Đêm Trước Giáng Sinh Ở Thị Trấn Friday Harbor (Christmas Eve At Friday Harbor)

Chương 1

Ông già Noel kính mến!

Năm nay cháu chỉ ước muốn một điều thôi.

Một người mẹ.

Mong ông đừng quên giờ đây cháu sống ở thị trấn Friday Harbor nhé.

Cám ơn ông.

Yêu ông nhiều.

Holly.

Cho đến lúc em gái anh mất, Mark Nolan đã đối xử với cô cháu gái Holly của anh bằng sự yêu mến thoải mái của một ông bác độc thân. Anh đã trông thấy cô bé trong những dịp tụ họp nghỉ lễ không mấy thường xuyên, và anh luôn nhớ mua quà cho cô bé vào dịp sinh nhật và giáng sinh. Thường là thẻ quà tặng. Đó là sự tiếp xúc giới hạn của anh với Holly, và nó tạm chấp nhận được.

Nhưng mọi thứ đã thay đổi trong một đêm tháng tư mưa gió ẩm ướt ở Seatle, khi Victoria bị giết trong một chiếc xe bẹp dúm trên đường I-5. Vì Victoria chưa bao giờ đề cập đến di chúc hay kế hoạch mà cô tiến hành cho tương lai của Holly, Mark chẳng có ý tưởng nào về những gì sẽ xảy ra cho cô con gái sáu tuổi của cô. Người cha không được nhắc đến. Victoria chưa bao giờ tiết lộ về anh ta, ngay cả với những người bạn thân của cô. Mark khá chắc chắn rằng cô cũng chưa bao giờ nói cho người cha biết về sự tồn tại của Holly.

Khi Victoria đến Seatle lần đầu tiên, cô bị sa lầy vào một đám người Bohemian, kiểu nhóm nhạc sĩ và sáng tác. Với tất cả những phô trương hào nhoáng nghệ sĩ mà Victoria thèm khát, dẫn đến kết quả là một chuỗi những mối quan hệ ngắn hạn. Tuy nhiên, chung cuộc, cô buộc phải thú nhận rằng sự tìm kiếm những đáp ứng riêng tư phải cân bằng với sự trả lương đều đặn. Cô xin làm việc trong một công ty phần mềm và có được một chỗ trong phòng nhân sự với mức lương kha khá và phúc lợi lớn. Không may vào thời điểm đó, cô phát hiện mình đã mang thai.

“Sẽ tốt hơn cho mọi người nếu như anh ta không dính líu vào.” Cô đã nói với Mark như thế khi anh hỏi anh chàng nào là người chịu trách nhiệm.

“Em cần được giúp đỡ” Mark phản đối. “Chí ít thì anh chàng đó nên thực hiện nghĩa vụ về mặt tài chính của anh ta chứ. Việc có một đứa trẻ chẳng ít tốn kém đâu.”

“Em có thể xoay sở một mình.”

“Vick… Trở thành một người mẹ đơn thân không phải là điều anh mong muốn cho một ai đó.”

“Khái niệm nuôi dạy con cái, theo bất kỳ hình thức nào, khiến anh hết hồn hết vía rồi.” Victoria nói, “điều hoàn toàn có thể thông cảm được, xét theo hoàn cảnh của chúng ta. Nhưng em muốn đứa bé này. Và em có một việc làm tốt.”

Và cô đã làm như thế. Victoria hóa ra là một bậc phụ huynh có trách nhiệm, kiên nhẫn và ân cần với đứa trẻ duy nhất của cô, bảo vệ mà không vượt quá sự kiểm soát. Chỉ Chúa mới biết kỹ năng làm mẹ như thế đến từ đâu. Chúng phải là bản năng, vì lẽ Victoria chắc chắn không học hỏi những điều đó từ cha mẹ của họ.

Mark biết mà không nghi ngờ gì rằng anh không có bản năng đó. Đó là lý do vì sao còn hơn cả shock khi anh hiểu ra rằng không những anh vừa mất đi một người em gái, mà anh còn có một đứa trẻ nữa.

Việc được gọi là người giám hộ của Holly là chuyện tào lao nhất anh từng biết. Anh biết khả năng của chính mình về hầu hết các thứ, và anh có ý tưởng tốt về điều anh chắc chắn có thể làm trong những tình huống mà anh vẫn chưa lâm vào. Nhưng điều này… việc chăm sóc một đứa trẻ… điều này ngoài tầm của anh.

Nếu Holly là một thằng nhóc, anh có thể có một nửa cơ hội. Những chú nhóc không đến nỗi quá khó đoán. Mặt khác, toàn bộ nữ giới là một điều bí ẩn. Từ lâu rồi, Mark đã thừa nhận phụ nữ gây rắc rối. Họ nói những điều đại loại như “Nếu anh vẫn chưa biết, tôi sẽ không nói với anh đâu.” Họ không bao giờ gọi món tráng miệng riêng của họ, và khi họ hỏi ý kiến của bạn về trang phục họ mặc, họ luôn mặc thứ bạn không chọn. Tuy vậy, mặc dù Mark chưa bao giờ muốn hiểu phụ nữ, anh tôn thờ họ: khó đoán biết, bất ngờ, phức tạp, thay đổi tâm trạng một cách quyến rũ.

Nhưng thật sự nuôi dưỡng một thì… Jesus, không. Món tiền đặt cược quá cao. Không cách gì anh có thể đưa ra một minh họa đủ tốt. Và việc hướng dẫn một người con gái vượt qua xu hướng của một xã hội nguy hiểm, xảo trá chứa đựng mọi loại cạm bẫy thì… Chúa biết là anh chẳng hề có tí năng lực nào cho điều đó.

Mark và anh em ruột của anh được nuôi dưỡng bởi bậc cha mẹ có kiểu hôn nhân là một cuộc chiến tiêu hao sinh lực, trong cuộc chiến đó những đứa trẻ của họ được sử dụng như những vật bảo đảm. Do vậy, ba anh em nhà Nolan – Mark, Sam và Alex – đã ấp ủ ý tưởng tách ra khỏi gia đình khi tới tuổi trưởng thành. Ngược lại, Victoria khao khát liên kết gia đình chưa bao giờ có thể tụ họp của họ. Cuối cùng cô tìm thấy nó trong Holly và điều đó khiến cô cảm thấy may mắn.

Nhưng một nửa vòng quay bánh lái sai lầm, một đoạn đường trơn trượt, một khoảnh khắc mất kiểm soát, và phần lớn sự sống vượt khỏi Victoria Nolan và tan thành từng mảnh một cách tàn nhẫn.

Victoria đã để lại một bức thư được phong kín, ghi địa chỉ của Matt, lưu giữ trong tập hồ sơ cùng với chúc thư.

Không có lựa chọn nào khác ngoài anh. Holly không biết chút gì về Sam hay Alex. Em viết thư này hy vọng anh sẽ không bao giờ phải đọc nó, nhưng nếu anh phải… hãy chăm sóc con gái em, Mark. Giúp đỡ nó. Nó cần anh. Em biết trách nhiệm này có vẻ áp đặt như thế nào. Em xin lỗi. Em biết anh không mong muốn điều này. Nhưng anh có thể làm được. anh sẽ luận ra mọi thứ.

Hãy bắt đầu bằng cách yêu thương nó. Phần còn lại sẽ theo sau.

“Anh thật sự sẽ nhận nó sao?” Sam đã hỏi Mark trong ngày tang lễ, sau buổi tiếp đón tại nhà của Victoria. Thật kỳ lạ khi nhìn mọi thứ cô để lại : Những cuốn sách trên kệ, một đôi giày quăng cẩu thả trên đáy tủ, một ống son bóng trên mặt quầy phòng tắm.

“Dĩ nhiên anh sẽ nhận nó.” Mark nói, “Anh có thể làm gì khác được đây?”

“Có Alex. Chú ấy đã có vợ. Tại sao Vick không để lại Holly cho chú ấy và Darcy chứ?”

Mark trao cho cậu ta một cái nhìn đầy ý nghĩa. Cuộc hôn nhân của người em nhỏ nhất của anh giống như cái máy tính đầy virus – bạn không thể mở nó theo cách an toàn, và nó chạy những chương trình có vẻ vô hại nhưng thực hiện tất cả những loại chức năng hiểm độc.

“Thế em có để những đứa trẻ của em cho họ không?” Anh hỏi.

Chậm rãi, Sam lắc đầu. “Em nghĩ là không.”

“Vậy anh và em là tất cả những gì Holly có.”

Sam trao cho anh một cái nhìn đề phòng. “Anh là người nhận lãnh những thứ này, không phải em. Có một lý do để Vick không để tên em vào vai trò người giám hộ. Em không tốt với trẻ con.”

“Em cũng là bác của Holly.”

“Phải, bác. Khả năng của em giới hạn trong việc chế nhạo những chức năng của cơ thể, và việc uống quá nhiều bia trong bữa ăn ngoài trời của gia đình. Em không phải kiểu người làm cha đâu.”

“Anh cũng không.” Mark nói dứt khoát. “Nhưng chúng ta phải cố. Trừ phi em muốn trao nó cho những kẻ xin con nuôi.”

Cau có, Sam chà sát gương mặt cậu bằng cả hai bàn tay. “Shelby phản ứng như thế nào với điều này?”

Mark lắc đầu khi đề cập đến bạn gái của anh, một nhà thiết kế nội thất mà anh gặp gỡ khi cô thiết kế căn hộ sành điệu của một người bạn trên vịnh Griffin. “Anh chỉ mới quen với cô ấy đôi ba tháng. Hoặc là cô ấy bằng lòng với điều đó hoặc giải thoát mình – Điều đó tùy vào cô ấy. Nhưng anh sẽ không yêu cầu cô ấy giúp đỡ. Đây là trách nhiệm của anh. Và của em.”

“Có lẽ thỉnh thoảng em có thể trông chừng. Nhưng không đáng kể là giúp đỡ được nhiều. Em nhấn chìm mọi thứ em có trong vườn nho.”

“Chính xác những gì anh đã nói em đừng làm, thiên tài ạ.”

Đôi mắt của Sam, màu xanh dương pha lục tương tự như mắt của anh, hẹp lại. “Nếu em lắng nghe lời khuyên của anh, em sẽ tạo nên những lỗi lầm của anh thay vì của chính mình.” Cậu ngừng lại. “Vick để rượu ở đâu nhỉ?”

“Chạn thức ăn.” Mark đến một chiếc tủ ngăn kéo, tìm hai cái ly, và đổ đầy đá vào chúng.

Sam lục lọi từ đầu đến cuối cái chạn thức ăn. “Thật khác thường, uống rượu của cô ấy khi cô ấy… đã mất.”

“Cô ấy sẽ là người đầu tiên nói chúng ta phải tiến lên.”

“Hẳn rồi.” Sam tiến đến chiếc bàn cùng chai rượu Whisky. “Cô ấy có bảo hiểm nhân thọ không?”

Mark lắc đầu. “Cô ấy đã để nó mất hiệu lực.”

Sam bắn vào anh một cái nhìn lo âu. “Anh có cho rằng phải bán căn nhà không?”

“Phải. Anh nghi ngờ chúng ta bán được giá trong thị trường này.” Mark đẩy chiếc ly qua anh. “Đừng ngăn cản.” Anh nói.

“Đừng lo.” Sam không ngừng rót cho đến khi cả hai chiếc ly được đổ đầy.

Họ ngồi đối diện nhau qua chiếc bàn, giơ ly whiskey của họ trong sự nâng cốc thầm lặng và uống. Quả là rượu ngon, trượt êm ái xuống cổ họng Mark, gởi một ngọn lửa trấn an cuốn vào trong ngực anh.

Anh tìm thấy niềm an ủi bất ngờ trong sự hiện diện của người em trai. Có vẻ như lịch sử hay gây gỗ trong thời thơ ấu của họ - những cuộc chiến, những sự phản bội nho nhỏ - đã không còn nữa. Bây giờ họ đã trưởng thành, với một tiềm năng về tình bạn chưa bao giờ hiện hữu trong lúc cha mẹ họ còn sống.

Tuy vậy, với Alex, không bao giờ đủ gần gũi để thích hay không thích cậu. Alex và vợ cậu ta, Darcy, đã đến đám tang, ở lại buổi tiếp đón khoảng mười lăm phút, và rời khỏi mà hầu như không nói một từ với bất kỳ ai.

“Họ đã đi rồi sao?” Mark hỏi một cách hoài nghi khi khám phá ra sự vắng mặt của họ.

“Nếu anh muốn họ ở lại lâu hơn.” Sam nói, “Anh nên tổ chức lễ tang ở Nordstrom.”

Không nghi ngờ gì rằng người ta sẽ tự hỏi làm sao ba anh em cùng cư trú trên một hòn đảo có khoảng bảy ngàn dân lại có quá ít thứ để làm cùng với nhau. Alex sống với Darcy ở Roche Harbor phía bờ bắc. Khi cậu ta không bận rộn với việc phát triển các căn hộ condo, cậu ta đưa vợ đến các sự kiện xã hội ở Seatle. Mark, về phần anh, mải bận rộn với việc kinh doanh chế biến cà phê mà anh kiến lập ở Friday Harbor. Và Sam, luôn ở trong vườn nho của cậu ấy , trông nom và nâng niu những chai rượu vang, cảm thấy liên kết sâu sắc với thiên nhiên hơn với con người.

Họ chỉ có một điểm chung là cùng yêu hòn đảo San Juan. Đó là một phần của quần đảo gồm khoảng hai trăm đảo, một số vây quanh tỉnh Whatcom và Skagit thuộc lục địa bang Washington.

Anh em nhà Nolan trải qua thời thơ ấu của họ trong bóng mưa của vùng núi đồi Olympic, nơi được chở che để tránh xa phần nhiều sự ảm đạm của phần còn lại trong vùng Tây Bắc Thái Bình Dương.Anh em họ đã lớn lên trong việc hít thở bầu không khí ẩm ướt của biển cả, những bàn chân trần luôn lấm đầy bùn của lòng hồ cạn bị phơi bày. Họ được trao tặng những buổi sáng ẩm ướt nồng hương hoa oải hương, những ngày trời xanh khô ráo, và những buổi hoàng hôn rực rỡ nhất trên trái đất. Không gì sánh được với cảnh tượng những chú chim sandpiper lanh lợi chao lượn trên những ngọn sóng. Hoặc những cánh chim đại bàng đầu trọc lao xuống thật nhanh khi săn đuổi những con mồi. Hay những cú nhảy của cá kình, hình thể bóng mượt của chúng lặn chúi xuống, nhảy lên quan sát, cắt xuyên qua vùng biển Salish khi chúng săn đuổi thức ăn theo nguồn mạch cá hồi phong phú.

Anh em họ đã rong chơi trên mỗi inch của hòn đảo, lên xuống những con dốc lộng gió ven biển, len lỏi giữa những hàng cây rừng tối tăm, và vượt qua đồng cỏ dày đặc với những cây cỏ nón (Dactilys glomerata) và những loài hoa hoang dã có những cái tên quyến rũ… Chocolate Lily (Hoa huệ Chocolate), Shooting Star (hoa sao băng hay hoa anh thảo Bắc Mỹ), Sea Blush (ánh hồng của biển). Không có sự hòa hợp của nước, của cát, của bầu trời nào từng cân xứng một cách hoàn hảo đến như vậy.

Mặc dù họ đã ra đi để học đại học và cố sống ở một nơi khác, hòn đảo vẫn luôn níu kéo họ trở về. Thậm chí Alex, với tất cả khát vọng vươn lên của cậu, vẫn quay trở về đây. Đó là kiểu sống mà trong đó bạn quen biết những nông dân địa phương đã trồng tỉa phần lớn những sản vật bạn ăn, những anh chàng làm ra thứ xà bông bạn dùng, và bạn được gọi tên riêng với chủ nhà hàng bạn đến. Bạn có thể đi nhờ xe một cách an toàn, với những cư dân đảo thân thiện sẵn sàng cho ai đó quá giang khi họ cần.

Victoria là người duy nhất trong gia đình từng tìm thấy thứ đáng giá khi rời khỏi đảo. Cô đã vương vấn yêu thương với những đỉnh chóp thủy tinh và những thung lũng bê-tông của Seatle, quang cảnh cà-phê-và-văn-hóa chốn thị thành, những nhà hàng tao nhã, kiểu cách, cám dỗ thị hiếu những cô gái xuân thì, những mê cung ảo giác của Pike Place Market.

Đáp trả lời bình luận của Sam về việc ở thành phố người ta nói và nghĩ quá nhiều, Victoria cho rằng Seatle khiến cô trở nên thông minh hơn.

“Anh không cần thông minh hơn.” Sam nói. “Anh càng thông minh thì lý do để anh khốn khổ càng nhiều hơn.”

“Điều đó giải thích tại sao nhà Nolan chúng ta luôn phấn khởi cao độ đến thế.” Mark nói với Victoria khiến cô bật cười.

“Dù vậy, trừ Alex.” Cô nói, sau một phút bâng khuâng. “Em không nghĩ Alex có được ngày nào vui vẻ trong đời cậu ấy”

“Alex không muốn vui vẻ” Mark nói. “Chú ấy ổn với những thứ thay thế.”

Mang trí óc của anh trở về hiện tại, Mark tự hỏi liệu Victoria sẽ nói gì nếu cô biết anh sẽ nuôi nấng Holly trên đảo San Juan. Anh không nhận ra anh đã nói to suy nghĩ của mình cho đến khi Sam trả lời.

“Giống như cô ấy sẽ bị ngạc nhiên sao? Vick biết anh chẳng bao giờ rời xa hòn đảo. Việc kinh doanh café, nhà cửa, bạn bè của anh đều ở đó. Em chắc chắn cô ấy biết anh sẽ đem Holly về Friday Habor, nếu có điều gì xảy ra với cô ấy.”

Mark gật đầu, cảm thấy trống rỗng và lạnh lẽo. Tầm quan trọng trong sự mất mát của đứa trẻ không phải là thứ anh có thể bỏ qua trong một khoảng thời gian dài.

“Hôm nay cô bé có nói điều gì không?” Sam hỏi. “Em không nghe thấy một âm thanh nào từ miệng cô bé.”

Trong nhiều ngày, kể từ khi cô bé được cho biết về cái chết của mẹ, Holly câm lặng, chỉ đáp lại những câu hỏi bằng cách gật hoặc lắc đầu. Cô bé mang một biểu cảm xa cách, mê mụ, ẩn mình trong một thế giới nội tâm, nơi không ai có thể xâm nhập. Vào đêm xảy ra cái chết của Victoria, Mark đã đi thẳng từ bệnh viện đến nhà cô, nơi một người trông trẻ đang nhìn ra từ phía sau một cô bé nhỏ nhắn. Anh đã báo tin cho đứa trẻ vào buổi sáng, và đã ở lại gần như giữa cánh tay vươn tới của cô bé kể từ lúc đó.

“Không gì hết.” Mark nói. “Nếu cô bé không bắt đầu nói vào ngày mai, anh sẽ đưa nó đến bác sĩ nhi.”Anh buông một hơi thở cạn, run rẩy trước khi nói thêm, “Anh thậm chí còn không biết là ai.”

“Có một danh sách gắn trên tủ lạnh.” Sam nói, “Lựa chọn vài số trên đó, thế nào cũng có một số cho bác sĩ của Holly. Em đoán Vick đặt nó ở đó, phòng khi cô giữ trẻ cần đến vào dịp khẩn cấp.”

Mark đến bên tủ lạnh, lấy ra một tờ giấy ghi chú, và nhét nó vào trong ví của anh. “Tuyệt.” Anh nói mỉa mai, “Bây giờ ít ra anh đã hiểu biết nhiều bằng cô giữ trẻ.”

“Đó là một sự khởi đầu.”

Quay lại bàn, Mark uống một hớp Whiskey dài, thong thả. “Có vài thứ anh cần bàn với em. Việc sống trong căn hộ condo của anh ở Friday Harbor sẽ không phù hợp cho anh và Holly. Nó chỉ có một phòng ngủ và không có sân để cô bé chơi đùa.”

“Anh sẽ bán nó sao?”

“Cho thuê, có lẽ vậy.”

“Rồi anh sẽ sống ở đâu?”

Mark trầm ngâm một lúc lâu, cân nhắc, “Em có thừa phòng.”

Mắt Sam trợn tròn. “Không. Em không.”

Hai năm trước Sam đã mua mười lăm acres* ở vịnh False để theo đuổi ước mộng ấp ủ từ lâu của anh trong việc thành lập một nhà máy sản xuất rượu vang riêng. Vùng đất, với cát dẫn lưu tốt, đất sỏi, và vùng thổ nhưỡng terroir** có khí hậu mát mẻ, hoàn hảo cho một vườn nho. Theo cùng đất đai là một căn nhà nông trại thôn quê xây dựng theo kiểu Victorian đổ nát với một mái hiên trước có thể cuốn lại, những cửa sổ nhiều ô, một tháp canh kiểu vuông đồ sộ, và những tấm lợp kiểu vảy cá nhiều màu sắc.

(*Acre : Mẫu Anh, bằng 0.4ha, hay 4046m2.)

(**Terroir : Nguồn gốc là tiếng Pháp, dùng để chỉ một vùng đất có những tính chất về vị trí địa lý, địa hình, địa chất, khí hậu, thổ nhưỡng… phù hợp để trồng nho và sản xuất rượu vang – đây là một thuật ngữ đặc biệt được in nghiêng trong tiếng Anh.)

“Fixer-upper”* còn quá xa mới đến loại giới hạn được sử dụng cho một chỗ ở, một nơi đầy những rắc rối với những tiếng cọt kẹt, những chỗ lún xuống, những âm thanh tí tách kỳ bí và những vũng nước không rõ xuất xứ từ đâu. Những người cư trú trước đây đã để lại những dấu hiệu của họ trên ngôi nhà, lắp đặt nhà tắm không ở nơi dự định trước, đặt vào những bức tường gỗ nứt nẻ mỏng manh, những tủ đựng đồ nông choèn với những cánh cửa lung lay trượt khỏi ổ, những chiếc kệ bằng gỗ anh đào hoang phí, và những khung trang trí với nước sơn trắng rẻ tiền. Sàn nhà bằng gỗ cứng lúc ban đầu đã bị che phủ bằng vải lót sàn hoặc thảm lông mà bạn thậm chí có thể nằm trên đó và biến thành thiên thần thảm.

(*Fixer-upper : Là một loại bất động sản cần được bảo trì, sửa chữa hoặc tái tạo mặc dù vẫn có thể ở được, thường được mua với ý định nâng cao giá trị như một loại đầu tư.)

Nhưng căn nhà có ba thứ mời gọi : Có thừa phòng cho hai anh chàng độc thân và một cô bé sáu tuổi, có sân rộng và vườn cây ăn trái, và địa thế của nó trên vịnh False là phần đảo ưa thích của Mark.

“Không thể được.” Sam nói thẳng thừng. “Em thích sống một mình.”

“Em có mất mát gì đâu khi để chúng tôi ở cùng em nào? Chẳng có khía cạnh đơn điệu nào trong cuộc sống của em mà chúng tôi cản trở hết.” Chúng tôi, của chúng tôi. Những đại từ dường như sẽ thay thế danh xưng “tôi” trong phần lớn những câu nói của Mark kể từ lúc này.

“Anh đùa thôi, đúng không? Anh biết gì về cuộc sống của những gã độc thân khi có những đứa nhóc nào? Anh sẽ bỏ lỡ tất cả những cô nàng nóng bỏng, vì không ai trong bọn họ muốn trở thành người trông trẻ, và họ không muốn nuôi con của người khác. Cho dù nhờ sự kỳ diệu của Chúa, anh xoay sở kiếm được một cô nàng nóng bỏng, anh cũng không thể giữ được cô ấy. Không còn những cuối tuần không gò bó ở Porland hay Vancouver, không còn sex cuồng nhiệt, không ngủ trễ, không còn nữa.”

“Em có làm những thứ đó lúc này đâu.” Mark chỉ ra, “Em trải qua tất cả thời gian của em trong vườn nho cơ mà.”

“Khác ở chỗ, đó là lựa chọn của em. Nhưng sẽ chẳng còn lựa chọn nào khi có một đứa nhóc cả. Trong lúc bạn bè của anh uống bia và giải trí, thì anh ở trong cửa hàng tạp phẩm tìm kiếm những chất tẩy rửa và bánh quy Goldfish.”

“Không phải là mãi mãi.”

“Không, chỉ phần tuổi trẻ còn lại của em thôi.” Sam gục đầu xuống bàn như thể thụi vào nó, rồi đặt vào một cánh tay.

“Em phân định tuổi trẻ của em thế nào đây, Sam? Bởi vì từ chỗ anh biết, tuổi trẻ của em đã nhảy vào hàm cá mập đôi năm trước đây rồi.”

Sam ngồi bất động ngoại trừ ngón tay giữa nhấc ra khỏi bàn tay phải của anh. “Em có một kế hoạch cho những năm ba mươi của em” Anh nói bằng một giọng bị bóp nghẹt. “và không có điều gì trong đó bao gồm một đứa trẻ.”

“Của anh cũng không.”

“Em không sẵn sàng cho điều này.”

“Anh cũng không. Đó là lý do vì sao anh cần em giúp.” Mark buông một tiếng thở dài đầy căng thẳng. “Sam, đã bao giờ anh đòi hỏi em một điều gì chưa?”

“Chưa bao giờ. Nhưng lúc này anh định bắt đầu sao?”

Mark tạo cho giọng anh một sức thuyết phục kín đáo. “Hãy nghĩ về điều đó theo cách này… Chúng ta sẽ khởi đầu chậm. Chúng ta sẽ để những người hướng dẫn của Holly vào cuộc. Dễ dàng đưa những người hướng dẫn không bao giờ đến, cùng với những thứ tào lao như là ‘sự trừng phạt hợp lý’ hoặc ‘vì tôi đã bảo như thế’. Anh công nhận rằng anh không thể làm việc tốt nhất để nuôi một đứa trẻ… nhưng không giống như cha của chúng ta, sai lầm của anh sẽ là hiền lành. Anh sẽ không đánh tay trái vào cô bé khi không dọn sạch phòng. Anh sẽ không bắt cô bé ăn cần tây nếu nó không thích. Không bận tâm đến những trò chơi. Hy vọng rằng cuối cùng cô bé sẽ có một thế giới quan tốt đẹp và một công việc đủ sống. Chúa biết chúng ta làm việc này, bất luận như thế nào, cũng vẫn tốt hơn là giao nó cho những người lạ nuôi dưỡng. Hoặc tệ hơn, những người họ hàng khác của chúng ta.”

Một vài lời nguyền rủa làu bàu thoát ra khỏi những bắp cơ mạnh mẽ được tôi luyện trên cánh tay Sam. Như Mark đã hy vọng, ý thức bẩm sinh của người em trai về sự công bằng đã chiến thắng. “Được rồi.” Lưng cậu ấy vươn thẳng lên và buông ra một tiếng thở dài trước khi lập lại, “Được rồi. Nhưng em có điều kiện. Để bắt đầu, em muốn thuê căn condo của anh khi anh rời khỏi đó.”

“Xong.”

“Và em cần anh giúp để sắp xếp lại ngôi nhà.”

Mark trao cho cậu một cái nhìn cảnh giác “Anh không tốt trong việc sửa chữa nhà cửa. Anh có thể làm những thứ cơ bản, nhưng…”

“Anh đủ tốt mà. Và ánh sáng mà anh tái hoàn thiện sẽ là nguồn an ủi cho tâm hồn em.” Vì Sam hứa hẹn tiền thuê nhà và nhân công rẻ, một phần chống đối của anh tàn dần. “Chúng ta sẽ thử tiến hành trong đôi tháng. Nhưng nếu nó không phù hợp với em, anh sẽ phải mang đứa nhỏ đi một nơi khác.”

“Sáu tháng.”

“Bốn.”

“Sáu”

“Được rồi. Chết tiệt. Sáu tháng.” Sam rót thêm Whiskey. “Lạy Chúa tôi.” Anh lầm bầm “Ba người nhà Nolan ở cùng một chỗ. Một thảm họa đang đợi để ập xuống.”

“Thảm họa đã xảy ra rồi.” Mark nói cộc lốc, và định nói nhiều hơn, nhưng anh nghe thấy tiếng bước chân nhẹ nhàng trong hành lang.

Holly đã đi đến khung cửa bếp. Cô bé đã ra khỏi giường và đang đứng ở đó với biểu hiện bối rối, ngái ngủ. Một kẻ lâm nạn nhỏ bé mặc bộ pajamas hồng, bàn chân nhợt nhạt yếu đuối trên sàn nhà màu sẫm tối.

“Gì vậy, bé cưng?” Mark hỏi dịu dàng, tiến đến bên cô bé. Anh nhấc bé lên – Cô bé không nặng hơn bốn mươi pound – và cô bé đu đưa trong tay anh giống như một con khỉ nhỏ. “Không ngủ được sao?” Trọng lượng đáng kể của đầu bé ngả trên vai anh, mái tóc vàng mềm mại rối bời, cô gái nhỏ có mùi của phấn màu và dầu gội hương dâu xâm chiếm anh với vẻ dịu dàng yếu đuối.

Anh là tất cả những gì cô bé có.

Hãy bắt đầu bằng cách yêu thương nó…

Đó là phần dễ nhất. Phần còn lại làm anh lo lắng.

“Chú mắc kẹt với cháu rồi, ong mật ạ.” Mark nói. “Cháu cần phải ngủ. Chúng ta còn có nhiều ngày bận rộn phía trước.”

Sam đi theo khi Mark mang Holly trở lại phòng. Chiếc giường bốn cọc được làm cho vừa vặn với một cái khung trên đỉnh, ở đó Victoria đã treo hàng hàng lớp lớp những con bướm bằng vải với những đôi cánh mỏng trong suốt. Đặt cô bé vào nệm, Mark kéo tấm đắp lên tận cằm bé và ngồi xuống cạnh giường. Holly yên lặng và bình thản.

Nhìn vào đôi mắt xanh u uẩn của cô bé, Mark vuốt tóc ra khỏi vầng trán bé nhỏ. Anh sẽ làm bất kỳ điều gì cho cô. Sức mạnh cảm xúc của chính anh làm anh ngạc nhiên. Anh không thể bù đắp được những gì Holly đã mất. Anh không thể trao cho cô bé cuộc sống trước kia. Nhưng anh sẽ chăm sóc bé. Anh sẽ không bỏ mặc bé.

Tất cả những ý nghĩ đó, và nhiều hơn nữa, tràn ngập trí óc anh, nhưng những gì anh nói là, “Cháu có muốn chú kể cho cháu nghe một câu chuyện trước giờ ngủ không?”

Holly gật đầu, ánh mắt cô bé lướt qua Sam, đã đến và đứng dựa vào khung cửa.

“Ngày xửa ngày xưa,” Mark nói, “Có ba chú gấu…”

“Hai gấu bác.” Sam thêm vào từ khung cửa, âm thanh có vẻ cam chịu một cách lơ đãng, “và một cô gấu nhóc tì.”

Mark cười nhẹ khi anh tiếp tục vuốt ve mái tóc của Holly, “và tất cả bọn họ sống trong một căn nhà lớn cạnh bờ biển…”