo ngón tay cái một lúc rồi chiếm lĩnh cả cánh tay.”

“Còn gì nữa?”

“Nhạy cảm đối với ánh sáng, những cơn đau ở bán cầu não trái, diễn đạt từ ngữ bắt đầu chật vật. Nói lắp nhiều hơn.”

Teddy có thể nghe thấy biển cả bên ngoài với những con triều dâng xô vào vách đá.

“Chuyện gì đang diễn ra ở ngọn hải đăng?” anh hỏi.

Cô ta nhún vai và nhoài người về phía đống lửa. “Phẫu thuật.”

“Phẫu thuật? Họ có thể tiến hành phẫu thuật trong viện cơ mà.”

“Phẫu thuật não.”

“Ở đây họ có thể làm thế nữa ư?” Teddy hỏi.

Cô ta nhìn chằm chằm vào ngọn lửa. “Phẫu thuật thăm dò. Không phải là phẫu thuật kiểu ‘Hãy mổ cái sọ này ra và chữa chỗ này chỗ kia.’ Không phải thế. Mà là ‘Hãy mổ cái sọ này ra xem sẽ có phản ứng thế nào nếu chúng ta chọc chỗ này, kéo chỗ kia.’ Đó là những việc làm phạm pháp, đặc vụ. Học từ bọn Đức quốc xã.” Cô ta mỉm cười với anh. “Đó là nơi họ đang cố gắng tạo ra những bóng ma.”

“Có những ai biết về chuyện đó? Ý tôi là trong số những người trên đảo này?”

“Về ngọn hải đăng hả?”

“Ừ, về ngọn hải đăng.”

“Tất cả mọi người.”

“Thôi nào, chẳng lẽ tất cả y tá và hộ lý cũng đều biết sao?”

Cô ta nhìn thẳng vào Teddy qua ánh lửa, mắt cô ta trong sáng và kiên định.

“Tất cả mọi người,” cô ta nhắc lại.

ANH KHÔNG NHỚ là mình đã ngủ thiếp đi nhưng hẳn là anh đã ngủ quên vì lúc này đây, cô ta đang lay anh dậy.

Cô ta nói, “Anh phải đi thôi. Họ nghĩ là tôi đã chết. Họ nghĩ tôi đã chết đuối. Nếu họ lần theo anh thì họ sẽ tìm thấy tôi. Tôi xin lỗi. Nhưng anh phải đi thôi.”

Anh dụi mắt, đứng dậy.

“Có một con đường,” cô ta nói. “Ngay phía Đông mỏm đá này. Hãy đi theo con đường đó, nó sẽ quẹo dần sang hướng Tây tới phía sau khu nhà của vị chỉ huy pháo đài cũ trong vòng một tiếng đồng hồ.”

“Có phải cô là Rachel Solando?” anh hỏi. “Tôi biết cái người tôi gặp là người đóng giả.”

“Làm sao anh biết?”

Teddy nghĩ tới những vệt màu đen trên ngón tay cái của anh đêm hôm trước. Anh đã nhìn chúng chằm chằm khi lên giường. Khi anh thức dậy, chúng lại đã sạch bong. Những vết xi giày, anh đã nghĩ vậy, nhưng khi anh nhớ lại lúc anh chạm vào mặt cô ấy...

“Vì tóc cô ta là tóc nhuộm. Mới nhuộm đây thôi,” anh nói.

“Anh phải đi thôi.” Cô ta khẽ xoay vai anh về phía cửa.

“Nếu như tôi muốn quay trở lại đây,” anh hỏi.

“Tôi sẽ không ở đây đâu. Ban ngày tôi di chuyển. Mỗi đêm tôi lại ở một chỗ mới.”

“Nhưng tôi có thể tới tìm cô và đưa cô ra khỏi đây.”

Cô ta trao cho anh một nụ cười buồn bã và đưa tay vuốt lại những sợi tóc rũ ra hai bên thái dương của anh. “Anh không nghe tôi nói gì sao?”

“Tôi có.”

“Anh sẽ không bao giờ thoát khỏi chỗ này. Giờ anh đã là một người trong số chúng tôi.”

Cô ta tì các ngón tay vào vai anh và đẩy anh về phía miệng hang.

Teddy dừng lại phía trước cửa hang, quay lại nhìn cô ta và hỏi, “Tôi có một người bạn. Cậu ấy đi cùng tôi nhưng chúng tôi bị lạc mất nhau. Cô có nhìn thấy cậu ấy không?”

Cô ta lại cười với anh, vẫn một nụ cười buồn bã.

“Đặc vụ, anh không hề có bạn.”

KHI TỚI ĐƯỢC ĐẰNG SAU ngôi nhà của Cawley thì anh gần như không nhấc nổi chân nữa. 

Anh đi vòng ra phía trước, bước lên con đường dẫn vào cổng chính, cảm thấy đoạn đường này như dài ra gấp bốn lần so với sáng nay. Một người đàn ông chui ra từ bóng tối trên con đường, thò tay khoác lấy tay anh và nói, “Chúng tôi đang tự hỏi khi nào thì anh xuất hiện.”

Là viên giám đốc trại giam.

Ông ta có làn da trắng như sáp, láng như sơn mài và hơi nhợt nhạt. Móng tay của ông ta, Teddy để ý, dài và trắng như nước da của ông ta vậy, móng tay chỉ cần dài thêm chút nữa là sẽ cong xuống và hẳn được chăm chút rất kỹ càng. Nhưng đôi mắt mới chính là điểm thu hút nhất của ông ta. Xanh lấp lánh, tràn ngập vẻ háo hức lạ lùng. Đôi mắt của trẻ thơ.

“Rất vui vì cuối cùng cũng được gặp ông, giám đốc. Ông khỏe không?”

“Ồ, tôi khỏe. Thế còn anh?” ông ta nói.

“Chưa bao giờ tốt hơn.”

Viên giám đốc trại giam siết chặt tay anh và nói: “Tốt quá. Chúng ta đi dạo thong thả một lát nhé?”

“Ồ, vì bệnh nhân được tìm thấy rồi nên tôi đã nghĩ mình nên dạo quanh hòn đảo một vòng.”

“Tôi tin là anh thấy dễ chịu.”

“Đúng thế.”

“Tuyệt vời. Anh có gặp các thổ dân của chúng tôi không?”

Teddy phải mất tới một phút để hiểu được ý của ông ta. Đầu anh thỉnh thoảng lại ong ong. Hai chân chỉ chực khuỵu xuống. 

“À, lũ chuột,” anh nói.

Viên giám đốc trại giam vỗ vỗ vào lưng anh và nói, “Lũ chuột, đúng vậy. Ở chúng có cái gì đó vương giả một cách lạ lùng, anh không nghĩ vậy sao?”

Teddy nhìn vào mắt ông ta và nói, “Chúng là những con chuột.”

“Bọn sâu mọt, đúng vậy. Tôi biết. Nhưng cái cách chúng ngồi chồm hỗm và nhìn anh chằm chằm nếu chúng biết chúng đang giữ một khoảng cách an toàn, và cả cái cách chúng chuyển động mới mau lẹ làm sao, chui ra chui vào hang hốc trước khi anh kịp nháy mắt...” Ông ta nhìn lên các vì sao và nói tiếp, “Có lẽ dùng từ vương giả là sai. Từ biết thân biết phận thì sao? Chúng là những sinh vật biết thân biết phận một cách khác thường.”

Họ đã đi tới cổng chính, viên giám đốc trại giam vẫn khoác chặt lấy tay Teddy và hai người bọn họ quay lại nhìn ngôi nhà của Cawley với biển cả phía đằng sau. 

“Anh có thích món quà tặng mới nhất của Chúa trời không?”

Teddy quay sang nhìn người đàn ông và cảm thấy một sự bệnh hoạn trong đôi mắt hoàn hảo ấy. “Xin lỗi, tôi không hiểu?”

“Quà tặng của Chúa trời,” viên giám đốc trại giam nói và tay ông ta quét xuống mặt đất tơi tả sau cơn bão. “Cơn thịnh nộ của Người. Khi tôi về tới nhà và nhìn thấy cái cây đó trong phòng khách, vươn về phía tôi như một cánh tay thần thánh. Không theo nghĩa đen, dĩ nhiên rồi. Mà là nói một cách văn hoa bóng bẩy. Chúa cũng yêu thích bạo lực. Anh cũng biết thế, đúng không?”

“Không,” Teddy nói, “tôi không nghĩ vậy.”

Viên giám đốc trại giam bước lên phía trước vài bước rồi xoay người lại, đối diện với Teddy. “Còn lý do nào nữa để lý giải việc có quá nhiều bạo lực trên thế gian này? Nó ở bên trong chúng ta. Nó xuất phát từ bên trong chúng ta. Nó là những hành động rất đỗi bản năng của chúng ta, bản năng hơn cả hít thở. Chúng ta gây ra chiến tranh. Chúng ta hỏa thiêu người để tế thần. Chúng ta cướp bóc, xẻ thịt lột da những người anh em của mình. Chúng ta lấp đầy đồng cỏ bằng những xác chết tanh hôi. Tại sao chứ? Để cho Người thấy rằng chúng ta đang theo gương của Người.”

Teddy nhìn ông ta vỗ vỗ vào lớp bìa cứng của cuốn sách nhỏ đang ôm trước bụng. 

Ông ta mỉm cười, hàm răng vàng ố.

“Chúa ban cho chúng ta động đất, bão lớn bão nhỏ. Những ngọn núi khạc lửa lên đầu chúng ta. Những đại dương nuốt chửng thuyền bè. Ban cho chúng ta tự nhiên, và tự nhiên là kẻ giết người máu lạnh, có khuôn mặt tươi cười. Chúa ban cho chúng ta bệnh tật để trong lúc hấp hối chúng ta mới vỡ lẽ ra rằng Chúa tạo ra những cái lỗ trên người chúng ta chính là để chúng ta có thể cảm nhận cuộc sống đang chui dần qua đó. Chúa ban cho chúng ta lòng tham, sự ham muốn, giận dữ và những trái tim nhơ nhuốc. Để chúng ta có thể phát động bạo lực trên danh nghĩa của Người. Chẳng có trật tự luân lý nào rõ ràng hơn cơn bão chúng ta vừa thấy. Mà cũng chẳng có trật tự luân lý gì sất. Chỉ có một điều duy nhất mà thôi - bạo lực của ta có thể khuất phục bạo lực của ngươi không? 

“Tôi không chắc là tôi...” Teddy nói.

“Có thể không?” Viên giám đốc trại giam nói và bước lại gần Teddy, hơi thở hơi nặng mùi của ông ta phả vào mặt anh. 

“Có thể gì cơ?”

“Bạo lực của tôi có thể khuất phục bạo lực của anh không?”

“Tôi không phải là người bạo lực.” Teddy nói.

Viên giám đốc trại giam nhổ một bãi nước bọt xuống chân, gần chỗ hai người đang đứng. “Anh là hiện thân của bạo lực. Tôi biết, bởi vì tôi cũng là một người như vậy. Đừng tự bóc mẽ bản thân bằng cách từ chối sự khát máu của chính mình, cậu bé. Cũng đừng bóc mẽ ta. Nếu tất cả thiết chế xã hội bị dỡ bỏ và ta là thứ duy nhất đứng chặn giữa anh và một bữa ăn, anh hẳn sẽ lấy đá đập vỡ sọ ta ra để giành lấy khẩu phần ăn ấy.”

Ông ta ghé sát vào anh nói tiếp, “Nếu lúc này đây, răng ta phập vào mắt anh, liệu anh có thể ngăn ta lại trước khi ta cắn anh mù mắt?”

Teddy nhìn thấy một niềm hân hoan trong đôi mắt trẻ thơ của ông ta. Anh hình dung ra trái tim của người đàn ông này, đen tối và đang đập rộn ràng trong ngực.

“Cứ thử xem,” anh nói.

“Chính là cái tinh thần ấy đấy,” viên giám đốc trại giam thì thầm.

Teddy nhích chân lên, cảm thấy máu chạy rần rật trên cánh tay. 

“Đúng thế, đúng thế,” viên giám đốc trại giam tiếp tục thì thào. “Ta đã thành bạn với chính xiềng xích của mình.” 

“Là sao?” Teddy đột nhiên thấy mình cũng hạ thấp giọng thì thào, một cảm giác ngứa ngáy lạ thường chạy rần rật khắp người anh.

“Đó là thơ Byron,” viên giám đốc trại giam nói. “Anh sẽ nhớ câu đó chứ?”

Teddy mỉm cười khi viên giám đốc trại giam lùi lại một bước. 

“Ông hẳn là một trường hợp ngoại lệ của tạo hóa, đúng không ông giám đốc?”

Ông ta đáp lại bằng một nụ cười mỏng dính.

“Ông ta nghĩ là nó sẽ ổn thôi.”

“Cái gì sẽ ổn thôi?”

“Anh. Và cái trò trẻ con của anh. Ông ta cho rằng nó chẳng gây hại gì. Nhưng tôi thì không nghĩ vậy.”

“Không hả?”

“Không.” Viên giám đốc trại giam nói và bước vài bước về phía trước. Ông ta chắp hai tay ra sau lưng, quyển sách áp vào cột sống rồi xoay người lại, hai chân dạng ra theo kiểu nhà binh, nhìn Teddy chằm chằm. “Anh nói là anh ra ngoài đi dạo nhưng tôi biết hết. Tôi biết rõ anh, cậu bé.”

“Chúng ta chỉ vừa gặp thôi mà,” Teddy nói.

Viên giám đốc trại giam lắc đầu. “Loại người như chúng ta đã biết rõ nhau từ hàng thế kỷ. Tôi hiểu thấu tâm can anh. Và tôi nghĩ là anh đang buồn. Tôi thật sự nghĩ vậy.” Ông ta khẽ trề môi và nhìn xuống đôi giày của mình. “Buồn thì có làm sao. Với một người đàn ông kể cũng đáng thương thật, nhưng chẳng sao vì nó chẳng ảnh hưởng gì đến tôi. Nhưng tôi cũng nghĩ anh là một kẻ nguy hiểm.”

“Mỗi người đều có quyền có ý kiến riêng,” Teddy nói. 

Khuôn mặt của viên giám đốc trại giam tối sầm lại. “Không, ông ta không có cái quyền đó. Con người thật ngu ngốc. Họ ăn, uống, đánh hơi, thông dâm và tái tạo nòi giống, và đáng hổ thẹn nhất là cái hành động sau cùng vì thế giới này sẽ trở thành một nơi tốt đẹp hơn nếu có ít người đi. Những đứa trẻ đần độn, thiểu năng trí tuệ, điên loạn, và những kẻ đạo đức kém là những thứ mà chúng ta sản sinh ra. Với chúng, chúng ta đã làm ô nhiễm trái đất. Giờ đây ở miền Nam, chúng ta đang cố chung sống với bọn mọi. Tôi đã từng ở miền Nam, và ở đó tất cả đều là mọi hết, cậu bé ạ. Mọi da trắng và mọi da đen, mọi đàn bà. Bọn mọi đó có mặt khắp nơi và chẳng được tích sự gì hơn con chó hai chân. Ít nhất chó thỉnh thoảng còn đánh hơi được. Anh cũng là một tên mọi, cậu bé ạ. Anh cũng chỉ là một tên cặn bã thôi. Tôi có thể ngửi thấy điều đó.”

Ông ta nói, giọng rất nhẹ, gần giống như giọng đàn bà.

“Vậy,” Teddy nói, “chỉ hết sáng mai là ông khỏi cần phải lo lắng về tôi nữa, đúng không ông giám đốc?” 

Viên giám đốc mỉm cười. “Ừ. Sẽ hết phải lo lắng, cậu bé ạ.”

“Tôi sẽ đi khuất mắt ông và hòn đảo của ông.”

Viên giám đốc trại giam bước hai bước tới trước mặt anh, nụ cười của ông ta tắt dần. Ông ta ngẩng đầu lên trước Teddy và nhìn anh với đôi mắt trẻ con của mình.

“Anh sẽ không đi đâu cả, cậu bé.”

“Tôi lại xin có ý kiến khác.”

“Tùy anh thôi.” Viên giám đốc trại giam thò đầu hít hít phía bên trái rồi bên phải Teddy.

“Ngửi thấy gì không?” Teddy nói.

“Hừm, hừm.” Ông ta rụt đầu lại. “Có vẻ như ta ngửi thấy sự sợ hãi, cậu bé ạ.”

“Chắc ông cần phải đi tắm. Để gột sạch những thứ thối tha đó khỏi người ông,” Teddy nói.

Hai người không ai nói gì trong giây lát và rồi viên giám đốc trại giam lên tiếng, “Hãy nhớ những cái xiềng xích đó, thằng mọi. Nó là bạn của mày đấy. Và hãy biết rằng tao rất mong chờ tới điệu nhảy cuối cùng của mày. Và máu sẽ đổ ra sao.”

Rồi ông ta quay người và bước về phía nhà mình.

Khu tập thể nam trống không. Chẳng có lấy một bóng người. Teddy lên phòng của mình, treo chiếc áo mưa vào trong tủ và nhìn quanh xem có dấu hiệu nào cho thấy Chuck đã về đây trước anh, nhưng không tìm thấy gì cả. 

Anh nghĩ tới việc trèo lên giường ngồi chờ nhưng anh biết là anh sẽ ngủ quên và có thể sẽ không thức dậy trước sáng hôm sau nên anh mò xuống buồng tắm, vỗ nước lạnh vào mặt cho tỉnh ngủ và chải đầu bằng một cái lược ướt. Anh cảm thấy xương cốt trong người giống như một đám phế liệu han gỉ, còn máu thì đặc lại như mạch nha, mắt anh trũng sâu với những quầng màu đỏ và da thì xám ngoét. Anh khum tay vỗ nước lạnh lên mặt thêm vài lần nữa rồi lau khô và đi ra khuôn viên bệnh viện.

Cũng không có ai ngoài đó. 

Không khí thực sự đã ấm lên, kéo theo hơi ẩm và nhớp nháp, ve sầu và dế bắt đầu kêu ra rả. Teddy đi tha thẩn trong khuôn viên, hy vọng Chuck đã về tới nơi trước anh và giống như anh lúc này đây, đang đi loanh quanh cho tới khi tìm thấy Teddy.

Có một người lính gác phía ngoài cổng, và Teddy có thể nhìn thấy đèn sáng trên các phòng nhưng cả tòa nhà thì chẳng hiểu sao không có lấy một bóng người. Anh đi về phía bệnh viện, bước lên bậc tam cấp và toan kéo cửa ra nhưng nó đã bị khóa. Anh chợt nghe thấy tiếng then cửa cót két và thấy người lính gác đã mở cổng, đi ra ngoài để nhập bọn với các đồng nghiệp của anh ta. Khi cánh cửa lại đóng sầm lại, Teddy nghe thấy tiếng giày của người lính gác nện cồm cộp trên lối đi tráng xi măng.

Anh ngồi một lúc trên bậc tam cấp. Thế là quá đủ cho lý thuyết của Noyce. Teddy giờ đây không còn nghi ngờ gì nữa, hoàn toàn chỉ có một mình. Bị khóa trái, đúng vậy. Nhưng không hề bị theo dõi, theo như anh biết.

Anh vòng ra phía sau bệnh viện và ngực anh phập phồng khi anh nhìn thấy một hộ lý đang ngồi trên lối đi hút thuốc.

Teddy lại gần, và chàng trai trẻ, một thanh niên da đen, gầy, rắn rỏi ngước lên nhìn anh. Teddy lôi trong túi ra một điếu thuốc và nói, “Có lửa không?”

“Có.”

Teddy cúi xuống cho cậu thanh niên châm thuốc, mỉm cười cảm ơn nhưng khi đứng thẳng dậy anh chợt nhớ tới lời dặn của người phụ nữ lúc trước về việc hút thuốc nên lại chậm rãi nhả khói ra khỏi miệng mà không hít vào. 

“Cậu thế nào?” anh hỏi.

“Cũng ổn, sếp. Còn sếp?”

“Tôi khỏe. Mọi người đâu hết cả rồi?”

Cậu thanh niên trỏ một ngón tay cái ra phía sau. “Trong kia. Họp hành quan trọng gì đó. Không biết về cái gì nữa.”

“Tất cả bác sĩ và y tá à?”

Cậu thanh niên gật đầu. “Có cả vài bệnh nhân nữa. Phần lớn hộ lý. Tôi bị tắc ở đây với cái cửa này vì chốt cửa có vấn đề. Với lại, dầu sao, mọi người cũng trong đó hết rồi mà.”

Teddy lại nhả một bụm khói nữa ra ngoài hy vọng chàng thanh niên không để ý. Anh tự hỏi không hiểu anh có thể tiếp tục nói dối trót lọt để đi tiếp lên gác, hy vọng cậu thanh niên vẫn nghĩ anh là một hộ lý, đến từ Khu C chẳng hạn. Rồi anh nhìn qua cửa sổ phía sau lưng cậu thanh niên và thấy mọi người đang chen chúc trong hành lang để đi ra cửa trước.

Anh cảm ơn chàng trai vì mồi lửa và bước vòng ra phía cửa trước, bắt gặp một đám đông đang đứng túm tụm ở đây, tán gẫu và hút thuốc. Anh thấy cô y tá Marino đang nói gì đó với Trey Washington, cô nàng đặt một tay lên vai anh ta và Trey ngửa đầu ra phía sau, phá lên cười cái gì đó. 

Teddy bắt đầu rảo bước về phía họ thì nghe thấy tiếng Cawley gọi anh từ trên cầu thang. “Đặc vụ!”

Teddy quay lại và Cawley đi xuống cầu thang, tiến về phía anh, tóm lấy khuỷu tay Teddy và kéo anh về phía tường rào.

“Anh đã ở đâu vậy?” Cawley nói.

“Đi loanh quanh. Ngắm hòn đảo của ông.”

“Thật không?”

“Thật.”

“Có gì hay ho không?”

“Chuột.”

“Ôi hẳn rồi, chuột thì chúng tôi có đầy.”

“Việc chữa mái tiến hành đến đâu rồi?” Teddy nói.

Cawley thở dài. “Tôi để xô chậu khắp nhà để hứng nước. Gác mái thế là xong, tan hoang. Sàn nhà trong phòng ngủ của khách cũng vậy. Vợ tôi chắc sẽ phát điên lên mất. Chiếc áo cưới của bà ấy cất trên gác mái mà.”

“Thế vợ ông đâu?”

“Boston,” Cawley nói. “Chúng tôi có một căn hộ ở đó. Bà ấy và bọn trẻ cần thoát khỏi nơi này một thời gian nên họ tới đó nghỉ một tuần. Chuyện đó thỉnh thoảng vẫn diễn ra.”

“Tôi mới ở đây có ba ngày mà cũng đã thấy muốn đi lắm rồi, bác sĩ.”

Cawley gật đầu, cười khẽ. “Rồi anh sẽ đi.”

“Đi?”

“Đi về nhà, đặc vụ. Giờ Rachel đã được tìm thấy. Chuyến phà thường tới lúc mười một giờ sáng. Và tôi hy vọng anh sẽ tới Boston vào buổi trưa.”

“Điều đó không tốt sao?”

“Có chứ, anh không nghĩ thế à?” Cawley khẽ đưa tay sờ lên đầu. “Tôi không ngại nói với anh rằng, đặc vụ, và không có ý xúc phạm gì...”

“Ôi, lại bắt đầu đây.”

Cawley giơ một tay lên. “Không. Không. Tôi không định có ý kiến gì liên quan đến tâm trạng của anh. Không, tôi chỉ định nói là sự có mặt của anh ở đây đã tạo ra một sự kích động đối với nhiều bệnh nhân. Anh biết đấy, kiểu tư duy ‘đại diện luật pháp’ ấy mà. Điều đó khiến vài người trong số họ trở nên căng thẳng.”

“Thật lấy làm tiếc về điều đó.”

“Không phải lỗi của anh. Đó là thứ anh đại diện chứ không phải cá nhân anh.”

“Ô, nếu thế thì được.”

Cawley dựa lưng và tì một gót chân vào tường, trông ông ta cũng mệt mỏi như chiếc áo bác sĩ nhàu nhĩ và chiếc cà vạt lỏng lẻo của ông ta.

“Có một tin đồn lan truyền ở Khu C chiều nay về một người đàn ông không rõ danh tính mặc quần áo hộ lý xuất hiện ở khu buồng giam.”

“Thật sao?”

Cawley nhìn anh. “Đúng thế.”

“Chuyện đó thế nào?”

Cawley lần tìm rồi nới chiếc nút cà vạt ra. “Nghe nói người đàn ông lạ mặt đó hẳn là người có kinh nghiệm trong việc truy bắt những đối tượng nguy hiểm.”

“Ông không định nói...”

“Đúng vậy, đúng vậy.”

“Thế người lạ mặt đó còn làm gì nữa?”

Cawley cởi chiếc áo mặc trong phòng thí nghiệm ra, vắt lên cánh tay và nói, “Tôi mừng là anh cũng quan tâm tới chuyện này.”

“À, vì có vẻ không giống một tin đồn vớ vẩn hay chuyện ngồi lê đôi mách.”

“Đúng vậy. Nghe nói người lạ đó - và điều này, anh nên nhớ là tôi không dám chắc - đã trò chuyện rất lâu với một bệnh nhân mắc chứng hoang tưởng và tâm thần phân liệt tên là George Noyce.”

“Thế à,” Teddy nói.

“Đúng vậy.”

“Vậy cái gã, hừm...”

“Noyce,” Cawley nói.

“Noyce,” Teddy nhắc lại. “Ừ, thế cái gã ấy, anh ta mắc chứng hoang tưởng à?”

“Tới cực điểm. Anh ta cứ thêu dệt các câu chuyện bịa đặt và hoang tưởng của mình khiến những người khác trở nên bị kích động...” 

“Lại là cái từ đó.”

“Tôi xin lỗi. Mà đúng thế, anh ta đặt mọi người vào trong trạng thái bất đồng. Hai tuần trước, anh ta quá tới mức một bệnh nhân không chịu được, đã ra tay khá nặng với anh ta.”

“Tôi có thể hình dung được chuyện đó.”

Cawley nhún vai. “Nó vẫn thường xảy ra mà.”

“Thế nhưng anh ta kể chuyện gì mới được?” Teddy hỏi. “Anh ta bịa đặt thế nào?”

Cawley vẩy tay vào không khí. “Những chuyện hoang tưởng thường thấy. Cả thế giới đang muốn làm hại anh ta và những thứ tương tự.” Ông ta ngước nhìn Teddy trong khi châm thuốc, mắt ông ta sáng lên cùng ngọn lửa. “Vậy là anh sẽ đi.”

“Tôi đoán vậy.”

“Trong chuyến phà đầu tiên.”

Teddy nở một nụ cười lạnh giá. “Ngay khi có ai đánh thức chúng tôi dậy.”

Cawley cười đáp lại. “Tôi nghĩ chúng tôi có thể thu xếp chuyện này.”

“Tốt quá.”

“Được rồi,” Cawley nói. “Anh hút thuốc không?”

Teddy giơ tay lên xua bao thuốc đang chìa ra trước mặt, “Không, cảm ơn.”

“Đang cố nghỉ hút à?”

“Đang cố bớt hút đi.”

“Có lẽ thế là tốt. Tôi đang đọc một số bài báo về việc hút thuốc có thể gây ra một số hậu quả khó lường.”

“Vậy sao?”

Ông ta gật đầu. “Ung thư chẳng hạn, tôi nghe nói thế.”

“Ngày nay có biết bao nhiêu cách để chết.”

“Đồng ý. Nhưng cũng có thêm nhiều cách chữa trị.”

“Ông nghĩ vậy sao?”

“Nếu không thì tôi đã chẳng làm nghề này.” Cawley nói và nhả khói bay lơ lửng trên đầu anh.

“Ông đã bao giờ có bệnh nhân tên là Andrew Laeddis chưa?”

“Cái tên này chẳng gợi lên điều gì.”

“Không à?”

Cawley nhún vai. “Có gì quan trọng sao?”

Teddy lắc đầu. “Là một người mà tôi biết. Anh ta...”

“Như thế nào?”

“Gì cơ?”

“Anh biết anh ta như thế nào?”

“Trong chiến tranh,” Teddy nói.

“Ồ.”

“Tôi nghe nói anh ta có vấn đề về đầu óc và được gửi tới đây.”

Cawley chậm rãi hít một hơi thuốc dài rồi nói, “Anh hẳn đã nghe nhầm rồi.”

“Chắc thế.”

“Này, không chỉ mỗi anh đâu, chuyện đó còn xảy ra với cả tôi nữa. Tôi nghĩ tôi vừa nghe thấy anh nói từ ‘chúng tôi.’ ”

“Gì cơ?” 

“ ‘Chúng tôi’,” Cawley nói. “Đại từ nhân xưng ngôi đầu tiên số nhiều.”

Teddy đặt một tay lên ngực. “Khi nói về mình á?”

Cawley gật đầu. “Tôi nghĩ là tôi nghe thấy anh nói, ‘Ngay khi có ai đánh thức chúng tôi dậy.’ Chúng tôi.”

“Thì đúng là tôi nói thế. Còn nghi ngờ gì nữa. À mà nhân tiện ông có trông thấy cậu ấy đâu không?”

Cawley nhướng một bên mày lên nhìn anh.

“Thôi nào. Cậu ấy có ở đây không?”

Cawley nhìn anh cười.

“Gì vậy?”

Cawley nhún vai. “Tôi chỉ hơi băn khoăn.”

“Băn khoăn về cái gì?”

“Về anh đấy, đặc vụ. Đây có phải là một trò đùa quái gở của anh không?”

“Trò đùa nào?” Teddy nói. “Tôi chỉ muốn biết cậu ta có ở đây hay không thôi.”

“Cậu ta là ai?” Cawley nói, giọng thoáng bực bội.

“Chuck ấy.”

“Chuck?” 

“Chuck, đồng sự của tôi ấy.”

Cawley rời khỏi bức tường, điếu thuốc lá kẹp hờ hững giữa những ngón tay; “Anh không có đồng sự, đặc vụ. Anh tới đây chỉ có một mình.”

TEDDY NÓI, “Chờ một phút...”

Và anh bắt gặp Cawley đang đứng rất gần anh, ngước nhìn anh chăm chú.

Teddy ngậm miệng lại, cảm thấy không khí đêm hè đang khiến mi mắt anh rũ xuống.

“Hãy nói lại cho tôi xem nào. Về đồng sự của anh ấy.” Cawley nói và nhìn anh với vẻ hiếu kỳ. Đó là ánh mắt lạnh lùng nhất mà anh từng thấy. Đầy vẻ dò xét, sắc sảo, và vô cùng điềm tĩnh. Đó là ánh mắt của một người trung thực khi đi xem kịch vui, giả đò không hiểu cái tình tiết gây cười của vở kịch. 

Và Teddy thấy mình giống như Ollie trong những vở kịch của Oliver và Stan?(12). Một chú hề với cặp dây đeo quần lùng nhùng và chiếc thùng gỗ quây lại làm quần. Đây chính là chi tiết gây cười của vở kịch. 

“Đặc vụ?” Cawley nhón một bước lên phía trước, rón rén như đi bắt bướm. 

Nếu Teddy tiếp tục phản bác và đòi tìm hiểu bằng được Chuck đang ở đâu, thậm chí chỉ cần anh tranh cãi với họ về sự tồn tại của một người tên Chuck thì anh sẽ sập vào bẫy của họ.

Teddy bắt gặp ánh mắt của Cawley và nhìn thấy một tia cười trong đó.

“Những người điên không thừa nhận là mình bị điên,” Teddy nói.

Cawley bước thêm bước nữa. “Xin lỗi, gì cơ?”

“Bob không thừa nhận là anh ta bị điên.”

Cawley khoanh tay trước ngực.

“Vậy thì suy ra Bob bị điên.”

Cawley đứng dồn trọng lượng lên hai gót chân, và rồi một nụ cười nở trên khuôn mặt.

Teddy cũng mỉm cười đáp lại.

Họ đứng như thế một lúc, gió thổi qua những tán cây sau bức tường rào khiến chúng khẽ rung rinh.

“Anh biết không,” Cawley lên tiếng, đầu cúi xuống, mũi chân di di đám cỏ trên mặt đất. “Tôi đang xây dựng những công trình nghiên cứu có giá trị ở đây. Nhưng những công trình có giá trị thường không được nhìn nhận vào thời đại của nó. Tất cả mọi người đều muốn một giải pháp tức thì. Chúng ta đã quá mệt mỏi vì sợ hãi, vì phiền muộn, vì có quá nhiều cảm xúc, mệt mỏi vì quá mệt mỏi. Chúng ta muốn quay lại những ngày xưa cũ nhưng chúng ta thậm chí chẳng nhớ gì về nó, đồng thời chúng ta lại muốn đi tới tương lai với tốc độ nhanh nhất. Hai phẩm chất bị thủ tiêu đầu tiên trong quá trình này là sự kiên nhẫn và tính chịu đựng. Chuyện này không có gì mới. Không mới chút nào. Cuộc sống vẫn luôn như thế.” Cawley ngẩng đầu lên. “Tôi có bao nhiêu bạn bè quyền lực thì tôi cũng có bấy nhiêu kẻ thù mạnh như thế. Những người có thể giật đổ những gì tôi đang xây dựng từ trong tay tôi. Tôi không thể để điều đó xảy ra mà không tranh đấu. Anh có hiểu không?”

“Ồ, tôi hiểu chứ, bác sĩ,” Teddy nói.

“Tốt rồi,” Cawley duỗi hai cánh tay ra. “Thế còn người đồng sự gì đấy của anh?”

“Người đồng sự nào cơ?” Teddy nói. 

KHI TEDDY TRỞ VỀ PHÒNG thì Trey Washington đang nằm trên giường đọc một tờ Life cũ. 

Teddy nhìn vào chỗ của Chuck. Chiếc giường đã được xếp lại, ga giường và chăn được gấp một cách phẳng phiu, không thể nào biết được nếu đã từng có ai ngủ ở đây hai đêm trước. 

Áo jacket, sơ mi, cà vạt và quần của Teddy đã được giặt là cẩn thận, lồng trong túi ni lông treo trong tủ. Anh thay bộ đồng phục hộ lý ra và mặc quần áo của mình vào trong khi Trey vẫn lần giở những trang giấy bóng bẩy của tờ tạp chí. 

“Anh thế nào, đặc vụ?”

“Bình thường,”

“Tốt rồi, tốt rồi.”

Teddy để ý thấy Trey không nhìn anh mà dán mắt vào tờ tạp chí, lật đi lật lại mãi y nguyên mấy trang. 

Teddy lấy các thứ trong túi bộ quần áo vừa thay ra. Anh để tờ giấy nhập viện của Laeddis vào túi trong áo khoác cùng với quyển sổ ghi chép. Anh ngồi xuống chiếc giường của Chuck, đối diện với Trey rồi thắt cà vạt và dây giày. Xong xuôi, anh ngồi đó không nói gì.

Trey giở một trang khác của cuốn tạp chí rồi nói, “Ngày mai trời sẽ nóng đấy.”

“Thật sao?”

“Nóng chết mẹ luôn. Bệnh nhân không thích trời nóng đâu.”

“Không thích ư?”

Anh ta lắc đầu và lại giở một trang khác. “Không, sếp. Nó khiến bọn họ ngứa ngáy, khó chịu. Lại thêm đêm mai trăng tròn nữa. Càng tệ hơn. Thật quá đủ cho chúng tôi.”

“Sao lại thế?”

“Gì cơ, đặc vụ?”

“Trăng tròn ấy. Anh nghĩ là nó khiến người ta phát điên à?”

“Đúng thế,” anh ta nói và lấy ngón trỏ vuốt nhẹ một trang tạp chí bị nhàu.

“Bằng cách nào?”

“Anh nghĩ thử xem nhé, mặt trăng tác động lên thủy triều, đúng không?”

“Đúng thế.”

“Gây ra một hiệu ứng nam châm hay cái gì đó lên nước.”

“Cũng có lý.”

“Bộ não của con người,” Trey nói, “có năm mươi phần trăm là nước.”

“Không đùa đấy chứ?”

“Không hề. Anh cứ hình dung ra Ngài Trăng có thể làm chao đảo cả đại dương thì với một cái đầu, tác động sẽ thế nào?”

“Anh ở đây được bao lâu rồi, anh Washington?”

Anh ta đã vuốt xong trang giấy bị nhàu và giở sang trang tiếp theo. “Ối, lâu rồi. Từ khi xuất ngũ năm bốn mươi sáu.”

“Anh đã từng ở trong quân ngũ à?”

“Phải. Đến để xin súng thì họ phát cho một cái nồi. Đánh bọn Đức bằng việc nấu ăn chẳng ra gì.”

“Thật vớ vẩn,” Teddy nói.

“Đúng là vớ vẩn, đặc vụ. Họ mà để chúng tôi tham chiến thì chiến tranh đã kết thúc từ năm bốn mươi tư rồi.”

“Tôi hoàn toàn đồng ý với anh.”

“Sếp cũng đi khắp những chỗ đó rồi đúng không?”

“Ừ. Nhìn thấy cả thế giới.”

“Sếp nghĩ sao?”

“Ngôn ngữ khác nhau thôi, còn thì rác rưởi cả.”

“Ồ, thật thế đấy hả?”

“Anh có biết tối nay ông giám đốc trại giam gọi tôi là gì không, anh Washington?”

“Là gì vậy, đặc vụ?”

“Một tên mọi.”

Trey ngẩng đầu khỏi tờ tạp chí. “Ông ta nói gì cơ?”

Teddy gật đầu. “Ông ta nói là thế giới này giờ có quá nhiều kẻ cặn bã. Xuất thân hèn kém. Bọn mọi. Thiểu năng trí tuệ. Nói đối với ông ta tôi cũng chỉ là một tên mọi.”

“Và anh không thích thế đúng không?” Trey cười khẽ nhưng tiếng cười tắt ngấm rất nhanh. “Mà anh cũng đâu biết thế nào là một tên mọi?”

“Tôi có thể hiểu được chuyện đó, Trey. Dù sao thì người đàn ông đó cũng là sếp của anh.”

“Không phải là sếp của tôi. Tôi làm việc cho bệnh viện, chấm hết. Còn tên ác quỷ da trắng ấy hả? Hắn ta là ở bên trại giam.”

“Thì vẫn là sếp của anh.”

“Không. Không phải.” Trey chống hai cùi tay xuống giường và nhỏm người lên. “Anh nghe rõ chưa? Ý tôi là chúng ta đã hoàn toàn rõ ràng về chuyện này rồi chứ?”

Teddy nhún vai. 

Trey thò hai chân xuống đất và ngồi dậy trên giường. “Sếp đang định chọc tôi phát điên lên đấy à?”

Teddy lắc đầu.

“Thế tại sao anh không đồng ý với tôi khi tôi nói là tôi không làm việc cho tên khốn đó?”

Teddy lại nhún vai. “Trong lúc cần thiết, nếu ông ta ra lệnh cho anh thì sao? Anh chẳng nhảy cẫng lên ấy chứ.”

“Tôi gì cơ?”

“Nhảy cẫng lên như một chú nai con.”

Trey sờ tay lên cằm và nhìn Teddy, miệng nở một nụ cười khó tin.

“Tôi không hề có ý xúc phạm,” Teddy nói.

“Ồ không, không.”

“Tôi chỉ để ý thấy mọi người trên cái đảo này có một cách dàn dựng sự thật rất độc đáo theo ý riêng của họ. Dường như họ cứ lặp đi lặp lại một câu chuyện rất nhiều lần, và đến lúc nào đó nghiễm nhiên người khác sẽ phải cho đó là sự thật.”

“Tôi không làm việc cho người đàn ông đó.”

Teddy chỉ vào anh ta. “Đấy, lại một ví dụ nữa về cái kiểu sự thật mà tôi được biết và rất hâm mộ ở hòn đảo này.”

Trông Trey có vẻ như muốn xông tới và đánh cho anh một trận. 

“Anh thấy đấy,” Teddy nói tiếp, “tối nay họ tổ chức một buổi họp. Sau đó, bác sĩ Cawley xuất hiện và bảo tôi là tôi chưa bao giờ có một đồng sự nào đi cùng. Và nếu tôi hỏi anh thì anh cũng sẽ nói y như vậy. Anh sẽ bác bỏ việc anh đã từng ngồi với cậu ta, chơi bài với cậu ta và cười với cậu ta. Anh sẽ phủ nhận việc cậu ta đã từng nói cách duy nhất để đối phó bà cô già của anh là chạy thật nhanh. Anh sẽ phủ nhận cả việc cậu ta đã ngủ đây, ngay trên chiếc giường này. Đúng không, anh Washington?”

Trey nhìn xuống sàn nhà. “Tôi không hiểu anh đang nói gì, đặc vụ.”

“Ôi tôi biết, tôi biết. Là tôi không hề có người đồng sự nào. Giờ đây, đó là sự thật. Nó đã được quyết định như thế. Tôi chưa bao giờ có đồng sự và cậu ta không tồn tại ở bất cứ nơi nào trên hòn đảo này, dù là đang bị thương hay đã chết. Hay bị nhốt ở Khu C hoặc ngọn hải đăng. Tôi chưa bao giờ có đồng sự. Anh có muốn nhắc lại điều đó với tôi không để chúng ta cùng ngã ngũ về chuyện này. Tôi chưa bao giờ có đồng sự. Nói đi, thử xem nào!”

Trey nhìn lên. “Anh chưa bao giờ có đồng sự.”

“Còn anh không làm việc cho tay giám đốc trại giam.” Teddy nói.

Trey vỗ vỗ tay lên đầu gối. Anh ta nhìn Teddy và Teddy có thể thấy câu chuyện này đang gặm nhấm lương tâm anh ta. Mắt anh ta nhòe đi và cằm anh ta khẽ rung lên.

“Anh cần phải rời khỏi đây,” anh ta thì thầm.

“Tôi cũng biết thế.”

“Không.” Trey lắc đầu quầy quậy. “Anh không tài nào biết được chuyện gì đang diễn ra ở đây đâu. Hãy quên đi những gì anh đã nghe thấy, những gì anh nghĩ là anh biết rõ. Họ sẽ sờ tới anh. Và sẽ không có cách nào quay trở lại sau những gì họ sẽ làm với anh. Không có cách nào cả.”

“Hãy nói cho tôi biết,” Teddy nói, nhưng Trey lại lắc đầu. “Hãy nói cho tôi biết chuyện gì đang xảy ra ở đây.”

“Tôi không thể nói được. Tôi không thể. Hãy nhìn tôi.” Trey nói, hai bên lông mày nhướng lên, mắt mở trừng trừng. “Tôi. Không thể. Làm. Thế. Anh phải tự lo liệu thôi. Nếu tôi là anh tôi sẽ không ngồi đây mà chờ chuyến phà chẳng bao giờ tới. “

Teddy cười khẽ. “Tôi thậm chí còn không ra khỏi được cái khuôn viên này, nói gì tới ra khỏi hòn đảo. Và nếu như tôi có thể thì người đồng sự của tôi đang...”

“Quên cái người đồng sự của anh đi,” Trey kêu lên. “Anh ta đi rồi. Anh hiểu không? Anh ta không quay trở lại nữa đâu, anh bạn. Anh phải đi thôi. Anh phải trông chừng chính mình và chỉ mình mà thôi.”

“Trey,” Teddy nói. “Tôi đang bị nhốt ở trong này.”

Trey đứng dậy, tới bên cửa sổ, nhìn ra ngoài trời đêm hay nhìn vào bóng mình phản chiếu trên ô cửa kính, anh cũng không biết nữa. 

“Anh không được quay trở lại đây nữa. Cũng không được nói với bất kỳ ai tôi đã nói gì với anh.”

Teddy chờ đợi. Trey quay đầu lại nhìn anh và nói tiếp, “Nhất trí chứ?”

“Nhất trí,” Teddy nói.

“Phà sẽ cập bến vào mười giờ sáng mai. Sẽ rời đi Boston vào đúng mười một giờ. Nếu trốn được lên đó thì có thể có cơ hội thoát sang bờ bên kia. Nếu không thì phải đợi hai hay ba ngày nữa, sẽ có một tàu đánh cá tên là Betsy Ross đỗ ở khá gần bờ biển phía Nam để giao một số mặt hàng. Những thứ mà đàn ông không có được trên hòn đảo này. Nhưng con thuyền không đi vào sát bờ mà người ta phải bơi ra một đoạn để gặp nó.”

“Tôi không thể sống sót trên cái hòn đảo này tới ba ngày nữa,” Teddy nói. “Tôi không biết địa hình. Giám đốc trại giam và người của ông ta thì lại rất rõ. Họ sẽ tìm thấy tôi.”

Trey im lặng một lúc không nói gì. 

“Thế thì phải thử con phà,” cuối cùng anh ta lên tiếng.

“Thì thế. Nhưng làm sao mà tôi trốn được ra bên ngoài khuôn viên bệnh viện?”

“Mẹ kiếp,” Trey nói. “Anh có thể không tin nhưng hôm nay là ngày may mắn của anh đấy. Cơn bão đã phá hủy mọi thứ, nhất là hệ thống điện. Giờ chúng tôi đang phải sửa chữa phần lớn dây điện chăng trên tường rào.”

“Chỗ nào các anh chưa kịp chữa?” Teddy hỏi.

“Góc Tây Nam. Dây rợ ở đó hỏng hết cả, đúng cái chỗ hai bức tường gặp nhau, tạo thành một góc vuông. Còn những chỗ khác sẽ quay anh như gà nên chớ có trượt chân và túm đại vào cái dây nào xung quanh đó, nghe rõ chưa?”

“Rõ rồi.”

Trey lại gật gù với bóng mình trong ô cửa kính. “Tôi khuyên anh nên hành động đi là vừa. Anh đang lãng phí thời gian đấy.”

Teddy đứng dậy. “Nhưng Chuck,” anh nói.

Trey nhăn mặt. “Không có Chuck nào cả. Được chưa? Không có ai như thế. Anh trở về thế giới bên kia, anh nói gì về Chuck cũng được. Nhưng ở đây, người đàn ông đó chưa bao giờ tồn tại.”

KHI ĐỨNG ĐỐI DIỆN với góc tường phía Tây Nam, Teddy chợt nghĩ nếu Trey nói dối anh thì sao? Nếu Teddy chạm một tay vào những vòng dây thép gai này, tóm lấy chúng thật chặt và rồi chúng phát điện thì sáng mai, người ta sẽ tìm thấy thi thể anh dưới chân tường, cháy đen như miếng bít tết từ tháng trước. Thế là vấn đề được giải quyết. Trey sẽ được bình chọn là nhân viên của năm, và có thể sẽ được nhận một chiếc đồng hồ vàng đắt tiền.

Anh đi tìm xung quanh và nhặt được một cành cây dài. Anh quay trở lại góc tường phía bên phải, chạy lấy đà để nhảy lên, một chân đạp vào tường, tay vung lên đập chiếc que vừa nhặt được vào đám dây thép gai trên đầu. Chúng phụt ra một đám lửa và chiếc que bốc cháy. Teddy trở xuống mặt đất, đứng nhìn chiếc que trong tay mình. Lửa đã tắt nhưng chiếc que đã cháy đen. Anh thử lại lần nữa, lần này với đám dây thép gai phía bên góc trái. Không thấy gì. 

Anh đứng trên mặt đất, hít một hơi thật dài rồi lại nhảy lên bức tường phía bên trái, đập vào đám dây thép gai. Và vẫn không có gì xảy ra.

Có một cái cọc sắt nằm ở ngay chỗ hai bức tường giao nhau, Teddy chạy lấy đà và phải tới lần thứ ba anh mới nhảy lên và tóm được vào đó. Anh vịn vào cái cọc sắt và leo lên, vai anh chạm vào đám dây thép gai, rồi tới hai đầu gối và cánh tay, cứ mỗi lần như thế anh lại nghĩ là mình sắp chết. Nhưng anh vẫn chưa chết. Khi trèo lên được tới gờ tường thì chỉ còn mỗi việc là nhảy xuống phía bên kia.

Anh đứng trên thảm cỏ mục và nhìn lại lần nữa bệnh viện Ashecliffe. Anh tới đây để tìm kiếm sự thật nhưng anh đã không thấy gì. Anh tới đây để truy đuổi Laeddis nhưng cả hắn anh cũng không tìm ra. Anh lại còn để mất Chuck ở giữa đường.

Anh sẽ có thời gian để hối tiếc về những gì đã xảy ra khi trở lại Boston. Để mà hổ thẹn và hối lỗi. Để cân nhắc về những quyết định của mình và tham khảo ý kiến của Thượng nghị sĩ Hurly. Để vạch ra một kế hoạch tấn công. Anh sẽ quay trở lại đây. Thật nhanh. Không còn nghi ngờ gì nữa. Và hy vọng lúc đó anh sẽ có trong tay một trát đòi hầu tòa và lệnh khám xét của chính quyền liên bang. Và bọn họ sẽ có riêng một chuyến phà chết tiệt. Rồi anh sẽ được trút cơn giận. Anh sẽ lấy lại công bằng cho những phẫn nộ này.

Còn bây giờ anh chỉ cảm thấy mừng là mình vẫn còn sống và ở phía bên kia của bức tường.

Mừng. Và sợ. 

ANH MẤT GẦN MỘT TIẾNG RƯỠI để trở lại cái hang lúc trước nhưng người phụ nữ đã bỏ đi. Đống lửa của cô ta chỉ còn cháy âm ỉ, Teddy ngồi xuống bên cạnh đó mặc cho không khí bên ngoài đã ấm lên một cách bất thường và càng lúc càng nhớp nhúa. 

Teddy đợi người phụ nữ quay lại, hy vọng cô ta chỉ ra ngoài một lúc để kiếm củi, nhưng sâu tận đáy lòng anh biết cô ta sẽ không bao giờ trở lại. Có thể cô ta cho rằng anh đã bị họ tóm và lúc này đây đang khai với giám đốc trại giam và Cawley về chỗ ẩn náu của cô ta. Và có thể - một hy vọng rất viển vông nhưng anh vẫn cho phép mình ấp ủ - Chuck đã tìm thấy cô ta và họ đã tới một chỗ mà cô ta tin là an toàn.

Khi đống lửa tàn hẳn, Teddy cởi áo vest đắp lên người rồi dựa đầu vào vách hang. Cũng như đêm hôm trước, điều cuối cùng anh để ý trước khi nhắm mắt lại là hai ngón tay cái của mình.

Chúng bắt đầu run lẩy bẩy.

 

Chú thích 

7. Hoo-ah: một từ lóng thường dùng trong quân đội Mỹ, có nghĩa là không bao giờ được nói không với cấp trên. 

8. Bom H: bom khinh khí, có sức mạnh ghê gớm, nổ khi hạt nhân các nguyên tử khí hydro hợp nhất lại. 

9. Trận chiến đẫm máu nổi tiếng diễn ra tại pháo đài Alamo (23/2 - 6/3/1836) giữa 183 người Texas và người Mexico sinh ra ở Texas với 2000 quân Mexico. 

10. Joe Louis (1914-1981) là một trong những vận động viên đấm bốc người Mỹ nổi tiếng nhất thế giới. 

11. Rạp hát Grand-Guignol mở cửa ở Paris từ năm 1897 tới năm 1962, chuyên trình diễn những vở kịch rùng rợn. 

12. Oliver Hardy (1892-1957), người Mỹ và Stan Laurel (1890-1965), người Anh, là một trong những cặp danh hài nổi tiếng nhất trong lịch sử điện ảnh thế giới.