Hồi ký Đỗ Mậu

Chương 14

Sau khi cuộc di cư năm 1954 hoàn tất, dân số toàn quốc là 38 triệu mà trong đó 15 triệu người sinh sống tại miền Nam. Trên phương diện tôn giáo, 15 triệu người đó được phân chia như sau: Tin Lành ra đời tại Việt nam từ năm 1921 có độ 200.000 tín đồ. Hoà Hảo (từ năm 1939) có độ 1.500.000 tín đồ. Cao Đài (từ năm 1925) có độ 1.500.000 tín đồ, và ngoài hai tôn giáo còn lại là Phật và đạo Thiên Chúa thì hầu như mọi người đều theo đạo gia tiên.

Sau năm 1954, số Phật tử tại miền Nam được ước lượng khoảng 4.500.000. Thiên Chúa giáo, năm 1553 giữa thế kỷ 16, được du nhập vào Việt nam dưới thời vua Lê Trang Tôn. Sau 400 năm truyền giáo từ vĩ tuyến 17 trở vào, số giáo dân chỉ tập trung đông đảo ở các tỉnh Quảng Trị, Quy Nhơn, Kontum... Còn lại cái địa phương khác thì sống thưa thớt thành từng họ đạo không được bao nhiêu. Cuộc di cư năm 1954 đã mang tổng số đó tại miền Nam lên hơn một triệu tư, gần bằng số tín đồ của Cao Đài, nhưng ảnh hưởng chính trị cũng như kinh tế, xã hội cũng như giáo dục thì lại vượt hẳn các tôn giáo bạn và lan tràn không những trong quần chúng mà còn có trong bộ máy công quyền cũng như trên chính sách quốc gia. Theo tờ Information Catholique Internationale, Eglise du Nord Việt nam, trong số 860.026 người Bắc di cư vào Nam, có 676.384 (tức 78,64%) người Thiên chúa giáo (tức là hơn một nửa số Giáo dân miền Bắc) với 5 giám mục, hơn 700 linh mục (2/3 tổng số linh mục ở miền Bắc).

Theo nghiên cứu của Jean Lacouture trong "Les Deux Vietnams", mà tôi sẽ đề cập đến một cách chi tiết hơn sau này, thì trong tổng số hơn một triệu tư đó, vào năm 1963, những người Thiên chúa giáo Nam Kỳ đã tỏ ra lạnh nhạt và thủ động bất mãn với chế độ Diệm vì yếu tố kỳ thị địa phương công giáo Bắc, công giáo Nam của gia đình họ Ngô.

Phải nói rõ ra như thế để thấy rằng chỉ có hơn một triệu người công giáo gồm công giáo di cư từ Bắc vào và đa số dân miền Trung là ủng hộ Diệm, với chủ nghĩa Nhân vị Duy linh, với quyền hành tuyệt đối trong tay, với phương tiện dồi dào của Hoa kỳ, anh em ông Diệm đã có đủ điều kiện để thực hiện tham vọng của mình là "làm sáng danh Chúa", cũng vốn là nhiệm vụ cao trọng và tối thiết mà nhà Ngô nghĩ rằng họ đã được Thượng đế giao phó. Nói rõ hơn, đối với anh em Diệm thì việc làm sáng danh Chúa là "cứu cánh", còn Tổ quốc, Dân tộc, kiến thiết Quốc gia, chống Cộng chỉ là "phương tiện" thuận lợi để họ đạt được cứu cánh đó mà thôi.

Cứ nhìn lại tiến trình sự du nhập của đạo Thiên chúa giáo vào Việt nam nhìn lại lịch sử dòng họ Ngô Đình vì bị người Lương khủng bố, phải bỏ làng Xuân Dực đến ngụ cư ở làng Đại Phong, nhìn lại việc ông Ngô Đình Khả được cố đạo ngoại quốc nuôi cho ăn học rồi về nước làm quan theo Pháp dẹp quân Kháng chiến Cần vương, cứ nhìn việc ông Nguyễn Hữu Bài rồi ông Ngô Đình Diệm đều làm Thượng thư đầu triều và đều có ý đồ riêng trong việc ủng hộ Kỳ ngoại hầu Cường Để, ta sẽ thấy rõ anh em ông Diệm đã được hun đúc như thế nào để chỉ một mặt thì mang nặng hận thù với người bên Lương và mặt khác thì hết lòng làm nhiệm vụ mở mang nước Chúa theo tham vọng của Hội Thánh La mã. Mà ý Chúa, ý Hội Thánh là gì? Ta hãy nghe Tổng giám mục Drapier, Khâm mạng Toà thánh tại Huế nói rõ: "Hội Thánh là một cơ quan hằng đi tới. Hội thánh thiết lập ở đâu là sống ở đó, mà sống tức là cứ bành trướng mãi do một sức mạnh kích phát từ bên trong. Mầm sống của đạo Thiên Chúa chính là một thứ men nồng không thể chịu nằm yên, không di dịch. Bản tính nó là làm cho sôi nổi, cho nứt vỡ giới hạn bên ngoài. Mọi sự ngăn trở, ngược đãi đã không thể khiến nó nhụt đi lại còn làm cho nó thêm phấn khởi". Một lối nói tuy văn vẻ mà hàm ý đầy oán trách, hận thù và kiêu căng.

Dưới chế độ Diệm nhà thờ mọc lên khắp nơi, hầu như mọi đơn vị quân đội (ngay cả giữa Sài gòn) đều có một nhà thờ, và ngay những nhà thờ cũ bị hư hại thời chiến tranh cũng đêu được trùng tu lại hết. Những cơ sở văn hoá, xã hội, kinh tế, các trường tiểu học, trung học đại học tư, bệnh viện, Giáo Hoàng học viện Pic X... của công giáo mọc lên rất nhiều.

Trong lúc đó thì Cao Đài, Hoà hảo không có một cơ sở nào đáng kể ngoài các Toà thánh, còn Phật giáo cũng chỉ vẻn vẹn mấy trường Bồ Đề cu từ thời trước để lại. Thế mà Cần lao công giáo vẫn chưa hài lòng, vẫn tìm mọi cách để bành trướng thêm hầu chèn ép các tôn giáo khác.

Hội Thánh Tin lành, một tôn giáo nhỏ, không ảnh hưởng gì nhiều đến đời sống quốc gia và không tranh chấp với ai, những tín đồ lại có tinh thần chống cộng rất cao, chỉ xin xây cất một bệnh xá và một trường thần học nhỏ bé tại Hòn Chồng (Nha Trang) mà cũng bị kỳ thị. Cụ Lê Văn Thía, Hội Trưởng Hội Tin Lành Việt nam gởi đơn khiếu nại tới chính quyền hơn hai năm liền mà vẫn bị khước từ vì chính quyền cho rằng đất cụ xin là đất bất động sản của trường La-san, nghĩa là đất của Công giáo. (Mà thật ra là đất của quốc gia). Trong lúc đó thì Tiểu Chủng Việt La-san đã chễm chệ phiếm trọn ngọn đồi đẹp nhất thành phố Nha Trang, không liên hệ gì tới miếng đất ở chân đồi mà cụ Thái xin xây cất cơ sở cho Hội Thánh Tin Lành.

Dưới thời Đệ nhất cộng hoà, các tổ chức Công giáo tha hồ xuất bản báo chí, kinh sách, tiếng nói Công giáo ra rả ngày đêm trên các đài truyền thanh. Thế mà kinh điển Phật giáo lại bị kiểm duyệt gắt gao, đến nỗi Phật giáo không dám ra một tờ báo có tính quần chúng suốt mười năm trời, ngay cả việc sử dụng đài phát thanh cũng không được chấp thuận.

Ngày 23-7-58, Ngô Đình Nhu mở một hội nghị toàn quốc tại Sài gòn về vấn đề giáo dục để xét lại chương trình giáo dục học đường. Sau hội nghị này một nghị định chính phủ ra đời, trong đó có biện pháp “kiểm soát chặt chẽ các trường tư thục”. Giới công giáo nổi lên phản kháng biện pháp kiểm soát của Ngô Đình Nhu, nhiều tạp chí công giáo tại Sài gòn đã mở một chiến dịch đả kích biện pháp này. Phong trào đang ồn ào như thế thì bỗng nhiên dịu xuống một cách đột ngột lạ lùng. Sau đó người ta mới biết hàng giáo phẩm công giáo đã được hai ông Nhu và Thục giải thích cho biết biện pháp này phải được công khai ban hành để biện minh cho kế hoạch làm tê liệt các cơ sở giáo dục của Phật giáo.

Chánh sách kỳ thị tôn giáo của chính phủ đã - ở một mặt nào đó - được gia đình ông Diệm tráo trở hợp pháp qua đạo dụ số 10 năm 1950 của thực dân để lại. Thật vậy, trong khi tình trạng của Thiên chúa giáo dưới thời ông Diệm là một tình trạng thả lỏng, nghĩa là không bị ràng buộc bởi một văn kiện nào thì Phật giáo và các tôn giáo khác lại có cái văn bản pháp lý của đạo dụ số 10 chi phối. Phải nói cho đúng rằng đạo dụ số 10 là sản phẩm độc ác và thâm hiểm nhất của thực dân Pháp trong chính sách tiêu diệt các tôn giáo tại Việt nam, vì một mặt chúng nhằm làm tê liệt các sinh hoạt tín ngưỡng của quần chúng Việt nam, mặt khác chúng giành độc quyền hành đạo. Điều 1 của đạo dụ liệt mọi tôn giáo (trừ Thiên chúa giáo) vào loại hiệp hội thường như đua ngựa, đánh banh... điều 7 cho phép chính quyền từ chối không cấp giấy phép hoạt động hoặc cấp rồi mà vẫn có thể rút lại không cần phải nói lý do, điều 10 và điều 12 cho phép bất cứ nhân viên hành pháp hay tư pháp nào cũng có quyền kiểm soát các hiệp hội tôn giáo, điều 14 và 28 có giới hạn tài sản của một tôn giáo ở mức nào đó mà thôi, và dĩ nhiên điều số 14 dành một chế độ đặc biệt sẽ quy định sau (nhưng rồi chẳng bao giờ quy định) cho các Hội truyền giáo Thiên chúa giáo.

Rõ ràng phải có một thâm ý độc ác, anh em ông Diệm mới duy trì cái đạo dụ đầy kỳ thị như thế của chế độ dù cho các tôn giáo khác tại miền Nam, trong khi đã xoá bỏ hầu hết mọi cơ cấu của chế độ này. Sự duy trì đạo dụ này cho thấy thâm ý gì nếu không phải là quyết tâm tiếp tục chính sách Công giáo hoá của thực dân Pháp, tiếp tục biến Việt nam thành cánh tay nối dài của một loại đế quốc Vatican Trung cổ tại lục địa châu Á?...

Là người nghiêm trang dè dặt thế mà không ngờ ngày mồng Một Tết Quý Mão 1963, tướng Minh lai thốt ra câu nói "Ngoài kia quân đội đánh giặc thì thua mà ở đây mình cứ diễn mãi cái tuồng tích chán ngấy...". Câu nói này phản ánh sự bất mãn gần đây nhất của ông đối với trận ấp Bắc mới xảy ra khoảng một tháng. Chẳng những ông bất mãn vì trận ấp Bắc là một thảm bại nhục nhã cho quân đội, mà còn vì cấp chỉ huy chịu trách nhiệm là Huỳnh Văn Cao và Bùi Đình Đạm lại không bị trừng trị, trái lại còn được ông Diệm và bà Nhu lớn tiếng bênh vực. Câu nói của ông còn phản ánh sự tức bực khi số thương vong của binh sĩ ngày một cao mà tại Sài gòn, chế độ Diệm lại bày ra quá nhiều lễ lạt, không đem lợi ích gì cho quốc gia. Đã thế, họ lại buộc "văn võ bá quan" chầu hầu để tỏ vẻ danh giá cho một gia đình phong kiến với nào là lễ Bổn mạng các ông Diệm, Thục, Nhu, Cẩn nào là lễ khánh Thọ ông Diệm, lễ khánh Thọ thân mẫu ông Diệm, lễ cúng kỵ cụ Ngô Đình Khả, lễ song Thất, lễ Quốc Khánh. Tết Tây, Tết ta, lễ Hai bà Trưng (một cơ hội mượn danh nghĩa hai vị liệt nữ để bà Nhu tô điểm cho ngôi vị lãnh tụ uy quyền tột đỉnh của bà ta). Lễ lạt nhiều mà bổn lễ Quốc khánh, Tết Tây, Tết ta và lễ Hai bà Trưng lại quá gần nhau nên những kẻ tham dự cảm thấy nhàm chán. Lần nào cũng vậy, cũng ngần đó “văn võ bá quan" mang áo mũ cân đai vào dinh Tổng thống để phải nhìn mãi sân khấu đó, diễn viên đó, tuồng tích đó, và nghe ca đi ca lại những lời sáo ngữ đó. Đã chín năm rồi mà lần nào cũng như lần nào: Phó tổng thống Nguyễn Ngọc Thơ đại diện cho hành pháp, Đại tướng Lê Văn Tỵ đại diện cho quân đội, chủ tịch Quốc hội đại diện cho lập pháp đọc những chúc từ đã quá quen thuộc. Rồi đến Tổng thống lên bổng xuống trầm với "điệu Nam ai Nam bằng” mà ông đã ca mãi từ năm ngoái năm xưa. Năm nào cũng quanh đi quẩn lại một điệp khúc ngần đó danh từ “cộng đồng tiến”, “cách mạng Nhân vị”, “thành tín", rồi cuối cùng là "xin Thượng đế ban phép lành"... không có gì mới lạ hết. Sự nghèo nàn cả về nội dung lẫn ngôn từ của các bài diễn văn chỉ nói lên cái tính chất giáo điều khô cằn mà anh em ông Diệm thích thưởng ngoạn với rất nhiều đắc ý, và cái tính chính trị hài hước của một sân khấu mà các diễn viên đã mất hết hào hứng sáng tạo của một trĩu đình phong kiến.

Nếu cho rằng câu nói của tướng Minh tại dinh Gia Long như một tiếng chuông báo trước cuộc cờ sẽ đổi thay thì những mâu thuẫn trầm trọng giữa anh em ông Diệm xảy ra tại Phú Cam cũng vào ngày mồng Một Tết Quý Mão đó như là một hiện tượng báo hiệu sự tan tác của gia đình ông Diệm mười tháng sau này.

Nguyên khi mới cầm chính quyền, anh em ông Diệm còn bỡ ngỡ trước một thể chế chính trị mới lạ so với sinh hoạt quan trường phong kiến quen thuộc cũ, phần vì bị tứ bề thọ địch nên họ yêu thương đùm bọc nhau. Nhưng dần dần vì chính kiến bất đồng, và nhất là vì tranh giành quyền lợi nên họ đã chống đối và xâu xé nhau kẻ thù.

Ngay từ cuối năm 1955, Ngô Đình Luyện và Ngô Đình Nhu đã tranh chấp quyền lực vì Luyện bị Nhu lấn áp và giành mất ảnh hưởng đối với ông Diệm mặc dù Luyện có công lớn trong việc vận động với Pháp, với Bảo Đại để ông Diệm được làm Thủ tướng, Luyện thua vì là vai em và vì không thủ đoạn bằng Nhu. Không thể làm Cố vấn cạnh ông anh Tổng thống để thi thố tài năng và phát triển quyền lực của mình, Luyện phải nhận lấy chức Đại sứ Việt nam tại Anh xa xôi với nỗi bất mãn trong tâm can, để rồi suốt 8, 9 năm trời phải thoả hiệp với Ngô Đình Cẩn mong chống lại vợ chồng Ngô Đình Nhu. Mỗi năm Luyện về nước ba bốn lần để quan sát tình hình, trao đổi đường lối ngoại giao với ông Diệm đối với các nước Âu Châu, nhưng mặt khác, và đây mới là quan trọng, là để theo dõi những hoạt động của vợ chồng Ngô Đình Nhu và giúp đỡ Ngô Đình Cẩn những thủ đoạn chính trị và những kế hoạch hành động chống lại vợ chồng Nhu.

Còn Ngô Đình Thục, nhờ tư cách quyền huynh thế phụ nên được toàn thể các anh em kính trọng. Tuy nhiên, vì lòng tham vô đáy và vì hành động lạm quyền của Thục quá lộ liễu nên nhiều khi Thục cũng làm cho Nhu bực tức nhưng vì tính thâm hiểm nên Nhu không dám công khai bày tỏ ra ngoài. Cho đến khi Thục biến ngày lễ Ngân khánh của mình thành ra một quốc lễ và làm tiền một cách trắng trợn quá độ, Nhu mới có những lời than thở với kẻ tay chân là Cao Văn Luận, Viện trưởng Viện đại học Huế: “Tôi và anh tôi (Diệm) buồn Đức Cha vì ngài đã lầm lẫn phạm vi tôn giáo với phạm vi quốc gia. Hồi còn ở Vĩnh Long, từng đoàn, từng lũ Dân biểu, Tỉnh trưởng, Bộ trưởng nườm nượp kéo đến chầu hầu Đức Cha. Ra Huế xa xôi tưởng đã bớt được cái nạn đó, không ngờ Đức Cha lại viện lễ Ngân khánh để làm ồn ào hơn. Nhưng vì anh cả là Ngô Đình Khôi mất sớm, Đức Cha trở thành anh lớn trong gia đình, vì thế đối với Ngài chúng tôi coi như Cha, không dám can gián, chỉ có Tổng thống có thể khuyên can được phần nào nhưng tôi sợ cũng không được”. Thật ra không phải chỉ vì Ngô Đình Thục ở vào địa vị “quyền huynh thế phụ” nên Nhu không dám khuyên can mà chính vì vợ Nhu cũng biến lễ Hai bà Trưng thành một thứ Quốc Khánh thứ hai để ngồi trên ghế bành bọc gắn vàng như ghế Tổng thống Diệm tại khán đài danh dự với tất cả nghi lễ quân cách của ngày lễ 26-10. Ngoài ra, chính Thục và vợ chồng Nhu cũng đã từng cấu kết với nhau trong nhiều vụ tham nhũng, trong việc xây nhà xây cửa và chuyển ngân bất hợp pháp ra nước ngoài. Vì thế mặc dù Ngô Đình Nhu là một thứ chúa Trịnh lộng hành bên cạnh một thứ vua Lê mù quáng là Ngô Đình Diệm, mặc dù vợ Nhu dám nạt nộ ông anh chồng Tổng thống nhưng Nhu không dám động chạm đến người anh tu hành quá tham sân si. Vợ chồng Nhu và Thục mặc nhiên phải cấu kết với nhau, cùng phe, cùng đảng mà sống.

Riêng đối với Ngô Đình Cẩn thì trước khi Thục nhận chức ở Huế, anh em vẫn thuận hoà dù Thục vẫn thường nghe lời vợ chồng Nhu gièm pha, kể tội Cẩn. Ngô Đình Thục thương yêu Cẩn vì Cẩn là đứa em út dốt nát nhất trong nhà nhưng lại có công kề cận phụng dưỡng mẹ già, lo việc kỵ chạp và chăm sóc mồ mả của cha anh. Nhưng từ khi Thục về Huế thì những mâu thuẫn quyền lợi đã làm cho hai anh em trở thành đối nghịch.

Còn giữa Cẩn và vợ chồng Nhu thì họ đã coi nhau như kẻ thù từ khi hai anh em trở thành hai lãnh chúa của hai vùng giống như thời hai anh em Trịnh Kiểm và Nguyễn Hoàng. Mâu thuẫn Cẩn và Nhu sâu sắc đến độ hai anh em xé đôi cái đảng Cần lao rường cột của chế độ để tranh nhau làm đảng trưởng như Chu Bằng Lĩnh đã nói trong tác phẩm "Đảng Cần lao”. Cần lao miền Trung Ngô Đình Cẩn khác với Cần lao miền Nam Ngô Đình Diệm. Thù hận nhau đến độ trong Nam, Nhu thành lập Thanh niên cộng hoà thì ngoài Trung, Cẩn thành lập Thanh niên Cách mạng. Thù hận nhau đến độ vợ Nhu lập Phong trào Liên đới Phụ nữ và Ký nhi viện, thì tại các tỉnh miền Trung, vợ Nhu phải nhờ Tổng thống Diệm nhiều lần năn nỉ với Cẩn, Cẩn mới chấp thuận cho hoạt động. Cẩn còn gởi rất nhiều cán bộ vào Nam có hậu ý riêng nhưng tuyên bố là để giúp Nhu, đặc biệt là những tay chân ruột thịt của Cẩn như Lê Quang Tung, Nguyễn Văn Châu, Dương Văn Hiếu, Nguyễn Cao Thăng, Nguyễn Đình Cẩn... thế mà Nhu vẫn không đuổi Trần Kim Tuyến để thay người của Cẩn như Cần thường đòi hỏi.

Tuy vợ chồng Nhu khinh bỉ Cẩn quê mùa dốt nát và căm tức người em ruột bướng bỉnh không chịu phục tùng mệnh lệnh của mình, nhưng Nhu vẫn không làm sao suy giảm ảnh hưởng và sức mạnh của Cần vì Cẩn đã có một tổ chức Cần lao công giáo khá mạnh ở miền Trung với sự hậu thuẫn đắc lực của Giám mục Phạm Ngọc Chi, Cao Văn Luận và tất cả các linh mục ở các tỉnh, các họ đạo. Đã thế những cán bộ có công với chế độ khi ông Diệm chưa nắm được chính quyền, hầu hết đều là người miền Trung vốn quen biết và hoạt động cùng với Cẩn, trong khi cán bộ cửa Nhu đa số lại là người miền Bắc và chỉ mới thực sự trung thành với chế độ sau khi di cư vào năm 1954.

Thực vậy, khi ông Diệm chưa về nước, tại Sài gòn Ngô Đình Nhu có một số bạn thân như Trần Quốc Bửu, Bùi Kiệm Tín, Trần Ngọc Liên... Nhưng họ lại không phải là cán bộ. Lúc đó thật sự Nhu chỉ có hai người cộng sự viên thân tín là Đỗ La Lam và Cao Xuân Vỹ, mà Cẩn đã từng đánh giá Lam là tay "đồ nho” chỉ biết viết lách chút đỉnh, còn Vỹ là tay đĩ điếm chơi bời không có uy tín gì.

Có nhìn được những mâu thuẫn xung khắc đó giữa những anh em ông Diệm ta mới thấy và hiểu được tại sao các chính sách của quốc gia bị tê liệt và kích phá từ lúc mới khai sinh, tại sao bộ máy công quyền bị suy nhược và bị lũng đoạn ngay cả vào những năm vững vàng nhất của chế độ, và nhất là tại sao đất nước bị chia năm xẻ bảy thành những vùng ảnh hưởng khác nhau. Phân hoá vừa theo chiều ngang, nghĩa là theo vùng địa dư hoặc theo lãnh vực sinh hoạt, vừa theo nhiều dọc, nghĩa là theo hệ thống lãnh đạo và bộ phận thi hành. Vì bản chất của những mâu thuẫn này là quyền lợi, quyền lực và nhất là cá tính của từng cá nhân anh em ông Diệm; vì phần biểu hiện của những mâu thuẫn này là nhưng thực tế cụ thể như tiền bạc, chức tước, danh vọng, tài sản nên từ lâu, tuy cố gắng che giấu để duy trì cái bề ngoài nho phong nền nếp của một gia đình vọng tộc, nhưng anh em ông Diệm vẫn không thể nào kìm chế hoặc làm suy giảm được những tình cảm hằn học và những thủ đoạn đánh phá nhau mà càng ngày hành ác nhân sự thừa hành cuồng tín và vị kỷ đã lôi kéo họ vào tình trạng không thể dung thứ nhau được nữa, cho nên chuyện đã đến phải đến đúng vào đầu năm Quý Mão (1963) để lại một lần nữa báo hiệu sự rạn nứt không tránh được của gia đình họ Ngô, mà cũng là của chế độ Diệm.

Thật vậy, trong số những mâu thuẫn đục khoét mối liên hệ của anh em ông Diệm thì mâu thuẫn giữa Nhu và Cẩn là trầm trọng nhất. Cho đến đầu năm 1963, vừa không đè nén nổi sự căm phẫn đối với vợ chồng Ngô Đình Nhu được nữa, vừa bị Thục cướp mất nhiều quyền lợi cụ thể quan trọng. Cẩn bèn dùng độc kế để biểu lộ sự bất mãn của mình, Cẩn quyết định bỏ ngày cúng kỵ cha đúng vào ngày mồng Ba Tết Quý Mão. Hành động có tính chất phản kháng tích cực đó là một hành động vô tiền khoáng hậu đối với gia đình họ Ngô lúc bấy giờ. Từ khi nắm được chính quyền, ngày kỵ của Ngô Đình Khả đã trở thành một ngày hết sức trọng đại, ngày để gia đình họ Ngô biểu dương cái không khí "thế gia vọng tộc", ngày để khoe khoang cái tinh thần nho phong “nhân sinh bách tuế hiếu vi tiên" cho đúng với lễ nghĩa của thánh hiền. Ngày cúng kỵ cụ Ngô Đình Khả lai đúng vào ngày mồng Ba Tết, là dịp để con cháu sum họp đầy đủ, để anh em tạm quên những xâu xé giành giật, tạm quên sóng gió trong gia đình hầu biểu dương cái tình máu mủ cho cả nước biết.

Cứ trưa ngày mồng Một Tết, sau khi nhận lễ chúc tụng đầu năm của nhân viên chính phủ và ngoại giao đoàn tại phủ Tổng thống là ông Diệm bay về Huế để mừng tuổi mẹ, thăm mộ cha, rồi ở lại 3 ngày để tham dự buổi cúng kỵ Phụ thân cùng với gia đình, quây quần bên cạnh mẹ trong mấy ngày xuân. Ngày kỵ cụ Ngô Đình Khả cũng là dịp để mỗi năm một lần gia đình Tổng thống Diệm có dịp thết đãi nhân viên thân tín từ Sài gòn ra hay từ các tỉnh về, đồng thời để đãi đằng những người đông hương quê quán tỉnh Quảng Bình trong hội "Quảng Bình tương tế" mà mục đích là tô điểm cho bức hoàng phi mang 4 chữ Y Cẩm Hồi Hương thêm vàng son hoa gấm.

Với Ngô Đình Cẩn thì việc nuôi dưỡng mẹ cũng như việc cúng kỵ giỗ cha, ở một khía cạnh nào đó được dùng như một lợi thế để lập công với anh em cho nên không lấy gì làm lạ khi Tết Quý Mão năm 1963, Cẩn đã liều lĩnh bỏ kỵ Cha để cho mẹ phải buồn lòng, để anh em mang tội bất hiếu, để gia đình mất mặt với quốc dân. Cẩn tưởng dùng độc kế để bắt chẹt anh em cho thoả cái căm phẫn uất ức của mình đồng thời yểm trợ cho những đòi hỏi mới. Không ngờ Cẩn gặp phải phản ứng của kẻ đối thủ số một của Cẩn là bà Nhu, người đàn bà mang hỗn danh là "Rồng Cái", không hề sợ một ai kể cả cha ruột, kể cả chồng, kể cả ông anh chồng là một Tổng thống, kể cả Đức Giáo Hoàng Phao Lô Đệ Lục.

Mồng Một Tết về đến Huế và biết được việc bỏ kỵ cha là một quỷ kế của lãnh chúa miền Trung, Đệ nhất phu nhân bèn huy động bồi bếp, binh sĩ và trưng dụng hai phi cơ DC3 của không quân mang chén bát đồ ăn từ Sài gòn ra Huế rồi đích thân nắm lấy việc tổ chức cúng kỵ và điều khiển việc tổ chức cúng kỵ và điều khiển việc đãi đằng khách khứa. Thấy thủ đoạn của mình bị hoá giải một cách dễ dàng nên trong ba ngày Tết, Cẩn liên tiếp gây gỗ khiêu khích, cãi vã to tiếng ồn ào với chị dâu... Không biết làm cách nào hơn cho gia đình êm ấm, ông Diệm đành mở cuộc họp bí mật trong gia đình ngay tại Phú Cam để dàn xếp nội bộ. Không ai biết nội dung và kết quả cuộc họp có lẽ đầy sóng gió này, nhưng sau đó nhờ Cẩn huênh hoang, người ta mới biết thêm nhiều chi tiết khác và biết Cẩn đã thu được một thắng lợi to lớn là Nhu bằng lòng đuổi Trần Kim Tuyến khỏi địa vị Giám đốc Sở Nghiên cứu Chính trị để thay thế bằng người của ông Cẩn.

Từ sau khi Việt minh cướp chính quyền, Đức Cha Lê Hữu Từ viết thư luân lưu lên án Việt minh, người Công giáo Việt nam miền Bắc bèn tổ chức "liên đoàn Công giáo" và cho ra đời tờ “Hồn Công giáo” làm cơ quan ngôn luận để hoạt động chính trị. Những người sáng lập Liên đoàn Công giáo đầu tiên là các ông Nguyễn Mạnh Hà, một Bộ trưởng của Việt minh, và ông Mai Ngọc Liệu, một học giả và một huynh trưởng Hướng Đạo, sau đó có thêm các ông Lê Văn Đệ và Phạm Mạnh Khiêm... Sự thật thì nhóm ông Mai Ngọc Liệu muốn dùng Liên đoàn Công giáo như là một lực lượng hữu thần để chống lại Cộng sản vô thần. Còn Nguyễn Mạnh Hà thì muốn lái khối Công giáo Việt nam để ủng hộ cho Mặt trận Việt minh.

Nhưng chỉ một thời gian ngắn, vì chiến tranh Pháp-Việt xảy ra, tình hình miền Bắc rối rắm, Liên đoàn Công giáo âm thầm tan rã.

Cho đến khi quân đội Pháp chiếm được Hà Nội và một số tỉnh miền Bắc, trong giới Công giáo có lời đồn đại rằng Pháp sẽ mời cựu hoàng Bảo Đại chấp chánh và Ngô Đình Diệm sẽ giữ chức Thủ tướng, người Công giáo miền Bắc mới dự định lập thành đảng chính trị để làm hậu thuẫn cho ông Diệm. Họ thành lập đảng Công giáo Xã hội mà những sáng lập viên là các ông Hoàng Bá Vinh, Mai Ngọc Liệu, Nguyễn Văn Noãn, Nguyễn Đình Chiểu, Vũ Văn Cường v.v...

Đảng viên Công giáo Xã hội chỉ toàn là người Công giáo, đặc biệt là tại Nam Định, Thái Bình, Ninh Bình. Một thời gian sau, khi đảng được ông Lê Quang Luật lãnh đạo thì đổi tên thành Phong trào Dân chúng Liên hiệp. Lý do đổi tên đảng là vì ông Luật là một đảng viên Duy Dân, và vì có những người không Công giáo gia nhập vào khu vực tự trị Phát diệm của Đức Cha Lê Hữu Từ, điển hình như Phạm Xuân Chiểu chẳng hạn. Nhân vật hoạt động tích cực cho đảng và cho ông Ngô Đình Diệm là Hoàng Bá Vinh.

Trước năm 1945, Hoàng Bá Vinh đi tu nhưng sau khi Việt minh cướp được chính quyền, Vinh bèn bỏ chủng viện, bỏ Thánh kinh, bỏ áo chùng đen nghĩa là bỏ hết lối lên thiên đàng gần nhất để theo đòi chính trị, chạy theo tiền bạc ái tình, dấn thân vào con đường trần ai tục luỵ. Từ đó người ta gọi Vinh là "Già Vinh" vì tín đồ Công giáo dùng tiếng "Già" để chỉ người tu xuất, dù Vinh chưa già, còn trẻ lắm. Nhờ hoạt động chính trị, Vinh tổ chức một đoàn thuyền buôn lậu ngược xuôi giữa hai cửa bể Thanh Hoá và Hải Phòng, lấy Phát Diệm làm vùng gạch nối giữa vùng Tề và vùng Việt minh. Nhiều thương gia trong đó có Mai Văn Hàm (sau này được ông Diệm đền ơn cho giữ chức Đại sứ tại Thái Lan) chung vốn cho Già Vinh đi buôn lậu. Tại Hà Nội nhờ một số linh mục bảo đảm Vinh mướn được căn nhà của ông Trần Văn Chương (thân phụ của Bà Nhu) tại đường Hàng Cỏ làm nơi hội họp liên lạc. Cũng tại Hà Nội Vinh gặp được Lê Quang Luật, Đào Văn (em rể của Luật), Nguyễn Văn Tỉnh (tức trung tá Nguyễn Văn Châu), Nguyễn Đức Chiểu, Mai Văn Toan, Đào Hữu Thịnh, Nguyễn Ngọc Tuệ... Họ cũng hoạt động cho Phong trào Liên hiệp Dân chúng mà Lê Quang Luật là lãnh tụ để hoạt động ủng hộ cho ông Diệm và ông Nhu.

Lúc đầu, nhóm Dân chúng Liên hiệp còn đoàn kết giúp đỡ nhau trong tình đồng chí, đồng đạo nhưng từ năm 1949 trở đi, khi “đường cách mạng” đã rẽ qua ngõ lợi danh thì họ bắt đầu chia rẽ nội bộ đánh phá nhau, mà nguyên nhân là thủ đoạn phân hoá nội bộ của Già Vinh trong kế hoạch chia để trị và vì Vinh muốn biển thủ tiền bạc làm của riêng. Già Vinh không còn giúp đỡ anh em như trước nữa mặc dù Vinh có rất nhiều tiền nhờ bán thuốc Tây cho Việt minh ở Liên Khu Tư. Nội bộ phân hoá nặng nề đến độ Đào Văn, Trưởng ty Công an Phát Diệm đã được cung cấp tin tức đầy đủ để dễ dàng bắt Già Vinh về tội tiếp tế cho Việt minh. Từ đó nhóm Lê Quang Luật và nhóm Hoàng Bá Vinh trở thành kẻ thù không đội trời chung. Đã thế, một yếu tố khác đáng lẽ làm cho họ đoàn kết thì lại xé nát thêm cái liên hiệp mong manh là trong lúc hai nhóm Luật và Vinh ủng hộ cho ông Diệm thì Đức Cha Lê Hữu Từ và linh mục Hoàng Quỳnh lại có cảm tình và ủng hộ Quốc trưởng Bảo Đại, cho đến năm 1949, khi Quốc trưởng Bảo Đại về nước chấp chính thì Đức Cha bèn đem khu tự trị Phát Diệm sát nhập vào cộng đồng quốc gia như hồi ký Le Dragon d’annam của Bảo Đại đã kể. Ngoài ra, đại đa số linh mục và các giáo dân phần vì không còn hy vọng ông Diệm làm Thủ tướng nữa, phần vì chỉ tin tưởng và dựa vào thế lực quân đội viễn chinh Pháp nên Phong trào Liên hiệp Dân chúng chia rẽ và suy yếu dần.

Cần phải nói rõ thêm rằng nhiều sách báo của người Mỹ cũng như cuốn Những bí ẩn về cái chết của Việt nam cộng hoà của Phan Kim Vinh, có lẽ dựa vào những dữ kiện trên đây do một số tay chân ông Diệm kể lại để cho rằng ông Diệm từng là lãnh tụ của Mặt trận quốc gia liên hiệp tại Huế. Sự thật thì ông Diệm không bao giờ là lãnh tụ của Phong trào Dân chúng Liên hiệp tại Bắc Việt cũng như không bao giờ là lãnh tụ của Mặt trận quốc gia liên hiệp tại Huế vốn do ông Trần Thanh Đạt lãnh đạo mà Mặt trận này còn là một tổ chức đối lập với ông Ngô Đình Diệm và Trần Văn Lý. Phong trào Dân chúng Liên hiệp do ông Lê Quang Luật lãnh đạo có mục đích chống Cộng rồi dần dần ủng hộ ông Diệm chứ ông Diệm chưa bao giờ đứng ra trực tiếp tổ chức và lãnh đạo một phong trào, một mặt trận nào cả.

Suốt cả cuộc đời chính trị ông Diệm ông chỉ có một lần lãnh đạo Phong trào ủng hộ Kỳ ngoại hầu Cường Để thời quân đội Nhật chiếm đóng Đông Dương, nhưng phong trào đó không được tổ chức có hệ thống, có nội qui, có cương lĩnh, sinh hoạt, huấn luyện như một đảng cách mạng. Và từ sau khi được Hồ Chí Minh trả tự do trở về Sài gòn ông Diệm có tham gia vào một tổ chức chính trị được gọi là Mặt trận Quốc gia do bác sĩ Lê Văn Hoạch lãnh đạo sau khi ông Hoạch từ chức Thủ tướng Nam Kỳ Quốc, nhưng Mặt trận này cũng không sống được bao lâu. Mô tả vị trí của ông Diệm trong Mặt trận này, Pierre Debezies trong forces Pohtiques du Vietnam nói rằng: "Lần đầu tiên là lần độc nhất ông Diệm gia nhập một đảng chính trị mà ông ta không phải là người sáng lập". Năm 1954, khi ông Diệm đã được Bảo Đại cử làm Thủ tướng, Lê Quang Luật được Ngô Đình Nhu cử đi Pháp với Trần Chánh Thành để có người phụ tá cho ông Diệm, nhờ Luật trí thức và giỏi tiếng Pháp nên cần qua Paris viết diễn văn bằng tiếng Pháp cho ông Diệm. Về nước thì Ngô Đình Luyện, Trần Chánh Thành và Lê Quang Luật cũng về theo.

Về nước Lê Quang Luật được ông Diệm cử làm Bộ trưởng Bộ thông tin rồi sau lại cử Luật ra Hà Nội làm Đại biểu chính phủ. Lúc mới về ông Diệm tưởng có thể chống lại việc chia đôi đất nước, nghĩa là chống lại thoả hiệp Genève do Việt minh và Pháp ký kết nên ông Diệm mới cho thành lập Uỷ ban Bảo Vệ Bắc Việt và giao cho Hoàng Cơ Bình làm chủ tịch, Trần Trung Dung làm phụ tá. Nhưng Pháp không chịu và bắt ông Diệm thực thi đúng đắn Hoà ước Genève nên ông Diệm đành phải thay danh từ Uỷ ban Bảo Vệ Bắc Việt thành ra Đại biểu Chính phủ tại Bắc Việt, phải đem Hoàng Cơ Bình và Trần Trung Dung vào Nam. Vì thế, Lê Quang Luật, vốn có nhiều cán bộ Công giáo, được ông Diệm cử làm Đại biểu chính phủ thay cho Hoàng Cơ Bình.

Trong lúc Luật được nắm những chức vụ cao cấp quan trọng trong chính phủ thì Già Vinh lại là "uỷ viên Trung ương đảng Cần lao”, cạnh Tổng bí thư Ngô Đình Nhu, đặc trách Xứ uỷ Bắc Việt, mang sẵn mối thù cũ lại ganh tị chức Đại biểu chính phủ của Luật, Già Vinh và nhóm Hà Đức Minh (cũng là uỷ viên Trung ương Đảng Cần lao) xuyên tạc, vu khống Lê Quang Luật với ông Diệm, ông Nhu và dùng tờ nhật báo Ngôn Luận của Nguyễn Thanh Hoàng để đánh phá ông Luật qua một số khuyết điểm của cộng sự viên Luật tại Bắc Việt tờ báo này đã bôi lọ và hạ Luật xuống đất bùn. Theo quy định của Hiệp ước Genève, ngày 18-5-1955, sau hạn kỳ 300 ngày của chính quyền quốc gia tại Bắc Việt, Luật xuống tàu "Ville de Hải Phòng" của Pháp mang theo một hộp đất phủ lá quốc kỳ vào Thủ đô miền Nam để dân miền Nam lưu niệm nhớ thương đất tổ Hùng Vương. Chiếc hộp đựng đất đã được dân chúng Sài gòn đón tiếp long trọng rồi làm lễ tại Thảo Cầm Viên.

Cuộc di cư 1954 của trên 800.000 đồng bào được thực hiện là nhờ phương tiện của Pháp, Mỹ. Sau khi hoàn tất, ông Diệm được cả thế giới tự do ca ngợi, nhưng không ai thèm nhắc tới cái tên Lê Quang Luật dù Luật đã là người có rất nhiều sáng kiến chính trị xuất sắc, lại là người Công giáo, nên đã khôn khéo tổ chức cho cuộc di cư dù đông đảo nhưng vẫn trật tự, đem được trên 650.000 người Công giáo miền Bắc vào Nam rồi thì bao nhiêu công lao của Luật cho cuộc di cư và tấm nhiệt tình của Luật đối với quê hương dân tộc đều bị nhóm Cần lao công giáo và anh em ông Diệm phủ nhận hết. Luật bị ông Diệm khinh bạc phũ phàng để đến nỗi từ một chiếc sĩ quốc gia, một trí thức mà đáng lẽ chế độ phải trọng dụng, Luật trở thành một người thối chí đối lập chế độ. Từ đó Luật trở về sống cuộc đời bần bạch, cho đến chết vẫn không lập gia đình, ở vậy để làm ăn nuôi cha già. Năm 1960, Luật tích cực tham gia nhóm Caravelle, ra tuyên ngôn lên án chế độ Ngô Đình Diệm như tôi đã trình bày trên kia.

Tôi vốn chỉ biết mà không quen Lê Quang Luật, nhưng sau khi lật đổ chế độ Diệm, một nhóm bốn người, hai Công giáo hai Phật giáo, tuy ở những vị thế khác nhau nhưng lại cùng chung chí hướng, đã gặp gỡ tôi và trở nên bạn chí thiết của tôi cho đến ngày nay. Đó là luật sư Lê Quang Luật, học giả Mai Ngọc Liêu (hiện ở California), nhà báo tên tuổi Vũ Ngọc Các (đảng viên cao cấp của Việt nam Quốc Dân Đảng), và luật sư trẻ Trần Thanh Lập (hiện ở Paris), một nhà văn tên tuổi đầy nhiệt tình, nhiệt huyết trong các hoạt động văn hoá, chính trị. Lúc bấy giờ tôi là Uỷ viên chính trị của Hội đồng nhân dân cách mạng, lại được bốn nhân vật kia cho rằng dưới chế độ Diệm, chẳng những tôi “gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn" lại còn hay giúp đỡ các nhân vật đảng phải bị hoạn nạn nên họ muốn giúp tôi hoạt động chính trị trong tân chế độ. Họ cho xuất bản báo Dân Chủ để vinh danh cuộc cách mạng ngày 1-11-1963 và tranh đấu đòi hỏi Hội đồng Cách mạng thiết lập một chế độ dân chủ để thực hiện đại đoàn kết quốc gia hầu cứu vãn tình hình chiến thắng Cộng sản. Nhưng rồi vì những xáo trộn chính trị liên tiếp xảy ra sau đó tôi về hưu sớm vào đầu năm 1965, dù vậy bốn nhân vật kia vẫn giữ mối tình tri kỷ, vẫn thường lui tới với tôi, đặc biệt là Lê Quang Luật, anh bận công việc làm luật sư ở Biên Hoà nhưng mỗi tháng anh vẫn đến nhà tôi ít nhất là vài lần. Mỗi lần như thế hai chúng tôi lại ngồi với nhau luận bàn chuyện Đông Tây Kim Cổ đến bốn năm tiếng đồng hồ. Điều quý nhất là không Tết nào mà ngày mồng hai anh không đến chúc Tết tôi. Có lần anh đã khen tôi là người thích đọc chuyện cũ nên thấm nhuần được tư tưởng của người xưa, biết bỏ tình riêng để theo nghĩa lớn, biết hiện đại hoá quan niệm để hiểu chữ trung với dân với nước hơn là trung với chế độ, với lãnh tụ. Tôi mừng thầm nghĩ rằng: "Tiếng đàn Bá Nha đã thấu được tai Tử Kỳ”.

Thời Nguyễn Văn Thiệu, Luật ra ứng cử Dân biểu tại Biên Hoà, đặt hy vọng vào số phiếu của cử tri Công giáo di cư ở Hố Nai, nhưng Luật thất cử. Gặp tôi, khi rượu đã mềm môi và tâm sự đã dạt dào. Luật không giữ được vẻ bình tĩnh đằm thắm cố hữu, anh nặng lời nguyền rủa các ông linh mục Hố Nai mà anh cho là bọn người vong ân bội nghĩa. Những năm cuối cùng của miền Nam tôi tưởng lòng anh đã nguội lạnh, không ngờ một hôm anh đến thăm và bảo tôi so sánh con người Ngô Đình Diệm và con người Dương Văn Minh. Không hiểu anh dự định gì nên tôi nói thẳng: "Dương Văn Minh yêu nước, chống Pháp và chống Cộng nhưng không có cái huyền thoại từ quan của Ngô Đình Diệm, dù năm 1953 thời còn làm trung tá, tuy được tướng Hinh cử ra Nha Trang làm Tư lệnh Phân khu Duyên hải Dương Văn Minh cũng từ khước, thà bị giải ngũ chứ không chịu đặt mình dưới quyền chỉ huy của một viên đại tá người Pháp. Dương Văn Minh không trí thức như Ngô Đình Nhu nhưng về phong độ và lòng chân thành thì Minh hơn hẳn anh em ông Diệm. Vê hậu thuẫn thì anh em ông Diệm có khối Công giáo di cư và khối Công giáo miền Trung, còn Dương Văn Minh thì có Phật giáo và đa số người “Nam Kỳ” kể cả số lớn người Công giáo và trí thức. Hâu hết người Cao Đài ủng hộ Dương Văn Minh, còn Hoà Hảo thì có nhóm của Phan Bá Cầm và nhóm của Nguyễn Giác Ngộ cũ. Tôi phân tách xong, Luật trầm ngâm một lát rồi từ tốn nói: "Tôi sẽ ủng hộ Dương Văn Minh chống Nguyễn Văn Thiệu và tập đoàn Cần lao chung quanh ông Thiệu. Hiện tình đất nước cần dân Ka ki hơn dân chính khách vả lại không có gấm vóc thì mình tạm dùng áo vải vậy". Anh rủ tôi hoạt động cho Dương Văn Minh nhưng tôi từ chối vì đã chán ngấy chính trị, và vì tôi buồn Dương Văn Minh đâm ra lệnh hạ sát ông Diệm mặc dù tôi hết lòng phản đối.

Tôi cũng cho anh biết tình hình đất nước hiện nay dù có Thánh cũng không tài nào cứu vãn nổi, trước sau rồi Việt nam cũng rơi vào tay Cộng sản. Tôi nhắc lại quan điểm để anh nhớ rằng vào năm 1969, sau biến cố Tết Mậu Thân, tướng diều hâu Westmoreland bị mất chức, phong trào phản chiến tại Mỹ phân hoá nặng nề. Tổng thống Johnson gởi thư cho Hồ Chí Minh xin nghị hoà; tôi đã viết trên báo Sống một bài phân tích lượng giá tình hình để báo động với đồng bào: "Đối phương đang tiến quân trên khắp các nẻo chiến trường, bạn đồng minh đang tìm kế cầu hoà với địch, miền Nam sẽ rơi vào tay Cộng sản". Bài tôi viết năm 1969 trên tờ báo Sống của Chu Tử được nhiều anh em trong lực lượng Dân tộc Việt biết rõ. Hà Thế Quyệt, Lý Đại Nguyên rất buồn không tin vào lời tiên đoán của tôi mặc dù Quyệt đã có lần gọi tôi là "Tiểu Khổng Minh" trên tờ báo Quật khởi do Nguyễn Trọng Nho làm chủ nhiệm.

Thế rồi năm 1975 miền Nam mất thật, tôi đau buồn ra đi còn Lê Quang Luật và Vũ Ngọc Các ở lại quê hương. Viết lại những kỷ niệm với Lê Quang Luật và Vũ Ngọc Các tôi ước ao những dòng chữ mộc mạc này sẽ đến được dưới mắt những người ruột thịt của hai anh.

Sau khi đánh bật được Lê Quang Luật rồi, Hoàng Bá Vinh được Ngô Đình Nhu bảo trợ làm Dân biểu gia nô, khai thác tối đa chức vụ uỷ viên Trung ương đảng Cần lao, dựa vào cái thế Dân biểu tay chân đắc lực của chế độ, Vinh bèn phát triển hoạt động trong nhiều lĩnh vực kinh doanh khắp miền Nam, kể cả cổ phần trong công ty Nông Sơn để chuyển tiền ra ngoại quốc. Sau ngày lật đổ chế độ Diệm, nhờ sự khoan hồng của tướng Trần Văn Minh, Chủ Tịch Uỷ ban Điều tra tài sản nhà Ngô và Cần lao, Già Vinh thoát nạn bèn trốn sang Pháp sống vương giả cho đến ngày nay bên cạnh gia đình vợ đã có Pháp tịch từ trước.

Là người miền Bắc, lại là tay chân của Ngô Đình Nhu, tại sao Vinh lại lọt vào mắt xanh của Ngô Đình Cẩn để được chọn làm ứng viên thay cho Trần Kim Tuyến. Đó là nhờ sở trường biết đánh cá cả hai cửa: trong lúc Vinh phục vụ cho Ngô Đình Nhu, y lại có nhiều cơ sở kinh doanh ở Nha Trang, Cà Ná, Cam Ranh, Quảng Nam, vốn nằm trong lãnh địa trách nhiệm của ban Đặc vụ công tác miền Trung của Cẩn, cho nên Già Vinh đã đút lót, nịnh bợ Cẩn để được tín nhiệm. Tuy nhiên, trong lúc gia đình Ngô Đình Nhu vẫn còn phân vân trì hoãn chưa thay Trần Kim Tuyến thì biến cố Phật giáo xảy ra, tình hình trở nên cấp bách nên tất cả anh em nhà Ngô đều phải tạm đoàn kết để yểm trợ vợ chồng Ngô Đình Nhu hầu đối phó với kẻ thù chung là Phật giáo mà tạm quên những mâu thuẫn nội bộ của gia đình. Vì vậy, khi đuổi Tuyến đi làm Tổng lãnh sự ở Ai Cập, người thay Tuyến không ai hơn là Trần Văn Khiêm, em ruột bà Nhu một nhân vật mà nhiều đồng nghiệp của ta đã đặt cho hỗn danh là "Luật sư khùng" vì tính tình bất thường, mà ký giả Karnow trong Vietnam, a television history gọi là Playboy vì y chuyên dựa thế của chị ruột để làm tiền các chuyên gia giàu có, và đàng điếm chơi bời.

Nói tóm lại ba ngày Tết Quý Mão năm đó đáng lẽ phải là những ngày êm đềm hoà thuận của gia đình để đón Xuân sang thì trong ngôi nhà Phú Cam Huế, lại là những ngày giông bão đằng đằng sát khí của tranh chấp và thoả hiệp.

Trước tình trạng xấu của gia đình, chỉ có ông Diệm là người phiền luỵ khổ tâm nhất. Khuyên can Ngô Đình Thục thì "Đức Cha giận dỗi bỏ về Vĩnh Long” như hồi ký của tuỳ viên Đỗ Thọ đã viết, trách móc Ngô Đình Nhu thì "Cố vấn giận lẫy bỏ lên Đà Lạt nằm cả tuần lễ" như tác phẩm "Những ngày chưa quên" của Đoàn Thêm nói, căn ngăn em dâu thì lại sợ Đệ nhất phu nhân hằn học tuyên bố bừa bãi làm mất thể thống quốc gia và danh dự gia đình như ký giả Karnow đã trình bày, tỏ thái độ buồn bực với chú Cẩn thì lãnh chúa miền Trung phân bình "các anh sướng quá rồi, cho tôi sướng tí xíu với chứ..." như Đỗ Thọ đã kể.

Trước cảnh anh em ruột thịt xung đột xâu xé nhau như thế, ông Diệm buồn lắm. Buồn mà đành chịu gậm nhấm rồi ấm ức trong lòng cho nên đã có lần đến Huế ông cho mời người cán bộ trung kiên là Võ Như Nguyện đến tại dinh Phú Cam để ông tâm sự mong Nguyện chia sẻ nỗi đắng cay với ông một phần nào.

Khốn nỗi sự nhu nhược, chịu luỵ của ông Diệm đối với anh em ông lại là nguyên nhân đưa đến sự suy sụp quốc gia mà hai biến cố đầu nằm Quý Mão là thảm bại quân sự ấp Bắc, và thảm trạng sâu xé trong gia đình đã làm cho nhân dân hoàn toàn mất hết tin tưởng nơi anh em ông Diệm, nơi chế độ ông Diệm. Hai biến cố đó, một (vụ ấp Bắc) đã làm cho dư luận Hoa kỳ công phẫn, một (vụ gia đình xung đột) đã làm cho nhân dân Việt nam khinh bỉ, đã đóng góp một phần nào vào sự sụp đổ của chế độ Diệm vào cuối năm 1963, khi cuộc đấu tranh hương đáng của Phật giáo bùng nổ làm rung chuyển quê.

Về phần tôi, Tết Quý Mão tôi ở Sài gòn cho nên mãi cả tháng sau tôi mới thâu lượm được đầy đủ tin tức về vụ Ngô Đình Cẩn bỏ kỵ cụ Ngô Đình Khả và sự tranh chấp trầm trọng trong gia đình ông Diệm tại Huế. Như những ai đã từng giao du với tôi đều biết tôi là kẻ thất học quê mùa, lại có tâm hồn bảo thủ tồn cổ, tin vào thuyết âm đức nhân quả, nên khi được tin gia đình nhà Ngô xung đột nặng nề giữa ngày kỵ cha, giữa ngày Nguyên Đán, tôi cảm thấy cái phúc vận và thời vận của nhà Ngô đã đến lúc suy tàn như trái cây đã chín mục chỉ chờ ngày rơi rụng. Tôi càng thương ông Diệm hơn dù ông có nhiều nhược điểm, và dù mưa gió phũ phàng mà anh em ông ta và cán bộ Cần lao liên tục đổ xuống đầu tôi.

Từ ngày ông Diệm cầm quyền đến nay suốt chín năm trời, mỗi lần gia đình có lễ lạt tại Huế là "triều thần văn võ" hầu như không thiếu một ai. Chỉ một mình Ngô Đình Thục khi còn ở Vĩnh Long mà Dân biểu, Tỉnh trưởng, Bộ trưởng nườm nượp kéo nhau đến chầu hầu Đức Cha như Ngô Đình Nhu đã nói, thì huống gì tại Huế, có sự hiện diện của toàn thể anh em ông Diệm. Cứ hỏi những sĩ quan trong Bộ tham mưu của Sư đoàn 13 (lúc Huỳnh Văn Cao chỉ huy) đang đóng ở Biên Hoà thì biết: bà cả Lễ, em Tổng thống Diệm chết mà Cao lái xe Jeep suốt cả đêm ra Huế để dâng vòng hoa thì đủ biết văn võ triều thần Cần lao công giáo muốn được anh em ông Diệm thấy mặt trong ngày Tết, ngày kỵ tại Phú Cam như thế nào.

Trong số sĩ quan cao cấp tại Sài gòn, chỉ có một số tướng lĩnh liêm sỉ như Dương Văn Minh, Phạm Xuân Chiểu, Nguyễn Ngọc Lễ v.v... là không bao giờ có mặt. Còn tôi thì chỉ tham dự một lần vào năm 1955 nhân dịp đám tang của ông Ngô Đình Khôi và năm 1958, khi ở Pháp về, có ra Huế thăm Ngô Đình Cẩn một lần. Từ đó tôi không bao giờ về Huế nữa cho mãi đến năm 1964, sau khi lật đổ chế độ Diệm, tôi mới trở lại thăm viếng Cố đô.

Trước kia, từ năm 1948 đến năm 1952, chỉ có một nhóm nhỏ anh em chúng tôi cứ vào mồng Ba Tết lại rủ nhau lên Phú Cam mừng tuổi Cụ Cố thân mẫu ông Diệm, qua nhà thờ làm lễ cầu hồn cho cụ Ngô Đình Khả, đến nghĩa trang thăm mộ, rồi về nhà Ngô Đình Cẩn tụ họp ăn cơm. Lúc bấy giờ, nhóm chúng tôi có mấy ai đâu quanh đi quẩn lại chỉ có linh mục Nguyễn Văn Thính, các ông Võ Như Nguyện, Nguyễn Đôn Duyến, Trần Văn Hướng, Huỳnh Hữu Hiền, và những sĩ quan như Phùng Ngọc Trưng, Nguyễn Vinh và tôi ngoại trừ linh mục Nguyễn Văn Thính anh em chúng tôi đều theo đạo Phật. Lúc bấy giờ, có ai dám đến nhà Ngô Đình Cẩn, em ruột Ngô Đình Diệm, để hội họp đâu vì họ đều sợ Thủ hiến Phan Văn Giáo để ý, sợ mật thám Tây theo dõi. Từ năm 1952 trở đi, ngày kỵ cụ Khả mới có thêm mấy ông Công giáo như Trương Văn Huế, Phạm Văn Nhu, Nguyễn Văn Đông, Tôn Thất Trạch, vì lúc bấy giờ Ngô Đình Nhu đã ra công khai hoạt động chính trị tại Sài gòn, và tên tuổi ông Diệm được nhắc nhở tại Hoa kỳ. Tuy vậy, suốt 7, 8 năm trời khi ông Diệm còn là kẻ lưu vong đợi thời, nào ai thấy bóng dáng của những Nguyễn Cao Thăng, Nguyễn Trân, Huỳnh Văn Cao, Nguyễn Đình Cẩn, Lê Trọng Quát, Hà Thúc Luyện, Hà Như Chi... dù họ ở ngay tại Huế và không bận rộn trong ba ngày tết. Nhưng một khi ông Diệm đã có quyền, đã có thế, đã có lợi đã có danh rồi thì tuần chay nào tại nhà Ngô Đình Cẩn họ cũng đều có mặt. Thớt có tanh tao, ruồi đến đậu, âu cũng là chuyện thường trong buổi loạn ly.

Tôi còn nhớ thời kỳ anh em ông Diệm bần bạch thất thế (1948 đến 1952) ngôi nhà Phú Cam sao mà ấm cúng lạ thường. Anh em chúng tôi chỉ có 7, 8 người thân mật, quây quần với nhau, bứa cơm cúng kỵ cũng đạm bạc, chưa có thịt quay đầy mâm, nem chả tràn đĩa và hoa chưa thắm, rượu chưa nồng mà như là đại yến mỹ vị với cao lương.

Trong những năm đó chúng tôi cũng chưa thấy mặt các ông Thục, Diệm, vợ chồng Ngô Đình Nhu dù lúc bấy giờ họ ở Sài gòn, Vĩnh Long hay Đà Lạt có thể dễ dàng về Huế quy tụ dưới mái ấm gia đình để chúc Tết mẹ già, để kỵ cha và đón mừng Xuân mới nơi ngôi nhà của phụ thân để lại như những người dân Việt ngàn đời khi làm ăn xa xôi, Tết nhất vẫn lo về với gia đình để thắp nhang nơi bàn thờ tiên tổ. Những sử gia hoài Ngô như Cao Văn Luận, Cao Thế Dung... viết sách suy tôn anh em nhà họ Ngô là đạo đức nho phong là thế gia vọng tộc thế mà cố tình giấu đi thái độ sống phản truyền thống dân tộc, phản phong hoá muôn đời của cha ông. Rõ ràng anh em ông Diệm đã quan niệm phải nên Vương bá, phải phú quý vẹn toàn, thì tết nhất, cúng kỵ họ mới chịu cùng nhau sum họp để biến ngôi nhà vắng lạng ngày xưa thành nơi đình đám rộn rịp tưng bừng. Cứ nhìn những tấm hình được đăng tải trên ác báo chí Âu Mỹ có đủ mặt anh em, bác cháu, rể dâu bận quốc phục chỉnh tề khăn áo lộng lẫy, quây quần chung quanh “Thái từ”, kẻ đứng vòng tay người quỳ trên thảm đỏ cũng đủ thấy câu nói “Phú quý sinh lễ nghĩa” của thánh hiền muôn đời không sai. Mà lễ nghĩa gì nếu không phải thứ lễ nghĩa mà giá trị chỉ nằm trên hình thức của những tấm áo nạm vàng và tấm thảm trải đỏ kênh kiệu.

Chín năm rồi, từ sau khi cựu hoàng Bảo Đại bị ông Ngô Đình Diệm truất phế, thành quách đền đài, núi Ngự, sông Hương đã lạt màu vương giả, nhưng cảnh vàng son, hoa gấm trong gia đình ông Diệm tại Phú Cam thì đang gây lại cái không khí triều đình vua chúa nơi Cố đô Tiếc thay, Xuân với Tết năm nay, bão tố cốt nhục đã thổi bay mất lớp bụi vương giả giả tạo đó để chỉ còn lại những tầm thường trơ trẽn của một gia đình, một gia đình đang đến hồi mạt vận.

Sau Tết năm đó, ông Diệm trở lại Sài gòn với rất nhiều tâm sự ngổn ngang. Cũng tháng Ba năm đó, tôi nhận được lời mời của Bộ quốc phòng Hoa kỳ thực hiện một chuyến viếng thăm các cơ sở an ninh và quốc phòng của họ.

Tôi còn nhớ năm 1960 phái bộ quân sự Hoa kỳ tại Việt nam đã từng mời tôi đi thăm trường tình báo lớn nhất của lực lượng Hoa kỳ tại Đông Á và Thái Bình Dương trên đảo Okinawa của Nhật Bản (nơi có sĩ quan Phòng Nhì và An ninh quân đội Việt nam thụ huấn), nhưng ông Diệm không cho tôi đi. Trái lại, năm 1961, trong khi tôi đang bận điều tra vụ “phản loạn Nhảy dù" thì ông Diệm lại cho tôi đi Đài Loan vì đối với ông Diệm, cứ nghe nói Đài Loan mời là ông vừa ý lắm. Năm đó, phái đoàn công du Đài Loan do tướng Nguyễn Khánh cầm đầu và chúng tôi đã có dịp viếng thăm xứ Đài Loan, kể cả hai đảo Kim Môn và Mã Tổ, để biết được nhiều tổ chức bí mật của quốc gia đồng minh thân thiết nhất. Ngoài ông Tưởng Kinh Quốc, chính phủ và tướng lĩnh Trung Hoa tiếp đãi hết sức nồng hậu, chúng tôi còn được Tưởng thống chế thiết đãi riêng tại tư dinh hết sức thân mật và trao đổi nhiều kinh nghiệm qua cuộc đời đấu tranh cam go gian khổ của Cụ.

Tôi cũng còn nhớ vào năm 1962, tôi lại được phái bộ quân sự Hoa kỳ tại Sài gòn mời đi thăm Hoa kỳ. Ông Colby, giám đốc CIA Đông Nam Á và Việt nam, người bạn Mỹ thân thiết vẫn thường giúp đỡ kỹ thuật và dụng cụ điều tra cho cơ quan của tôi, thường cùng tôi thảo luận về tình hình Việt nam, cũng khuyên tôi nên viếng thăm Hoa kỳ một chuyến nhưng ông Diệm cũng không cho đi, có lẽ vì vụ ném bom dinh Độc lập đã gây cho ông nhiều xúc động. Mãi đến tháng Ba năm nay, Bộ quốc phòng Mỹ lại mời nữa và tôi lại phải hết lời thuyết phục ông Diệm mới bằng lòng cho tôi đi. Tôi cầm đầu một phái đoàn gồm có trung tá Tôn Thất Hùng, Phụ tá trưởng phòng Nhì Bộ Tổng tham mưu, trung tá Nguyễn Văn Kính, Chánh sở Phản gián An ninh quân đội; hai thiếu tá Dương Văn Khuyến và Trần Như Ngọc, và đại uý Nguyễn Đình Nghi làm thông dịch viên (ba sĩ quan sau này hiện sống tại Hoa kỳ). Chúng tôi lên đường vào đầu tháng Tư và dự định viếng thăm Hoa kỳ trong vòng một tháng. Ra đi, tôi mang theo một số tranh sơn mài rất đẹp để tặng cho các đơn vị, các cơ sở quân đội Hoa kỳ, những nơi mà tôi sẽ đến thăm. Đó là những bức tranh mang hình ảnh quê hương: Cảnh chùa Thiên Mụ bên dòng sông Hương thơ mộng, cảnh chùa Non Nước đang sau sừng sững núi Hải Vân, cảnh bờ biển Nha Trang thấp thoáng Tháp Bà cổ kính, cảnh Đà Lạt, Hà Tiên, Vũng Tàu, cảnh Sài gòn một đêm giao thừa tại đền thờ Lê Văn Duyệt, cảnh ruộng đồng bát ngát với những kẻ chăn trâu thổi sáo thả diều... Lúc bấy giờ số quân nhân Mỹ sửa soạn qua miền Nam mỗi ngày một đông, tôi muốn mượn một số hình ảnh dịu hiền của quê hương để cho người Mỹ biết dân tộc tôi vốn hiền hoà thế mà bị xâm lăng tạo nên ly loạn, chết chóc. Tôi cũng muốn nhân dịp này cho người Mỹ biết dân tộc tôi vừa có văn hoá vừa có học thuật, tuy bốn ngàn năm lịch sử là bốn ngàn năm quân sử nhưng đất nước chỉ đẹp thêm và nhân dân chỉ yêu chuộng hoà bình thêm.

Tôi chỉ là một đại tá, chỉ huy một cơ quan không lấy gì là quan trọng, lại còn bị ông Cẩn, ông Nhu khinh bỉ, bị nhóm Cần lao thù ghét thế mà quân đội Hoa kỳ lại dành cho tôi một cuộc đón tiếp trang trọng và nhiều vinh dự. Có lẽ họ nghĩ rằng cơ quan An ninh quân đội Việt nam cũng có cùng một nhiệm vụ và quyền hạn quan trọng như cơ quan DIA (Defense Intelligence Agency) của Bộ quốc phòng Hoa kỳ.

Đến phi trường San Francisco, một vị tướng ra đón tôi và biệt phái cho tôi một thiếu tá bác sĩ quân y nói tiếng Pháp thành thạo để làm sĩ quan Tuỳ viên cho tôi suốt cả thời kỳ tôi ở Mỹ. Ngày hôm sau, tôi đến viếng Bộ tư lệnh miền Tây nước Mỹ và được vị tướng ba sao và Bộ tham mưu của ông ta thuyết trình về việc phòng thủ nước Mỹ phía Thái Bình Dương. Sau đó tôi đi thăm trường sinh ngữ Quân đội của Monterey, nơi rất đông sĩ quan Hoa kỳ đang thụ huấn khoá Việt ngữ cấp tốc để đợi ngày lên đường qua Việt nam. Nhiều sĩ quan Mỹ vui mừng khi họ diễn tả còn vụng về bằng tiếng Việt mà chúng tôi cũng hiểu được. Tất cả đều hân hoan vui sướng khi được chỉ định qua Việt nam. Một vài nam nữ giáo sư Việt nam mà tôi không nhớ tên đang dạy ở trường này cung tỏ vẻ cảm động vì không mấy khi họ gặp được một phái đoàn đồng hương đến thăm trường.

Hai ngày sau, tôi đến Washington mà việc đầu tiên là viếng Cụ Trần Văn Chương, Đại sứ Việt nam cộng hoà tại Hoa kỳ, là thân phụ bà Nhu, lại liên hệ chặt chẽ với chính quyền Hoa kỳ nên có lẽ Cụ đã hiểu rõ tình hình Việt nam, vì vậy Cụ chỉ tiếp tôi theo phép xã giao thường tình mà không trao đổi tin tức cũng như nhận định về tình hình đất nước.

Hôm sau phái đoàn đến Ngũ giác đài và được vị đại tướng chỉ huy trưởng ngành tình báo quân đội Hoa kỳ đại diện chính thức Bộ quốc phòng Mỹ đón tiếp. Nhân ghé Bộ quốc phòng, với tư cách riêng, tôi và trung tá Nguyễn Văn Châu, tuỳ viên quân sự Việt nam tại Mỹ, đến thăm tướng Lansdale. Lần đầu tiên tôi mới gặp nhân vật kỳ bí này, nhưng tôi biết chắc rằng ông đã nắm vững tiểu sử của tôi rồi. Tuy chưa gặp ông lần nào nhưng năm 1954, tôi gặp hai nhân viên của ông tại dinh Độc lập do bác sĩ Bùi Kiện Tín sắp đặt để tôi có dịp nói cho cơ quan CIA Mỹ tại Sài gòn biết rằng lực lượng quân đội của Phân khu Duyên hải quyết liệt chống đối người Pháp và tướng Hinh với bất cứ giá nào để ủng hộ Ngô Đình Diệm.

Đến thăm tướng Lansdale, tôi rất dè dặt vì ông là ân nhân của ông Diệm và vì ông là người đã tạo ông Diệm thành Tổng thống như tôi đã viết trước kia. Nhưng tôi đã được biết khi Lansdale từ giã Việt nam, ông đã ra đi với tất cả nỗi buồn tiếc lo âu vì dù đã khuyên ông Diệm không nghe, đã thế ông Diệm lại còn thiếu thuỷ chung với ông ta. (Nhà văn Pháp George Chaffard dựa vào tác phẩm best seller của David Wise và Thomas B. Ross nói về chế độ gia đình trị của ông Diệm cũng cho biết rằng vị tướng kỳ bí Edward G. Lansdale không phải ủng hộ ông Diệm vô điều kiện. Lansdale đã nhấn mạnh với Bộ ngoại giao Hoa kỳ là nếu chế độ Diệm không chịu cải tiến thì sẽ không tránh được một cuộc đảo chính). Vì thế, đến thăm tướng Lansdale tôi mang một tâm trạng bứt rứt vì tôi là cộng sự viên thân tín của ông Diệm mà chế độ ông Diệm lại là chế độ độc tài, tham nhũng, phản dân hại nước, trái với ý nguyện và chủ trương của Lansdale. Là một nhân vật nắm rất vững tình hình Việt nam lúc bấy giờ, nhất là sau vụ thảm hại ấp Bắc, nên Lansdale rất bi quan và không muốn nói chuyện nhiều về tình hình chính trị và quân sự Việt nam với một người tay chân của Tổng thống Diệm mà chỉ nói về phong cảnh và dân tình của Việt nam mà ông yêu mến. Ông khoe với tôi những sản phẩm tiểu công nghệ Việt nam mà ông treo khắp tường trong văn phòng của ông. Trước khi từ giã, tướng Lansdale nắm chặt tay tôi và nói một câu rất khó hiểu: "Dù ở xa nhưng khi bạn cần, tôi sẵn sàng giúp đỡ bạn vì nhân viên của tôi còn rất đông ở Sài gòn".

Tối hôm đó trung tá Nguyễn Văn Châu và tôi được ông bà Trần Văn Dĩnh, Đệ nhất Tham vụ Toà đại sứ Việt nam tại Washington mở tiệc thết đãi. Dĩnh là em ông Trần Văn Hướng một đồng chí của tôi, chính Dĩnh là người đã vận động tôi ủng hộ quân đội Nhật từ năm 1942 để đánh Pháp giành độc lập nên biết rõ cuộc đời và ý hướng của tôi. Dĩnh cho tôi là một cán bộ tài ba, can trường và trung kiên nhất của Tổng thống Diệm nên anh rất quý mến tôi. Dĩnh là một người thông minh, hoạt bát, am hiểu sâu rộng nhiều vấn đề quốc tế, và đã từng giữ chức vụ Tổng giám đốc Thông tin báo chí VNCH, nhưng sau đó vì chức Tổng lãnh sự tại Miến Điện cần thiết hơn nên Tổng thống Diệm cử anh đi Rangoon. Tối hôm thết tiệc tôi, những nhân vật Mỹ được anh mời hầu hết là những nhân vật tình báo cao cấp của Hoa kỳ tại thủ đô Washington, trong đó có cả ông bà Lansdale. Tôi nghĩ rằng hôm đó ông bạn Dĩnh của tôi đã "trừng phạt" tôi hơn là mời tôi dự tiệc vì một mình tôi phải đối đáp với hơn hai mươi cặp vợ chồng người Mỹ về vấn đề Việt nam mà tôi lại rất kém tiếng Anh.

Hôm sau, phái đoàn đi thăm một trường tình báo của Lục quân Hoa kỳ ở gần Baltimore, cách thủ đô Washington khoảng sáu mươi dặm. Ở đây có một số sĩ quan Mỹ từng phục vụ tại Nha An ninh quân đội và Phòng Nhì của Việt nam cộng hoà nên gặp tôi họ mừng rỡ như gặp lại bạn hiền. Trong buổi ăn trưa tuy long trọng nhưng đầy thân mật nhờ sự hiện diện của các bà vợ những sĩ quan huấn luyện viên của nhà trường vị tướng già Hoa kỳ cho biết những sĩ quan tình báo Hoa kỳ qua Việt nam phục vụ đã thu lượm rất nhiều kinh nghiệm, nhưng ông tiếc rằng tại sao Mỹ viện trợ cho VNCH rất nhiều trong chín năm trời vẫn chưa thắng được Cộng sản. Câu nói của ông làm cho tôi bẽ bàng vì câu trả lời thì tôi có mà lại không nói ra được.

Tối hôm đó về lại Washington, tôi và Châu lại phải đi dự buổi dạ yến, tại câu lại bộ tướng lĩnh. Tôi và Châu là sĩ quan cấp tá mà tối hôm đó lại bị lọt vào giữa một rừng sao và rừng huy chương của độ 40 tướng lĩnh Mỹ từ 2 đến 4 sao đủ mọi binh chủng mang binh phục đại lễ ngực đầy huy chương, dù đó chỉ là một buổi tiếp tân. Tối hôm đó tôi cũng đã phải vất vả trả lời nhiều câu hỏi hiểm hóc về tình hình chiến sự Việt nam, về tinh thần binh sĩ VNCH và về tình trạng đối phương. Tôi tự nghĩ nếu quân đội VNCH chiến thắng được Cộng sản thì đây là cơ hội tốt cho tôi vinh dự đem chuông đi đánh xứ người. Nhưng hơn ai hết, tôi biết quân đội Việt nam đang chiến bại, tình hình miền Nam đang suy sụp cho nên tôi phải nói quanh co, phải đem việc Cộng sản Bắc Việt được Nga và Tàu giúp đỡ ra để bào chữa cho cái yếu kém của quốc gia mình. Tôi phải nói "phe nào kéo dài trận chiến thêm 5 phút thì phe đó sẽ là kẻ chiến thắng cuối cùng", bắt chước câu nói của một danh nhân (hình như Thủ tướng Churchill) để kết thúc bữa tiệc trước khi ra về cho khỏi ngượng ngùng.

Thật là "hoạ vô đơn chí” vì ngày hôm sau, tôi đang nghỉ ngơi thì viên thiếu tá Mỹ sĩ quan tuỳ viên thông báo cho biết cuộc thăm viếng trường võ bị West Point phải bãi bỏ vì Bộ quốc phòng muốn tôi thuyết trình tại Ngũ giác đài về ấp chiến lược. Tôi lấy làm ngạc nhiên vì đề tài này vốn không được ghi trong chương trình sinh hoạt đã được liệt kê rất tỉ mỉ.

Chín giờ sáng hôm sau, phái đoàn được mời đến Ngũ giác đài trong một căn phòng bí mật, trang bị những dụng cụ ghi âm và phát hình tối tân, cửa hai lớp và bên ngoài có lính canh phòng cẩn mật. Một chiếc bàn dài dùng cho buổi họp mà một bên là phái đoàn Việt nam và bên kia là sáu nhân vật Mỹ mặc thường phục với những tập hồ sơ thật dày. Phòng rộng và đèn tắt hết chỉ chứa khoảng ánh sáng cho bàn họp của chúng tôi. Tôi tự nghĩ thầm "Việc gì mà họ tổ chức quá trang trọng, cẩn mật đến như thế này?" nên ra lệnh cho các sĩ quan trong phái đoàn không ai được phát biểu gì cả mà chỉ để một mình tôi đối đáp với họ. Một trong sáu nhân vật Mỹ cho tôi biết họ thuộc cơ quan tình báo khác nhau và họ chỉ muốn chất vấn tôi về một vấn đề độc nhất là "sự thành bại của ấp chiến lược tại miền Nam Việt nam". Tôi thật ngạc nhiên vì người Mỹ, nhất là Bộ quốc phòng, đã biết rõ tại Việt nam tôi không có liên hệ gì đến việc thực hiện chương trình ấp chiến lược cả. Họ cũng biết rằng chính ông Ngô Đình Nhu, người thực sự cầm quyền tại Việt nam, mới là người đích thân chỉ huy và điều khiển toàn bộ công cuộc thực hiện ấp chiến lược mà ông đã nâng lên hàng quốc sách. Họ cũng biết rằng chính phủ Mỹ, kể cả Tổng thống Kennedy, đã theo dõi thật sát kết quả của chương trình ấp chiến lược, vậy tại sao họ lại còn bày ra cuộc họp quan trọng và bí mật này để chất vấn tôi.

Dù sao tôi vẫn tỏ ra bình tĩnh vì tuy không có trách nhiệm gì trong chương trình ấp chiến lược nhưng tôi vẫn có theo dõi sự thực hiện của nó, từ những việc nặng hình thức như những bài tham luận đọc tại trại Nhân - Trí - Dũng ở suối Lồ ồ, nơi có trung tâm huấn luyện các cấp quân chính, kể cả bộ trưởng, tướng lĩnh..., về triết lý và chủ trương cửa ấp chiến lược cho đến những phúc trình an ninh của các cơ sở địa phương của nha tôi. Ngoài ra chính tôi cũng có đến thăm nhiều ấp chiến lược của nhiều nơi để trực tiếp đánh giá sự thành bại của nó. Tôi cũng biết rằng ông Nhu đã trao giải thưởng cho tỉnh Ninh Thuận làm tỉnh gương mẫu, cũng như tôi cũng biết rằng đã có nhiều ấp chiến lược bị Việt cộng tấn công như ấp O Lâm ở Long Xuyên, ấp Mê Láng ở Cầu Ngang, ấp Long Mỹ ở Chương Thiện... Tôi lại cũng biết rằng có một bà già ở gần Trung Lương (Mỹ Tho) đã tự tử để phản đối việc dời nhà cửa của bà cho công cuộc xây dựng ấp chiến lược ở vùng đó...

Trong một mục trước tôi đã nói rằng ấp chiến lược là một thất bại nặng nề ngay trong lòng dân chúng.

Nhưng tại đây, không lẽ tôi lại phê phán nặng nề việc thực hiện và sự thất bại của một kế hoạch mà chính Tổng thống Diệm cũng tự hào là một quốc sách có thể chiến thắng Việt cộng tại nông thôn, nhất là cũng nhờ vào việc xây dựng ấp chiến lược mà tôi đã dễ dàng xin nhiều viện trợ Mỹ. Do đó trong suốt ba tiếng đồng hồ thao thao bất tuyệt, tôi chỉ trình bày những sự việc tích cực và không đề cập gì đến những thất bại nặng nề của chương trình đó. Tôi đã nói thật nhưng không nói hết! Sau này khi về nước tôi mới biết rằng đã có những quan điểm mâu thuẫn về sự thành bại của chương trình ấp chiến lược của người Mỹ, đến nỗi làm cho Tổng thống Kennedy vốn tin tưởng vào chương trình ấp chiến lược này để thắng Việt cộng cũng phải nghi ngờ. Những nhân vật cao cấp Mỹ như Đại sứ Nolting, Đại tướng Harkins, hay ngay cả Bộ trưởng Quốc phòng Mắc Namara và Thứ trưởng Ngoại giao Hillsman đều ca ngợi sự thành công của chương trình ấp chiến lược. Vào đầu tháng 7 năm 1962, Bộ trưởng Quốc phòng Robert Mắc Namara tuyên bố với dân chúng Mỹ rằng ông tin tưởng viện trợ Mỹ bắt đầu tạo được sự cân bằng trong việc chống lại Cộng sản tại miền Nam, và hai tháng trước đó, ông Roger Hillsman, Thứ trưởng Ngoại giao Mỹ (người sau này quyết liệt lật đổ ông Diệm), trong một cuộc phỏng vấn phổ biến khắp nước Mỹ cho biết viện trợ Mỹ đã đem lại “một mềm tin mới” cho Nam Việt nam sau khi 2000 ấp chiến lược đã được thực hiện.

Trái lại chính Rufus Phillip, viên chức cao cấp Mỹ cố vấn cho chương trình ấp chiến lược tại Việt nam, lại báo động với Tổng thống Kennedy về sự thất bại hoàn toàn của chương trình ấp chiến lược. Thái độ của Phillip là một thái độ vô cùng can đảm vì dám đi ngược lại với khuynh hướng lạc quan của tất cả mọi người. Chính vì sự bất đồng ý kiến giữa các giới chức Hoa kỳ về kết quả của chương trình ấp chiến lược nên tôi đoán rằng các cơ quan tình báo Mỹ đã lợi dụng việc tôi có mặt tại thủ đô Washington như một nhân chứng sống nên mới có cuộc thuyết trình bất ngờ tại Ngũ giác đài, trước mặt sáu cơ quan tình báo, CIA, DIA, và đại diện của Bộ Ngoại giao...

Việc tôi ca ngợi chương trình ấp chiến lược tại Ngũ giác đài giữa năm 1968 phát xuất từ tình cảm muốn bênh vực Tổng thống Diệm và gây niềm tin nơi người Mỹ để giúp miền Nam chống Cộng, nhưng gần một năm sau, năm 1964, khi gặp các nhân vật Mỹ tại Sài gòn như Ngoại trưởng Dan Rusk, Đại tướng Taylor, Cố vấn Bundy, Giám đốc CIA Colby, tôi vẫn lấy làm ngượng ngùng vì e ngại họ khơi lại câu chuyện không đầy đủ của mình một năm trước đây.

Sau hơn một tuần lễ hội họp tiệc tùng mệt nhoài, trước khi từ giã thủ đô Washington tôi bèn lợi dụng hai ngày trống cuối cùng để thăm những thắng cảnh, những đền đài bia lăng, trụ sở Quốc hội, toà Bạch ốc và trầm tư dạo thuyền trên dòng sông Potomae để suy nghĩ về tướng Washington gần 200 năm trước đã vượt sông này và nhờ thực hiện chính sách đoàn kết mở đầu cho những chiến thắng lập quốc. Sau đó tôi bay về miền nam để thăm Sư đoàn Nhảy dù 82 tại Fort Bragg, thăm Fort Benning, căn cứ hải quân San Diego, thăm khu kỹ nghệ quốc phòng, nơi chế tạo máy bay X.20 Dynn-soar của chương trình TAV (Transa Atmospheric Vechicle) rồi mới trở lại San Francisco để đợi ngày về nước. Tại San Francisco tôi cho các sĩ quan trong phái đoàn về thẳng Sài gòn, riêng tôi và đại uý Nghị, viên sĩ quan thông dịch, đi Đài Loan. Trên lộ trình tôi định nghỉ ngơi ở Hông Kông ít ngày rồi đi Đài Loan thăm một số tướng lĩnh Trung Hoa quen thân với tôi như Đại tướng Vương Thăng vị chỉ huy toàn bộ ngành an ninh tình báo, mà cũng là một uỷ viên trung ương của quân uỷ- Trung hoa dân quốc Đảng từng đến thuyết trình chính trị tại Sài gòn.

Tôi ra đi vào đầu tháng tư Dương lịch vào kịp lễ Phục sinh và trở về Việt nam vào đầu tháng tư âm lịch vào dịp lễ Phật Đản, toàn là những ngày hội lớn của nhân loại. Không ngờ sáng mồng 8 tháng 5, cầm tờ Hồng Kông Post lên đọc, một bản tin ngắn làm cho tôi kinh hoàng "... Tại Huế, nơi giáo phận của Tổng giám mục Ngô Đình Thục, Tổng thống Diệm ra lệnh cấm Phật tử treo cờ nhân ngày Phật Đản của họ, dân chúng biểu tình phản đối, quân đội đàn áp làm nhiều người chết và bị thương...". Đọc xong, tôi gọi đại uý Nghị chỉ cho anh ta xem đoạn tin rồi nói với Nghị: “Thế này thì chế độ của Tổng thống Diệm sẽ sụp đổ không còn cách nào cứu vãn được nữa...”.

Tôi bèn bỏ dự định đi Đài Loan và ngay ngày hôm sau lên đường về nước. Về đến Sài gòn tôi vào trình diện Tổng thống ngay, nhưng tôi không còn nhận được nụ cười, lời hỏi han ngọt ngào êm dịu nơi vị thầy của tôi như những lần trước tôi đi xa về nữa. Tôi chỉ thấy những nét băn khoăn lo lắng hiện ra nơi khuôn mặt của Tổng thống Diệm như những chuyển động của cơn giông tố bão bùng đang đè nặng trên quê hương.