HUN SEN – Nhân vật xuất chúng của Campuchia

- 13 -

Bà con trong dòng họ và bạn bè của Hun Sen theo dõi các diễn biến chính trị nổ ra nhanh chóng của Hun Sen trong tâm trạng vừa nghi ngờ, sứng sốt lẫn khâm phục. Ở nơi khác, dòng họ Norodom và Khơme Đỏ từng một thời đầy quyền lực vẫn còn đang nuối tiếc quyền hành đã vuột khỏi tầm tay, họ đang bị sốc và đầy bối rối. Một chàng trai nông dân với vốn học thức chẳng cao siêu lắm đang nổi lên như một nhà lãnh đạo có thế lực nhất vào thời hậu độc lập Campuchia. Ông đang hồi tưởng lại mối tương quan quyền lực và xóa đi những ký ức đau buồn về sự cai trị độc đoán của Sihanouk, đã vướng phải các sai lầm về mặt chính sách đối ngoại có ảnh hưởng sâu rộng vào thập niên 1970, điều đó đã dẫn tới cuộc dội bom của không quân Mỹ lên Campuchia và sự tàn sát hàng loạt tiếp theo.

Con đường đi lên sự nghiệp chính trị của ông đã bắt đầu từ lâu, trước khi trở thành Bộ trưởng Ngoại giao ở tuổi 27. Vị thế chính trị của ông là một sáng lập viên Mặt trận Thống nhất được thành lập vào ngày 2 tháng 12 năm 1978.

Ông nói “ Trước khi mặt trận này ra đời, tôi đã là một người lãnh đạo phong trào kháng chiến ở phía đông sông Mê kông suốt từ đó đến khi tôi đập tan bè lõ Pol Pot. Tôi là một cán bộ chỉ huy quân đội và một người lãnh đạo chính trị có nhiệm vụ xây dựng cả lực lượng quân sự lẫn chính trị”.

Nhưng ông đã bất đắc dĩ bước vào đời sống hoạt động chính trị thực sự. Khi các thành viên cao cấp nhất của Hội đồng Cách mạng Nhân dân Campuchia – được thành lập ở Phnom Penh sau khi chế độ Khơme Đỏ bị lật đổ - đã yêu cầu ông lên làm Bộ trưởng Ngoại giao, ông đã từ chối nhận chức vụ này. Ông biết các mặt giới hạn của  mình và ý thức được điều đó vượt quá năng lực của ông. Tuy nhiên, khi các nhà lãnh đạo cao cấp thuyết phục ông xem xét lại, ông đã miễn cưỡng chấp nhận và được bổ nhiệm là Bộ trưởng Bộ Ngoại giao vào ngày 7 tháng 1 năm 1979.

Hun Sen kể “ Tôi đã đồng ý nhận chức vụ ấy để thử làm trong ba tháng, vì tôi chưa bao giờ được đào tạo về công việc này. Tôi được trả lương hàng tháng là 16 ký ngũ cốc, trong đó 10 ký gạo và 6 ký là bắp “.

Ngày một ngày hai, cuộc cách mạng đã trở thành một thành phần của tổ chức chính quyền. Theo lời ông, các trách nhiệm mới đi cùng với chức vụ Bộ trưởng phải cáng đáng đã hết sức bề bộn.

Ông kể “ Tôi phải đối diện với các trở ngại về việc am hiểu và nắm bắt các vấn đề phức tạp vốn liên quan đến các sự vụ quốc tế, vì tôi không có chuyên gia. Nhưng học dần rồi tôi cũng biết cách giải quyết các vấn đề phức tạp này. Đó là lý do tại sao ban đầu tôi đã từ chối lên giữ chức Bộ trưởng Ngoại giao và thử đảm nhiệm chức vụ này trong thời gian thử thách ba tháng. May mắn cho tôi là một vài nhà lãnh đạo Campuchia có kinh nghiệm và kiến thức về công việc ngoại giao, đã luôn luôn giúp tôi. Tôi cũng cố gắng quyết tâm học hỏi, nghiên cứu các công việc liên quan đến thế giới”.

Hun Sen đã xuất hiện lần đầu tiên trước thế giới tại một cuộc họp cấp Bộ trưởng của các nước phi liên kết ở Colombo, Srilanka vào tháng 6 năm 1979. Ông đã nhân nhiệm vụ mới của mình bằng sự tự tin.

Ông nói thêm “ Giống như Campuchia, Srilanka cũng là một nơi diễn ra cuộc chiến khốc liệt. Vào thời điểm đó, chúng tôi vẫn có chân tại cuộc họp của các nước phi liên kết “.

Trên đường tới Srilanka, ông bay tới hai quốc gia là các liên minh vững chắc của Campuchia để tranh thủ được thiện chí và sự ủng hộ của họ - nước đầu tiên là Việt Nam và sau đó là Liên Xô. Tại cuộc họp ở Srilanka, Campuchia không có các mối quan hệ ngoại giao với Ấn Độ, một nước lớn ở Nam Á, ông Morarji Desai, Thủ tướng của nước này đã từ chối công nhận chính phủ Phnom Penh, trừ khi Việt Nam rút các lực lượng của họ ra khỏi Campuchia.

Hun Sen nói “ Mặc dù chúng tôi không có các mối quan hệ ngoại giao, nhưng Ấn Độ không phản đối sự hiện diện của chúng tôi. Sau khi bà Indira Gandhi lên cầm quyền vào năm 1980, cuối cùng Ấn Độ đã công nhận Campuchia và tiến đến các mối quan hệ ngoại giao “.

Chính phủ của ông Morarji bất ngờ  ngả sang ủng hộ Campuchia tại Liên Hiệp Quốc vào tháng 11 năm 1979, Ấn Độ đề xuất một hội nghị trù bị về Campuchia sẽ có sự tham dự của ASEAN và các nước Đông Dương, đồng thời các cường quốc bên ngoài phải tránh tối đa không được can thiệp vào. Các nước ASEAN đã không ủng hộ đề nghị này, vì một diễn đàn nhỏ hơn có thể dễ dàng bị Hà Nội đạo diễn để có được lợi thế.

Ấn Độ là một nước bài quan trọng của Campuchia. Họ là nước không cộng sản duy nhất chịu ủng hộ chính phủ Phnom Penh không liên hiệp. Nhưng các niềm hy vọng của Campuchia đã bị đổ vỡ khi tân Thủ tướng Ấn Độ, bà Indira Gandhi dứt khoát từ chối lời đề nghị của Thủ tướng Phạm Văn Đồng với Ấn Độ cho nới rộng sự thừa nhận ngoại giao với chính phủ Phnom Penh. Sự từ chối bất đắc dĩ của bà Gandhi nảy sinh từ mối quan ngại là bà sẽ bị xem là chịu áp lực của Thủ tướng Việt Nam phải công nhận Campuchia. Tuy nhiên, ông Đồng đã tìm cách tranh thủ được một sự nhượng bộ quan trọng trong cuộc viếng thăm của ông tới New Delhi vào tháng 4 năm 1980 – bà Gandhi đã bỏ điều kiện tiên quyết trước đây của vị tiền nhiệm của mình, ông Morarji, người đã đòi hỏi Việt Nam phải rút quân trước khi Ấn Độ công nhận chính phủ Phnom Penh.

Chỉ ba tháng sau chuyến viếng thăm Ấn Độ của ông Đồng, Ấn Độ đã thiết lập các quan hệ ngoại giao với Campuchia vào tháng 7 năm 1980. Bộ trưởng ngoại giao Ấn Độ, ông Narasimha Rao cho biết Campuchia cần tất cả sự trợ giúp có thể từ cộng đồng quốc tế sau “ các thử thách ghê gớm”. Lời tuyên bố ấy đã không gây ra sự bất ngờ nào cho chính phủ của bà Gandhi mà ban đầu bà đã đưa ra sự bảo đảm là sẽ công nhận các nhà lãnh đạo mới của Phnom Penh.

Sự thắng lợi có ý nghĩa nhất của tân chính phủ Campuchia là giành được sự công nhận ngoại giao từ Ấn Độ, một nước không cộng sản đầu tiên phá vỡ thế cô lập mà phương Tây và các nước châu Á không cộng sản đã bủa vây Phnom Penh. Chính phủ Ấn Độ đã bớt gay gắt sau khi Việt Nam và Liên Xô, một liên minh thân cận của Việt Nam gây sức ép với họ.

Khi chiến dịch của Campuchia chinh phục bè bạn hợp sức chống lại các rào cản ở các nước Đông Nam Á và khắp nơi ở phương Tây, Hun Sen đã bắt đầu khai thông được các mối quan hệ ngoại giao. Theo bản tin hằng ngày của cơ quan thông tấn Campuchia, tờ Sarpordamean Kampuchea ra ngày 14 tháng 6 năm 1979, ông đã tổ chức các cuộc thảo luận với các quan chức SriLanka trong chuyến viếng thăm đầu tiên tới nước này. Ở đó, ông đã gặp các quan chức từ Việt Nam, Lào, Cuba và một vài nước phi liên kết, đa số họ đã đưa ra sự công kích phê phán kịch liệt chế độ Khơme Đỏ.

Đang có hứng thú, ông nói với các phóng viên của tờ Far Eastern Economic Review, một tờ báo chính thức của Campuchia và ký giả của nhiều nước. Ông đã thuật lại với họ về câu chuyện giải phóng Campuchia, một cuộc đấu tranh kéo dài và sự lật đổ bè lũ Pol Pot. Bằng ngôn ngữ nhiều màu sắc, ông lên án Pol Pot và Ieng Sary là “ những kẻ nô lệ của hoàng đế Trung Quốc, đã xâm lấn và giết hơn ba triệu người dân Campuchia, đã tra tấn và trừng phạt bốn triệu người khác hiện còn sống sót trong chế độ diệt chủng. Sau khi kể tóm tắt, Hun Sen đã cho các nhà báo xem phim tài liệu về các tội ác của Khơme Đỏ.

Ở nhà, là cuộc sống của một gia đình còn đang ở độ tuổi trẻ trung, lần đầu thực sự được bước vào thời kỳ gần gũi thắm thiết. Tuy nhiên, vợ ông vẫn còn băn khoăn về công việc mới của chồng là một Bộ trưởng Ngoại giao.

Ông kể “ Vợ tôi không vui vì cô ấy không muốn tôi tham gia hoạt động chính trị. Cô ấy đã thuyết phục tôi từ bỏ chức vụ đó và về quê làm nông dân. Lúc ấy, tôi không đồng ý với cô, vì tôi đang làm việc cho dân tộc. Nhưng cô ấy đã chán ngán với những nỗi đau khổ “.

Một gia đình đoàn tụ được giao cho một ngôi nhà đối diện với Đài Kỷ niệm Độc lập ở Phnom Penh và họ nhanh chóng ổn định cuộc sống ở đó.

Ông nói “ Vào thời gian đó, không có dinh thự cho Bộ trưởng Ngoại giao, nhưng cũng có rất nhiều ngôi nhà để trống ở Phnom Penh – mọi người đều có thể chọn một ngôi nhà. Tôi có thể có được 300 ngôi nhà nếu muốn “.

Lối sống bên ngoài của ông chẳng thay đổi là bao. Ông đã nhận được chút ít tiền lương của Quốc hội và sống mãi ở căn nhà ấy trong nhiều năm. Sau này vào thập niên 1990, khi giới báo chí Campuchia hoạt động mạnh trở lại, họ tiếp tục công kích, trong số những điều mà chính phủ của Nhà nước Campuchia bị chỉ trích có vấn đề chiếm ngụ bất hợp pháp nhà cửa và đất đai thuộc sở hữu của người khác. Hun Sen đã giải thích vấn đề đó thuộc các khiếu nại về tài sản bị chồng chéo về sở hữu do chế độ Pol Pot để lại và đã gây ra sự đụng chạm trong cấu trúc của xã hội.

Ông nói “ Sau khi giải phóng vào ngày 7 tháng 1 năm 1979, Phnom Penh là một thành phố ma không có người. Nhiều chủ nhà đã thiệt mạng. Không có ai có giấy tờ chứng nhận quyền sở hữu nhà của họ. Khi dân trở về thành phố, họ đã chọn các ngôi nhà tọa lạc ở gần nơi làm việc của họ để sống. Khi người dân được giải phóng trở về, từng người một đã được tái định cư. Quá trình này dẫn tới một tình hình không thể đảo ngược, đã buộc chúng tôi phải thực hiện theo nguyên tắc không xét lại điạ giới giống như các quốc gia châu Phi sau khi giành lại được sự độc lập từ tay thực dân. Nếu quyền sở hữu được xét lại, sẽ dẫn đến sự xung đột nguy hiểm giữa người mới đến và những người chủ nhà đã ở đó trước, sẽ gây ra một tình trạng dân chúng phải tản cư khắp nước “.

Nhiệm vụ của ông chưa bao giờ dễ dàng. Đất nước của ông không được Ngân hàng Thế giới thông qua các khoản vay với những nguyên tắc hết sức cứng rắn. Campuchia đã bị bao vây bởi lệnh cấm vận kinh tế do hầu hết các nước không cộng sản thúc ép, họ muốn trừng phạt chính phủ Heng Samrin, vì được Việt Nam hậu thuẫn. Đối thủ lớn nhất của thế giới không cộng sản là nước Cộng sản Việt Nam, một quốc gia đã đánh bại quân Pháp và Mỹ. Khi Hun Sen thấy không thể kiểm soát được các khoản tín dụng quốc tế, chính phủ ông đã trở nên phụ thuộc hoàn toàn vào Liên Xô, Cuba, Việt Nam và Ấn Độ ở mức nào đó.

Hun Sen nói “ Lúc đó vào thời kỳ Chiến tranh Lạnh, cuộc chiến tranh ý thức hệ và cuộc đấu tranh giữa hai khối, phương Tây và phương Đông. Phương Tây đã áp đặt lệnh trừng phạt bất công lên chúng tôi, trong khi các nước Xã hội chủ nghĩa mở rộng vòng tay giúp chúng tôi về kinh tế và quân sự để ngăn chặn chế độ Pol Pot quay trở lại “.

Sự cố gắng để gia nhập Liên Hiệp Quốc giống như nói chuyện với bức tường bằng đá.

Ông nói “ Chúng tôi đã thực hiện mọi nỗ lực để yêu cầu Liên Hiệp Quốc đem lại công lý cho người dân Campuchia còn sống sót trong chế độ diệt chủng. Trái lại, do áp lực thúc ép của một số nước đại diện của Pol Pot đã giành mất ghế của Campuchia tại Liên Hiệp Quốc”.

Thảm kịch hóa ra thành trò hề. Để trừng phạt Việt Nam, phương Tây và các nước châu Á không cộng sản đã trừng trị Campuchia mạnh tay, vì nước này được Việt Nam hậu thuẫn. Trong quá trình thực hiên, các nước này cho rằng về phương diện đạo lý có thể chấp thuận một chế độ diệt chủng để họ sưởi ấm chiếc ghế của Campuchia tại Liên Hiệp Quốc với danh nghĩa là Campuchia Dân chủ, một tên gọi chính thức của Khơme Đỏ.

Ở trong nước, cốt lõi mục nát của nền kinh tế mà Khơme Đỏ để lại đã gây cho dân tộc này rơi vào tình thế dễ gặp phải khốn đốn. Vào đầu tháng 3 năm 1979, để sóng, những người ở Phnom Penh đã buộc phải ăn rễ cây, trái cây dại và lá cây. Hàng triệu héc ta ruộng lúa đã tạm thời bị bỏ hoang do chiến tranh. Không có nước uống, dịch vụ điện thoại, bưu điện, vận chuyển, chợ búa và không tiền. Để xoa dịu tình hình, thỉnh thoảng chính phủ mới đã phân phát gạo và bột  mì. Chỉ trong tháng 8, tin tức đó đã lọt ra ngoài cho biết chính phủ Heng Samrin đang chuẩn bị khôi phục lại việc sử dụng tiền và xây dựng nền kinh tế trao đổi bằng tiền mặt vào trước cuối năm. Các mối liên lạc đã bị cắt đứt. Campuchia đã không thể với tới được kế hoạch của mình.

Ngay sau khi Hun Sen trở thành Bộ trưởng Ngoại giao, tờ báo đầu tiên kể từ năm 1975 của Campuchia đã ra mắt. Một tờ báo quốc doanh có 8 trang, thì 4 trang chứa đầy hình ảnh, 4 trang còn lại với các bài viết về các đường lối chính sách của chính phủ mới. Một tháng sau đó, chính các đường lối này đã trở nên rõ ràng, khi Chủ tịch Heng Samrin phát biểu tại một cuộc họp phỏng vấn cho biết các nhiệm vụ trước mắt của ông là cung cấp các nhu cầu cơ bản của dân và quét sạch các tàn dư của chế độ Khơme Đỏ. Cuộc phỏng vấn ấy đã được chính phủ cho đăng trùng với cuộc viếng thăm Phnom Penh của Thủ tướng Phạm Văn Đồng, ông đã trở thành người đứng đầu chính phủ lần đầu tiên đến quốc gia này họp với các nhà lãnh đạo của Campuchia để bày tỏ tinh thần đoàn kết chung. Nhưng Heng Samrin có các mối bận tâm khác. Các nhiệm vụ trước mắt của ông là cung cấp thực phẩm, nhà ở, quần áo và các dịch vụ y tế cho hàng triệu người dân đã phải bỏ nhà cửa ra đi nay trở về nhà của họ sau khi chế độ diệt chủng bị lật đổ.

Dấu hiệu lần đầu tiên cho thấy Sihanouk quyết tâm theo đường lối đấu tranh để quay lại nắm quyền đã trở nên rõ ràng vào tháng 7 năm 1979, khi vị hoàng thân không còn quyền bính này tuyên bố ở Paris là ông muốn dựng lên một chính phủ Campuchia lưu vong ngang tầm. Chính phủ Phnom Penh đã gắn cho liên minh câu kết của Sihanouk với Khơme Đỏ và Son Sann là một mặt trận được chỉ đạo bởi “ một con rối – không hơn, không kém “.

Hun Sen đã không quên Sihanouk được coi như một kẻ bù nhìn đứng đầu chế độ Pol Pot trong một thời gian ngắn và Sihanouk đã đánh ván bài quyết định để phát huy  lực lượng Khơme Đỏ. Khi ấy là một nhân vật có lập trường dứt khoát, Hun Sen đã từ chối bất cứ ý kiến nào yêu cầu đối thoại với Sihanouk hoặc Son Sann, hai nhà lãnh đạo lưu vong, đang chuẩn bị thành lập liên minh với Khơme Đỏ.

Vào giai đoạn này, Hun Sen đã trở thành một diễn giả đầy sức thuyết phục và trôi chảy về chính sách đối ngoại của Campuchia. Sự tiến bộ nhanh chóng của ông đã được các thủ lĩnh chính trị của mình, Heng Samrin, Pen Sovann và Chea Sim nhìn nhận. Vào năm 1981, ông đã được trao cho chức phó Thủ tướng, ngoài vai trò là Bộ trưởng Ngoại giao. Một Hun Sen tự tin hơn đã bắt đầu đi xa thêm ra bên ngoài, một nơi mà sau này đã trở thành thành phố ưa thích của ông, New Delhi. Cùng với các nhà lãnh đạo chính trị Ấn Độ và các quan chức của Bộ ngoại giao, ông cảm thấy các mối quan hệ hữu nghị hết sức dễ chịu. Trong chuyến viếng thăm New Delhi sáu ngày vào tháng 8 năm 1981, ông đã trình bày công khai kế hoạch hai giai đoạn để giải quyết các vấn đề Campuchia tại một hội nghị khu vực trong số ba nước Đông Dương và các nước ASEAN, và sau đó tại một hội nghị quốc tế bao gồm các cường quốc lớn, đặc biệt là Mỹ và Trung Quốc.

Một tháng sau đó, Sihanouk đã bay sang Singapore, nơi ông gặp Son Sann và Khieu Samphan tại cuộc họp chính thức đầu tiên để dựng lên lực lượng thống nhất chống lại chính phủ Phnom Penh và những người hậu thuẫn Việt Nam.  Phnom Penh  đã coi cuộc họp này “ chỉ là một kịch bản do Bắc Kinh và Washington dàn dựng”. Họ nói thêm “ là sự mặc cả giữa ông Son Sann, ông Sihanouk và ông Khieu Samphan, những kẻ phản bội nhân dân Campuchia sẽ chẳng đi đến được giá trị gì, vì họ chỉ nhắm đến các quyền lợi của riêng họ “.

Hun Sen nhanh chóng trở thành gương mặt và tiếng nói chung của chính phủ Phnom Penh và giữ vai trò chủ đạo phản đối lại tổ chức tuyên truyền của Sihanouk. Vào thời điểm đó, người Bộ trường trẻ nhất trên thế giới ấy không hề hay biết chút gì về chuyện mình sắp trở thành vị Thủ tướng trẻ nhất trên thế giới.

ĐẠT TỚI ĐỈNH CAO NHẤT VÀO NĂM BA MƯƠI BA TUỔI

Cái chết của Thủ tướng Chan Si đã cho thấy rõ con đường Hun Sen sẽ thay thế chức vụ của ông ta. Con đường dốc leo lên đỉnh cao trong Đảng Cộng Sản nhanh chóng đã gây ấn tượng hết sức ngạc nhiên, vào tháng 1 năm 1985, ông đã được bầu làm Thủ tướng, hai tuần sau khi Chan Si chết do cơn đau tim và chỉ sau 6 năm ông làm Bộ trưởng Bộ ngoại giao.

Tân Thủ tướng chỉ mới 33 tuổi và được xếp vào vị trí thứ năm trong Bộ chính trị bảy thành viên của Đảng Cách Mạng Nhân dân Campuchia (KPRP) đang cầm quyền. Một cựu binh du kích tương đối ít kinh nghiệm chính trường đã được nhất trí bầu làm Thủ tướng tại một phiên họp toàn thể của Quốc hội. Ông mô tả con đường đi lên của ông đã đạt tới vị trí tột bậc hợp lý trong các vai trò lãnh đạo, như đã từng là một chiến sĩ du kích, một cán bộ chỉ huy và sau đó là một người tổ chức Mặt trận Thống nhất.

Ông nói “ Các anh trong vai trò lãnh đạo Đảng đã tin tưởng tôi ở cương vị Thủ tướng khi Thủ tướng Chan Si qua đời vào cuối năm 1984”.

Con đường đi lên của ông khó có thể tưởng tượng được nếu không thấy được sự hỗ trợ của một loạt các cựu lãnh đạo Đảng, chẳng hạn như Heng Samrin, Chea Sim, Say Phuthang, Chea Soth, Bou Thang, Tea Banh, Sai Chhum và Sar Kheng, cũng như một nhóm mà Hun Sen gọi là các nhà trí thức “lão thành” như Hor Nam Hong, Chem Snguon, Phlek Phirun và My Samedi, cùng với một nhóm chính trị ông gọi là “ những người trí thức trẻ “.

Ông đã đạt hai kỷ lục: một đối với thế giới và một đối với Campuchia. Ở tuổi 33, ông đã trở thành Thủ tướng trẻ nhất thế giới vào thời điểm đó, giành được tất cả số phiếu bầu trong một cuộc bỏ phiếu kín tại Quốc hội vào đầu năm 1985.

Ông nói “ Đó là trường hợp duy nhất trong lịch sử Campuchia, khi một nhà lãnh đạo Campuchia chiếm được 100% số phiếu bầu trong cuộc bỏ phiếu kín ở Quốc hội. Điều này chưa bao giờ xảy ra ngay cả trong trường hợp các (cựu) Thủ tướng Pen Sovann và Chansi, những người tiền nhiệm của tôi, họ đã mất một số phiếu tín nhiệm “.

Hun Sen đã nhắc đến một số phiếu bầu Pen Sovann làm Thủ tướng vào tháng 7 năm 1981 và Chan Si vào năm kế tiếp. Pen Sovann, một người thân Hà Nội đã bị cách chức sau khi ở cương vị Tổng Bí thư đảng cầm quyền. Vào các thời điểm khác, ông đã làm Phó Chủ tịch nước, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng và Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng. Người ta tin ông là nạn nhân của một sự bất đồng quan điểm cá nhân với Heng Samrin theo sau các khác biệt ý thức hệ sâu xa.

Pen Sovann đã là một đảng viên tích cực của KPRP, một bộ phận của Đảng Cộng sản Đông Dương (ICP) vốn giữ vai trò quan trọng chống lại sự thống trị của thực dân Pháp và sự chiếm đóng của Nhật ở Campuchia. KPRP được thành lập vào năm 1951 sau khi ICP bị giải tán và tái tổ chức thành ba Đảng Cộng sản, ĐCS Việt Nam, ĐCS Lào và ĐCS Campuchia. Vào năm 1962, ĐCS ở Campuchia tách đôi thành phe thân Trung Quốc và phe thân Liên Xô. Pol Pot lãnh đạo nhóm thân Trung Quốc chống Liên Xô kịch liệt. Vào tháng 1 năm 1979, sự phân chia đã trở thành vĩnh viễn khi phe thân Liên Xô và thân Việt Nam dưới quyền Sovann đã thay thế Pol Pot giữ vai trò lãnh đạo ở Phnom Penh. Pen Sovann đã được bầu làm Bí thư thứ nhất của Ủy ban Trung ương Đảng KPRP có 65 thành viên chính thức.

Pen Sovann đã bỏ đảng của nhóm cộng sản theo Pol Pot, những người mà ông đã tố cáo là những kẻ phản bội, tại đại hội lần thứ tư của Đảng KPRP diễn ra từ ngày 26 đến 29 tháng 5 năm 1981. Đại hội này đã tập trung loại bỏ hoàn toàn “ học thuyết chủ nghĩa dân tộc cực đoan phản động” của Pol Pot, xóa bỏ tư tưởng sùng bái cá nhân và phát triển đảng theo chủ nghĩa Mác – Lê nin.

Khi Heng Samrin bất ngờ thay thế Pen Sovann lãnh đạo đảng vào ngày 4 tháng 12 năm 1981, thái độ thân Việt Nam của Đảng KPRP thậm chí đã trở thành rõ rệt hơn. Pen Sovann đã bị khai trừ ra khỏi đảng, ông bị bắt giam vào tháng 12 và gần như từ đó ông ngừng tham gia vào chính trường trong vòng 10 năm.

Pen Sovann nói “ Hun Sen và Say Phuthang (đồng chí cao cấp trong Đảng cộng sản) phải chịu trách nhiệm về việc bắt giam tôi”.

Ở Phnom Penh, Quốc hội đã bầu Chan Si làm Thủ tướng vào đầu năm 1982. Vào thời điểm đó, Hun Sen đang viếng thăm Pháp với tư cách là Bộ trưởng Bộ Ngoại giao. Cùng năm đó, ông còn đi Liên Xô và nghỉ hè ở vùng Biển Đen.

Năm 1992, Pen Sovann quay lại chính trường và xin vào Đảng Nhân dân Campuchia (CPP), đảng chuyển tiếp từ Đảng KPRP, nhưng không được chấp nhận vì người ta không tin tưởng ông. Ông đã nhiều lần yêu cầu vào đảng này nhưng đều đã bị từ chối. Cuối cùng vào năm 1994, ông được bổ nhiệm vào làm cố vấn cho một chi bộ đảng của CPP ở Takeo. Nhưng Đảng CPP đã bắt đầu nghi ngờ sự trung thành của ông, khi có tin đồn ông có thể gia nhập Đảng Dân tộc Khơme do một giám đốc điều hành công ty được Pháp đào tạo thành lập vào năm sau, người này có tên là Sam Rainy, con trai của Sam Sary, một quan chức cao cấp trong chính phủ Sihanouk vào thập niên 1960. Do đó Pen Sovann đã mất chức. Ông viện cớ là Hun Sen đã đe dọa tịch thu xe và nhà của ông ở Takeo. Sau đó, ông đã nhiều lần yêu cầu Đảng CPP cho ông gia nhập đảng trở lại.

Ông ta nói “ Tôi đã khẩn khoản xin vào Đảng (CPP) bằng cách một năm viết một hoặc hai lá đơn gửi cho Hun Sen và Chea Sim. Gần đây tôi đã hỏi Chea Sim xem tôi có thể phục vụ Đảng CPP được không?”.

Pen Sovann không còn hy vọng nên đã quay sang Đảng Funcinpec của Ranariddh, khi ấy ông mới biết là mình bị từ chối vì các khuynh hướng Mác – Lênin trước đây của ông. Ông vẫn ở ngoài lề đời sống chính trị của Phnom Penh, vẫn nuôi các hy vọng mong manh về việc bắt đầu thành lập một đảng riêng.

Sau cuộc vắng mặt của Pen Sovann, tân Thủ tướng Chan  Si đã không kéo dài chức vụ của mình được bao lâu. Cái chết của ông vào tháng 10 năm 1984, đã mở đường cho một cuộc bầu cử khác. Với hai đảng viên tích cực này không còn nữa, Heng Samrin, đảng viên tích cực thứ ba đã trở thành người lãnh đạo Đảng. Sự vượt lên bất ngờ của Hun Sen, một người bạn và liên minh đã có từ lậu của Heng Samrin, cả hai đều có khả năng và đáng tin cậy. Vào thời điểm Chan Si chết, Hun Sen ở Hà Nội, nơi ông đang báo cáo với các quan chức Việt Nam về các vấn đề của Campuchia. Không bao lâu sau, Hun Sen được tổ chức lãnh đạo Đảng bổ nhiệm làm quyền Thủ tướng ở Phnom Penh. Vai trò Thủ tướng đã nằm trong tầm tay.

Đảng chỉ đề cử một ứng cử viên, Hun Sen, trong cuộc bỏ phiếu kín để bầu Thủ tướng mới. Năm nhà lãnh đạo cao nhất đã xem xét chặt chẽ và đưa vào danh sách sơ tuyển các ứng cử viên cho chức Thủ tướng là Heng Samrin, Chea Sim, Say Phuthang, Chea Soth và Bou Thang. Tất cả họ đều là người đỡ đầu của Hun Sen. Không có sự ủng hộ của các đảng viên lão thành này, ông ta sẽ không có tương lai. Không có người nào trong số năm người này là ứng cử viên cho chức Thủ tướng, vì họ đã giữ các chức vụ cao nhất trong Đảng và Nhà nước. Heng Samrin là Chủ tịch nước; Chea Sim là Chủ tịch Quốc hội; Chea Soth và Bou Thang là các phó Thủ tướng phụ trách kinh tế và quốc phòng; còn Say Phuthang là thành viên chủ chốt của Bộ Chính trị.

Trong khi trong Đảng cộng sản, Say Phuthang đề cử tên Hun Sen, trong Quốc hội, Heng Samrin cũng làm như vậy, còn Chea Sim giám sát cuộc bỏ phiếu.

Hun Sen nói “ Mặc dù tôi không ham chức vụ quan trọng nhất, nhưng tôi đã nhận, vì họ đã đặt sự tin tưởng vào tôi”.

Làm sao một người còn quá trẻ và thiếu kinh nghiệm chiếm được sự tin tưởng của các nhà lãnh đạo Campuchia mà dường như họ sẵn sàng chấp nhận liều lĩnh bằng cách đề cử ông làm Thủ tướng?

Ông nói “ Họ đã đặt nhiều niềm tin vào tôi. Vào lúc ấy, trong số các thành viên của chính phủ và của Đảng, tôi là người trẻ nhất. Họ biết các khả năng mà tôi đã chứng tỏ khi là Bộ trưởng Bộ Ngoại giao”.

Bộ trưởng ngoại giao chưa có kinh nghiệm đã biết Đảng KPRP là một ngôi nhà được xây trên cát, một thực thể yếu kém và loạng choạng với một vài đảng bộ, và số đảng viên không hơn 1.000 người. Tỉnh lớn nhất, Kompong Cham chỉ có 30 đảng viên chính thức. Sau khi ông lên Thủ tướng, Đảng KPRP tổ chức đại hội lần thứ năm từ ngày 13 – 16 tháng 10 năm 1985, một sự kiện lớn khi đảng viên tăng lên tới hơn 7.000 người.

Nhưng Heng Samrin thừa nhận là nền kinh tế vẫn còn èo uột và bất ổn, các ngành kỹ nghệ bị đình đốn vì thiếu nhiên liệu, phụ tùng thay thế và nguyên liệu thô. Ông đã cảnh báo thời kỳ quá độ tiến lên Chủ nghĩa xã hội sẽ phải mất “ nhiều năm “. Đại hội đã trình bày công khai Kế hoạch 5 năm lần thứ nhất của đất nước ( 1986 – 1990 ) bổ sung thành phần kinh tế tư nhân vào ba khu vực kinh tế được nói đến trong hiến pháp – khu vực kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể và kinh tế gia đình. Thành phần kinh tế tư nhân sẽ đóng một vai trò trọng tâm trong việc giúp chính phủ Hun Sen tồn tại qua khỏi những năm bị cô lập.

Phương tiện truyền thông đã nhận ra các rạn nứt trong đảng. Sự ủng hộ kiên định của Chea Sim và tình bạn của ông với Hun Sen đã rơi vào tầm công kích của các nhà ngoại giao và quan sát viên, vốn nhận định giữa hai người  này có một sự kình địch căng thẳng. Những tin đồn như vậy đã tiếp tục tồn tại từ lần đầu họ xuất đầu lộ diện vào đầu thập niên 1980. Các lời ám chỉ về sự kình địch được đồn đại đã trở thành rõ ràng khi Chea Sim được cho là đã sắp đặt chuyện sa thải Khieu Kanharith, biên tập viên một tờ báo của đảng. Kanharith là một trong các liên minh và là bạn thân của Hun Sen. Rõ ràng, Chea Sim đã rất khó chịu với những lời chỉ trích thường xuyên của Kanharith về chính sách của chính phủ và sự gần gũi của ông ta với các phóng viên phương Tây, những người này săn tìm các lời bình luận về đảng thường được giữ kín. Các nhà ngoại giao đã tin chắc Chea Sim đứng sau vụ sa thải Kanharith và qua việc sa thải một người thân cận với Hun Sen, ông muốn gửi đi một thông điệp không tán thành gián tiếp của mình mà không muốn đối đầu công khai với Thủ tướng Hun Sen.

Sự bất bình giữa Chea Sim và Hun Sen được cho là để quay trở lại cuộc đàm phán hòa bình ở Tokyo, khi Hun Sen được hiểu ngầm là đã chỉ định tất cả 6 thành viên của Hội đồng Quốc gia Tối cao, cơ quan điều hành nước Campuchia cho tới khi cuộc bầu cử có thể được tổ chức. Hun Sen đã làm như vậy mà không cần tìm sự đồng thuận của các đồng chí trong đảng ở Phnom Penh, câu chuyện đã bắt đầu. Càng trầm trọng hơn nữa, các nhà ngoại giao cho rằng có các phe phái trong Đảng CPP nghĩ Hun Sen là một người thân phương Tây một cách quá khích và xem ông như là người đưa ra nhiều nhượng bộ với các quốc gia này. Kể từ đây, các kết luận vội vàng được đưa ra là Đảng CPP, chẳng những không được thống nhất mà còn bị chia rẽ nặng nề. Tất cả đều do các ảnh hưởng ngấm ngầm lan nhanh về sự kình địch giữa Hun Sen và Chea Sim đã bị đồn thổi.

Với nụ cười thoải mái, Hun Sen nói “ Kiểu suy nghĩ này đã diễn ra hơn 15 năm. Trước năm 1984, họ cho là có sự kình địch giữa Heng Samrin và Sai Phuthang, giữa Heng Samrin và Chea Sim. Sự kình địch giữa Chea Sim và tôi là một sự kình địch bất phân thắng bại. Nếu là một hoàn cảnh không phân thắng bại thì có nghĩa là không có sự kình địch. Sự kình địch để làm gì? Chea Sim là thủ lĩnh của Đảng CPP và Chủ tịch Quốc hội – cả hai chức vụ rất quan trọng. Đối với ông ta giữ chức Thủ tướng để làm gì? Bấy giờ, tôi là một Thủ tướng có quyền lực, vì vậy đối với tôi giữ chức thủ lĩnh Đảng và Quốc hội để làm gì?”

Ai có quyền lực hơn – Hun Sen hay Chea Sim?

Ông nói “ Tôi không muốn nói ai có quyền lực hơn ai. Nhưng mỗi người đều có nhiệm vụ riêng. Nếu Chea Sim giữ chức Thủ tướng thì có lẽ ông sẽ làm tốt hơn Hun Sen “.

Khi những đồn đại về sự chia rẽ giữa hai nhà lãnh đạo mới bắt đầu lan rộng ở phạm vi thủ đô vào cuối thập niên 1980, Hun Sen được xem là người theo đường lối cải cách, còn Chea Sim là một người theo đường lối cứng rắn. Khi chĩa mũi nhọn vào các cải cách, ông đã gây ra một loạt va chạm với những người bảo thủ trong Đảng cộng sản. Có tin đồn là tình trạng kình địch âm ỉ lâu ngày đã bắt đầu sục sôi. Trong khi Chea Sim muốn Hun Sen không nhượng bộ các phe cánh không cộng sản tại cuộc đàm phán hòa bình, thì Hun Sen lại theo đuổi chính sách hòa giải và đóng vai trò quyết định trong việc đạt hòa bình. Tất cả các câu chuyện kinh dị đã được đồn thổi quanh các quán bar ở Phnom Penh. Một số người cho là sự bất đồng quan điểm giữa Hun Sen và Chea Sim đã xảy ra, vì người ta đồn thổi Hun Sen có một nhóm cố vấn kinh tế rất giỏi ở thành phố và họ đang vượt trội hơn hẳn các bạn chí cốt của Chea Sim. Một trong những nhà phân tích am hiểu nhất, V.Loikianov, cố vấn Đại sứ quán Liên Xô đã bác bỏ các tin đồn thất thiệt ấy và nói rằng Chea Sim không giẫm chân lên công việc của Hun Sen.

Ông Loukianov cho biết “ Không có vấn đề về chuyện đó. Ông Chea Sim cao cấp hơn ông Hun Sen trong Chính phủ và trong Bộ chính trị của Đảng. Vì vậy, hất cẳng ông Hun Sen là một người cấp dưới trong chính phủ của ông Chea Sim sẽ chẳng được gì “.

Năm 1998, chúng tôi đã nói chuyện với Hun Sen về những lời nhận định mà ông Loukianov đưa ra vào năm 1990.

Hun Sen đã trả lời “ Ông ta có lý, bởi vì Chea Sim luôn luôn là thủ trưởng của tôi. Ngay cả lúc bấy giờ, cả Heng Samrin và Chea Sim đều là thủ trưởng của tôi. CÒn có hai người nữa cũng là thủ trưởng của tôi – Chea Soth và Sai Phuthang. Chúng tôi có thể so sánh Đảng CPP với một đội bóng đá. Người quan trọng nhất trong đội là huấn  luyện viên. Nếu huấn luyện viên thiếu năng lực thì đội bóng ấy sẽ không thể thắng. Chea Soth là một huấn luyện viên rất giỏi. Khi đội banh của Đức bị thua, họ đã không đổ lỗi cho các cầu thủ. Họ quy lỗi cho huấn luyện viên. Điều đó cũng giống như đối với Đảng. Chỉ có một loại đua tài duy nhất giữa Chea Sim và tôi – môn đánh gôn. Ông ta đã chơi gôn trong thời gian dài, tôi không thể thắng ông ta. Tôi đang cố gắng đánh bại ông ta trong cuộc chơi “.

Những đồn đại về sự chia rẽ giữa Hun Sen và Chea Sim được săn tin trong suốt năm 1992. Bị những lời rêu rao tiêu cực làm cho xôn xao lên, Đảng CPP đã thúc giục các thành viên của mình siết chặt hàng ngũ và tiến đến cuộc bầu cử thống nhất vào năm sau. Các nhà ngoại giao ở thủ đô khăng khăng cho là sự tranh giành quyền lực đã nổ ra giữa Chea Sim, người theo đường lối cứng rắn, là Chủ tịch Đảng và Hun Sen, người theo đường lối cải cách, là phó Chủ tịch Đảng. Câu chuyện ấy đã ngã ngũ là Chea Sim đã thắng thế trong cuộc tranh giành quyền lực sau khi sửa đổi Hiến pháp vào tháng 4 đã để cho ông lên giữ chức Chủ tịch vì lúc ấy Heng Samrin vắng mặt hoặc đã bị bệnh. Thứ bậc bấy giờ trong Đảng là Chea Sim, Heng Samrin, rồi đến Hun Sen. Trong khi Hun Sen đưa các liên minh thân cận của mình lên nắm giữ các chức vụ Bộ trưởng, thì Chea Sim bổ nhiệm anh rể mình, Sar Kheng làm phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Bộ Nội vụ.

Một quan chức cao cấp trong chính phủ cho biết riêng là bộ ba trong chính phủ, gồm Hun Sen, Chea Sim và Heng Samrin điều hành Nhà nước Campuchia không những là các đồng chí với nhau mà còn là những người bạn thân thiết ngồi uống chung với nhau chai rượu cô-nhắc.

Quan chức ấy kể “ Thỉnh thoảng Hun Sen đi bộ đến nhà Chea Sim hoặc Heng Samrin đến nhà Hun Sen và họ ngồi ăn uống với nhau. Họ là những người bạn rất thân “.

Những người trong đảng cầm quyền phát biểu vào tháng 5 năm 1992 rằng không có cơ sở về “ các tin đồn “ tranh giành quyền lực; và cho rằng đây là một đảng đoàn kết. Nhưng các nhà ngoại giao đa nghi tin rằng chuyện tranh giành quyền lực đã làm phương hại cho Đảng này trong cuộc bầu cử.

Hun Sen đã là một thành viên trong Bộ Chính trị ban đầu của Đảng KPRP suốt từ lúc nó được thành lập khi ông còn sống lưu vong. Khi Ủy ban Trung ương và bộ Chính trị được thành lập, những người đỡ đầu ông đã bảo đảm một vị trí thích đáng cho ông. Hầu như một năm sau khi lên Thủ tướng, ông đã thôi giữ chức Bộ trưởng Bộ Ngoại giao vào tháng 12 năm 1986, để tập trung sức lực vào việc điều hành đất nước và nhất là để chỉ đạo chiến dịch quân sự chống lại Khơme Đỏ.

Bị cảnh báo bởi sự cấm vậhương mại của Mỹ gây tê liệt và lệnh cấm của Ngân hàng Thế giới (WB) và Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) cho Campuchia vay, người cựu chiến binh du kích ấy đã thấy mình bị kẹp chặt bởi các thách thức tồi tệ về kinh tế và ngoại giao. Bằng cách nhìn nhận chính mình, ông đã thấy một số vấn đề này “ khá phức tạp”, nhất là việc quản lý trong thời kỳ quá độ từ nền kinh tế có kế hoạch sang nền kinh tế nhiều thành phần và cuối cùng là nền kinh tế mở cửa.

Hun Sen kể “ Cần phải tìm ra giải pháp chính trị cấp bách thông qua cuộc đàm phán. Việc cải cách kinh tế đã diễn ra song song với cải tổ chính trị. Tuy nhiên, sự ổn định chính trị phải được duy trì để việc cải tổ kinh tế có thể được tiến hành cùng với việc tìm kiếm giải pháp chính trị để kết thúc chiến tranh và mang lại hòa bình “.

Dừng lại hít một hơi thuốc dài, rồi uống một ngụm trà tàu trước khi ông nói tiếp “ Tôi sẽ viết một cuốn sách về các vấn đề phức tạp này”.

Điều gây tổn thương danh dự là bị báo chí nước ngoài gán cho là “ chế độ bù nhìn do Việt Nam dựng lên “ càng khiến ông khó làm dịu tình hình đất nước đang bị cô lập để đi vào con đường cải tổ kinh tế. Mặc dù điều đó gây rắc rối cho ông, nhưng vẫn còn một chút khả năng ông có thể thực hiện để định hướng ý kiến của thế giới theo quan điểm của mình vào thời điểm đó. Ông không sao hiểu nối tại sao thế giới lại quên rằng Campuchia đã phải gian khổ mới giải phóng được đất nước và cuộc đấu tranh loại bỏ Khơme Đỏ của quân nổi dậy Campuchia và bộ đội Việt Nam “.

Hun Sen nói “ Công lý vẫn còn trên thế giới. Tôi không quá quan tâm tới (các vấn đề) nào đã bị nảy sinh. Tôi dành nhiều thời gian của mình để giúp dân tộc thoát khỏi cảnh nghèo nàn, đó mới chính là kẻ thù thực sự của chúng tôi, hơn là ngồi phàn nàn giới báo chí “.

“ Đó là một thời kỳ rất phức tạp. Vì vậy, khi trở thành Thủ tướng, tôi tiếp tục làm Bộ trưởng Bộ Ngoại giao. Từ 1979 tới 1983, là giai đoạn Nhà nước lúc nào cũng phải đương đầu. Từ 1984, chúng tôi bước vào giai đoạn đương đầu và đàm phán mới. Tôi vẫn còn nhớ hai nhân vật rất quan trọng của ASEAN: Bộ trưởng ngoại giao – Mochtar Kusumaatmadja của Indonesia và Ghazalie Shafile của Malaysia. Với các nước ở Đông Dương, chúng tôi có được sự ủng hộ từ ông Nguyến Cơ Thạch của Việt Nam. Chúng tôi dã có được sự ủng hộ từ hai nhóm quốc gia – 6 nước trong khối ASEAN và 3 nước ở Đông Dương. Vì vậy, chúng tôi đã phải tăng nhanh quá trình đàm phán “.

Để ngăn chặn Thái Lan can thiệp vào các công việc của Campuchia và cố thuyết phục họ ngưng ủng hộ Khơme Đỏ, chính phủ của Hun Sen đã đề xuất quân đội Thái giữ vai trò trung lập để tránh phải đương đầu. Rốt cuộc, Hun Sen đã có một cuộc họp mật ở Vientiane với Chavalit Yongchaiyudh, một vị tướng của Thái vào cuối năm 1988 và ông đã gặp Thủ tướng Thái Lan, Chatichai Choonhavan vào năm 1989. Sự gặp gỡ này không mang lại hiệu quả. Thái Lan tiếp tục ủng h ộ Khơme Đỏ.

Được các thủ lĩnh trong đảng của ông ủng hộ, Hun Sen đã đưa ra một đường lối cứng rắn chống lại phe kháng chiến do Sihanouk lãnh đạo, trong khi ấy quân đội của ông tấn công tàn quân của Khơme Đỏ ở dọc biên giới với Thái Lan. Không giống như các nước dân chủ, nơi các Thủ tướng còn thiếu kinh nghiệm bị khuynh đảo rồi sau đó bị lật đổ, vị Thủ tướng Campuchia trẻ tuổi này có thể dựa cậy vào sự ủng hộ không tiếc công sức của các thủ lĩnh trong Đảng cộng sản. Đảng đưa ra sự nhất trí về chính sách đối nội và đối ngoại, còn Hun Sen điều chỉnh đường lối đó cho tinh tế. Vào tháng 5 năm 1987, ông đã từ chối một lời đề nghị đàm phán hòa bình do Sihanouk đưa ra vì “ nó không có gì mới mẻ và không hiện thực “. Nhưng vào tháng 10, ông xuống thang lập trường cứng rắn của mình và đề nghị với Sihanouk ba vị trí đứng đầu trong chính phủ liên hiệp tương lai – Nguyên thủ quốc gia, Phó tổng thống và Thủ tướng. Sihanouk đã bác bỏ đề nghị ấy ngay lập tức vào tháng 12 năm 1987.

Sihanouk phát biểu tại Pháp “ Tôi muốn chết ở Bắc Kinh hoặc Bình Nhưỡng hơn là làm Nguyên thủ quốc gia bù nhìn ở Phnom Penh, một con rối của Hà Nội”.

Tuy nhiên, Sihanouk đồng ý trở về làm quốc trưởng của một nước mới được điều hành bởi phe đối lập ba bên của ông và chính phủ của Hun Sen.

Người đàn ông trẻ này bất bình trước những điều chướng tai gai mắt ấy, dần dần đã nhận thấy ý nghĩa trong việc tìm kiếm hòa bình và đã đồng ý bắt đầu nói chuyện với Sihanouk đang sống lưu vong ở Bắc Kinh và thỉnh thoảng tới Bình Nhưỡng và Paris.

Hun Sen nói “ Tôi đã xem xét việc đạt được giải pháp hòa bình, nhất là với Sihanouk, từ đầu thập niên 1980 sau khi bộ đội Việt Nam rút quân một phần khỏi Campuchia vào năm 1982”.

Sự bứt phá đã xảy ra vào ngày 2 tháng 12 năm 1987, khi Hun Sen gặp Sihanouk tại một địa điểm trung lập, một lâu đài kiểu thời kỳ Phục hưng vào thế kỷ 13, ở Fere-en-Tardenois, một thị trấn lớn có những hàng cây xanh tốt ở đông bắc Paris, Pháp. Đó là cuộc đối thoại đầu tiên giữa một hoàng thân 65 tuổi và một nông dân 35 tuổi. Đã trở nên rõ ràng là một cuộc đối thoại ngang tài ngang sức, giữa một hoàng thân ưa uống rượu sâm banh và một người theo chủ nghĩa dân tộc được hun đúc trong đấu tranh gian khổ giữa các cánh rừng của Đông Dương.

Hun Sen nói “ Quyết định duy trì cuộc đàm phán dựa trên quan điểm là sức mạnh của lực lượng vũ trang không thể giải quyết được vấn đề Campuchia, và chỉ có đường lối đàm phán và hòa giải dân tộc mới có thể đem lại hòa bình “.

Mặc dù hai bên có các vấn đề bất đồng kịch liệt, nhưng trong cuộc đàm phán của họ, Hun Sen đã không đả động đến các mối bất hòa đó. Tại Fere-en-Tardenois, sau 6 tiếng đối mặt, hai người này đã đi tới một sự thỏa thuận thăm dò về kế hoạch bốn điểm để chấm dứt cuộc nội chiến 9 năm đẫm máu. Hun Sen đã cho biết rõ là ông không ở Pháp chỉ để gặp Sihanouk.. Ông đã gác lại cuộc đàm phán để tham dự Đại hội Đảng Cộng sản Pháp, ông đã đưa ra các khuynh hướng chính trị của mình khá rõ ràng.

Sau ba ngày đàm phán tại lâu đài lịch sử, họ đã đồng ý yêu cầu một nhân vật đầy quyền lực của Bắc Triều Tiên, ông Kim Nhật Thành điều đình giữa Trung Quốc và Việt Nam, những bên ủng hộ chính, (Trung Quốc) cho Khơme Đỏ và (Việt Nam )cho chính phủ Phnom Penh. Sự thật là một thông cáo đã được đưa ra vào lúc kết thúc đàm phán đã không nhắc đến sự có mặt của khoảng 14 vạn bộ đội Việt Nam ở Campuchia vốn có thể dễ gây tranh cãi, điều đó đã chứng tỏ một cách hùng hồn tài khéo léo của Hun Sen với tư cách là một nhà đàm phán. Hai nhà lãnh đạo đã đồng ý theo đuổi đàm phán ở Bình Nhưỡng một tháng sau đó.

Ông kể “ Ý nghĩa quan trọng của sự thỏa thuận đó giữa Sihanouk và tôi là tìm kiếm giải pháp hòa bình “.

Chỉ sáu ngày sau cuộc đàm phán bước ngoặc của họ, Sihanouk thiếu kiên định, đã bất ngờ đổi ý và hủy bỏ cuộc đàm phán hòa bình thêm nữa với Hun Sen, đã gọi ông là “ tay sai của Việt Nam “ đến đàm phán “ bằng tay không và mưu toan đạt được các mục tiêu tuyên truyền”. Sự đổi ý của Sihanouk đã làm trì hoãn việc đem lại hòa bình cho đất nước ông ta. Điều đó cho thấy ông ta vẫn còn dùng Khơme Đỏ làm con tin, một phe du kích mà ông đã cổ vũ vào thập niên 1970 với hy vọng tràn trề là nó sẽ khôi phục lại quyền lực cho ông. Cuối cùng, Sihanouk đã phải thất vọng khi Khơme Đỏ giành được quyền lực sau khi lợi dụng tâm trạng của dân chúng ưa chuộng Sihanouk để rồi sau đó đã giam lỏng ông trong hoàng cung ở Phnom Penh.

Hun Sen không ưa chuyện lăng mạ xúc phạm nhau, cũng không hợp được với các đồ ăn nước ngoài. Trong các chuyến đi của ông, nhất là sang Pháp, ông không thể ăn được đồ ăn địa phương. Norodom Ranariddh, con trai Sihanouk, đã kể lại chuyện ông không ăn được đồ ăn của Pháp trong khi đàm phán ở Paris và đã phải thu xếp cho ông đồ ăn châu Á.

Hun Sen kể “ Tôi không thích đồ ăn nước ngoài, trừ các món Tàu. Các kiều bào Campuchia sống ở Paris đã giúp nấu các món ăn Khơme cho tôi. Khi đi ra nước ngoài, tôi lúc nào cũng mang theo cá khô và nước mắm là các món ăn quen thuộc của tôi”.

Dưới áp lực và chỉ trích kịch liệt của Khơme Đỏ, Sihanouk đã hoãn lại cuộc đàm phán ở Bình Nhưỡng. Sihanouk biện luận rằng, ông đã yêu cầu Hun Sen bao gồm cả việc rút bộ đội Việt Nam trong thông cáo cuối cùng ấy, nhưng Hun Sen đã trả lời là “ việc đề cậpt hêm như thế là vô ích”. Sihanouk đã đặt ra các điều kiện tiên quyết – ông sẽ không gặp Hun Sen nữa, thứ nhất nếu Việt Nam không chịu thương lượng trực tiếp với Sihanouk; thứ hai, nếu Khơme Đỏ và Son Sann không đồng ý gặp Hun Sen. Cuộc đàm phán ấy bị đổ vỡ, Hun Sen đã nói với các nhà lãnh đạo Campuchia là “ vừa đánh vừa đàm”.

Cuộc tranh cãi om sòm và chát chúa nhất là cuộc đấu khẩu giữa Hun Sen và Khơme Đỏ.

Hun Sen kể “ Khơme Đỏ và tôi chưa bao giờ đồng thuận với nhau. Tôi thường phải đi đến chỗ tranh cãi với Khơme Đỏ trong các cuộc đàm phán. Lúc tôi cũng lạc quan và đó là lý do tôi tiếp tục đàm phán. Có nhiều trở ngại, nhưng còn hơn là giao chiến”.

Khi cuộc đàm phán hòa bình xuất hiện dần ở phía trước, Hun Sen đã đảm nhiệm lại chức vụ Bộ trưởng Bộ Ngoại giao vào cuối năm 1987 để tỏ rõ phong thái riêng của mình về các công việc đối ngoại của chức vụ Bộ trưởng Bộ Ngoại giao, một Bộ giữ vai trò quyết định trong việc giải quyết các cuộc đàm phán. Ông đã đưa cựu Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Kong Kom, người đã giữ chiếc ghế ấy cho ông xuống làm phụ tá. Động thái ấy đã làm nổi bật tầm cỡ của ông trong khi ông đang chuẩn bị cho vòng đàm phán thứ hai với Siahnouk.

Làm cho kế hoạch đàm phán hết sức rối rắm, một lần nữa Sihanouk lại đổi ý. Lần này, ông yêu cầu Hun Sen gặp ông tại St.Germain-en-Laye ở Pháp vào ngày 20 và 21 tháng 1 năm 1988.

Mau chóng già dặn kinh nghiệm hơn, Hun Sen biết ai là những người ủng hộ ông. Trước khi gặp Sihanouk, ông đã dừng chân ở New Delhi để thảo luận với liên minh của mình, Thủ tướng Ấn Độ Rajiv Gandhi, người đã tiếp tục duy trì sự nồng nhiệt và tình cảm của mẹ ông đối với chính phủ Campuchia vượt khỏi các khuôn khổ của liên minh chính trị. Hai quốc gia đã gắn kết với nhau nhờ vào các mối liên quan về văn hóa Hindu chung và hệ chữ viết Pali – Phạn mà ngôn ngữ Khơme đã dựa vào đó. Ông Rajiv và Hun Sen đã gặp nhau hơn một giờ để thảo luận các đường lối tìm kiếm hòa bình.

Mùa đông của nước Pháp ở St.Germain-en Laye sắp tàn, ông đã gặp Sihanouk trong vòng đàm phán thứ hai. Hun Sen nhanh chóng chứng tỏ sự sắc bén của một nhà đàm phán, khi ấy bằng cách dùng lời lẽ khiển trách nhẹ nhàng, nhưng vẫn với giọng kính cẩn, ông đã thuyết phục được Sihanouk đồng ý thành lập chính phủ liên hiệp hai bên, giữa hoàng thân và ông, loại bỏ Khơme Đỏ và Son Sann. Phiên họp cuối cùng của cuộc đàm phán hai ngày của họ đã kéo dài gần năm giờ. Cuối cùng, Sihanouk đã tin tưởng và bỏ thái độ khăng khăng trước đây về việc thành lập chính phủ bốn bên, bao gồm cả Khơme Đỏ. Nhưng Sihanouk đã bác bỏ yêu cầu của Hun Sen đòi giải tán Khơme Đỏ sau khi Hun Sen đề cập đến việc rút bộ đội Việt Nam khỏi Campuchia để giải giới các lực lượng của Pol Pot.

Mặc dù trẻ hơn nhiều tuổi so với các đối thủ chính trị của mình, chẳng hạn như Sihanouk, Son Sann và Pol Pot, tất cả họ đều đã ở tuổi ngoài 60, nhưng Hun Sen đã dần trở thành một người có tầm cỡ chính trị qua việc tham dự các cuộc đàm phán hòa bình của ông. Dù Sihanouk là người cao tuổi, nhưng Hun Sen đã đàm phán với ông ở vị thế vững vàng và bình đẳng. Ông đã thể hiện khuôn mặt của một người theo đường lối cải cách nhà nước Campuchia và thường xuyên đưa ra một loạt lời phát biểu vững chắc và khôn khéo đã được ghi chép để đưa thành dòng tít gây ấn tượng mạnh trên báo chí.

Khi Hun Sen đã để lại ấn tượng sâu sắc tại cuộc đàm phán, con trai của Sihanouk, Ranariddh, một người mới bước vào chính trường, cũng đang cố gắng tạo ảnh hưởng.

Hun Sen nói “ Thường một số người hay quên đi sự thật lịch sử. Người đồng cấp với tôi trong cuộc đàm phán hòa bình không phải là Ranariddh, không phải là Khieu Samphan cũng không phải Son Sann. Xin nhớ đó là cuộc đàm phán giữa Hun Sen và Sihanouk đã bắt đầu vào ngày 18 tháng 12 năm 1987 ở Pháp. Vào thời điểm đó, Ranariddh là người ghi chép, tương đương với Cham Prasidh, thư ký riêng của tôi. Trong cuộc đàm phán, những người có mặt ở phía bên kia là Sihanouk, vợ ông ( Monique) và Ranariddh; còn bên tôi có Dith Munthy và Cham Prasidh. Vì vậy họ không nên quên đi lịch sử ấy “.

Thời gian đó, Campuchia có hai chính phủ - Hun Sen là người đứng đầu chính phủ, điều hành đất nước và Sihanouk đứng đầu chính phủ liên hiệp lưu vong, đại diện cho lực lượng kháng chiến.

Hun Sen kể “ Nhưng chúng tôi đã không công nhận các phe phái trong chính phủ ba bên. Vì vậy, ngoài Sihanouk, những người kia không phải là những người đồng cấp với tôi. Khi viết về lịch sử Campuchia, xin đừng quên điểm này. Một số người muốn phải đề cao thư ký ghi chép trong cuộc họp ấy thành một nhà đàm phán. Lịch sử là lịch sử. Chúng ta không thể sửa đổi lịch sử.”

Tuy nhiên, vẫn có những sự so sánh giữa Hun Sen và Ranariddh.

Hun Sen nói “ Dù ông ta có khả năng hay không có khả năng, tôi không muốn đánh giá ông ta. Tôi được sinh ra ở làng quê. Ông ta (Ranariddh) được sinh ra ở hoàng cung. Ông ta có học vị tiến sĩ ở Pháp. Tôi có học vị tiến sĩ ở Việt Nam. Nhiều người được sinh ra ở làng quê nhiều hơn ở cung điện. Nếu ông ta nhìn xuống Hun Sen thì ông ta sẽ ngó xuống hàng triệu người còn nghèo hơn bản thân ông ta. Ông ta không nên quên rằng tôi đã từng đương đầu với cha ông ta. Khi họ nhìn xuống tôi, họ sẽ rơi vào chính cái bẫy của họ”.

Từ cuộc đàm phán ở St. Germain-en-Laye “ lúc nhất trí lúc không “ và các nhân vật tham gia đàm phán đã phát chán không còn lập trường rõ ràng về địa điểm gặp nhau, chẳng hạn như, lúc ở Bogor và Jakarta ở Indonesia, lúc lại đổi sang Tokyo. Nhưng vì các phe phái vẫn còn đả kích nhau, hòa binh đã rơi vào nguy cơ bị đe dọa.

Bầu không khí thiếu hòa hợp đã dẫn tới tình trạng căng thẳng tăng cao. Gây cho vấn đề càng thêm xấu hơn, Sihanouk đã cố thuyết phục Trung Quốc đừng chấm dứt viện trợ cho Khơme Đỏ. Còn ở phía bên kia, Liên Xô không hạn chế chi tiền rúp để trang bị vũ khí cho chính phủ Phnom Penh.

Vào tháng 6 năm 1989, phi đội phản lực chiến đấu MIG-21 đầu tiên do Liên Xô chế tạo được các phi công Campuchia từng được đào tạo ở Liên Xô điều khiển, đáp xuống phi trường Pochentong ở Phnom Penh. Sự giúp tăng cường dần lực lượng vũ trang của Liên Xô là một phần trong kế hoạch củng cố quốc phòng của Campuchia trước khi Việt Nam rút quân có kế hoạch vào tháng 9. Ngay trước khi chiến đấu cơ này xuất hiện, Moscow đã chuyển giao xe tăng, các loại xe bọc thép và pháo cho Phnom Penh.

Đến lúc ấy không thể ngờ Sihanouk đã gây ra một sự ngạc nhiên khác. Vào tháng 8, ông rời bỏ chức thủ lĩnh đảng Funcipec, đảng chính trị của ông và chỉ định Ranariddh làm Tổng bí thư mới. Sihanouk nhường chức vụ của mình để đặt ông vào vị trí lãnh đạo tối cao của Campuchia, không ủng hộ phe phái nào và qua đó đã đẩy mạnh được tiến trình đạt tới hòa bình.

Sau khi bộ đội Việt Nam rút quân khỏi Campuchia vào tháng 9 năm 1989, cuối cùng chính phủ Phnom Penh đã bắt đầu chính thức được những người ủng hộ mới. Sự rạn nứt xảy ra trong chính sách cô lập Campuchia của phương Tây. Vào tháng 11, phe kháng chiến của Sihanouk bị hoang mang, Hoa Kỳ và các nước trong khối ASEAN trở nên quan ngại khi thấy Anh, Canada, Pháp, New Zealand và Úc bắt đầu đối thoại với chính phủ Hun Sen.

Pháp, nước thực dân trước đây của Campuchia đã sẵn sàng mở một liên minh với Pháp ở Phnom Penh bằng một phái bộ văn hóa chính thức. Canada và Anh gửi các nhà ngoại giao sang Campuchia tìm hiểu tình hình thực tế. Cùng tháng ấy, Bộ trưởng ngoại giao New Zealand, ông Russell Marshall gặp Hun Sen ở Thành phố Hồ Chí Minh trong chuyến thăm các nước Đông Nam Á.

Hun Sen rất mừng khi vào tháng 11, Quốc hội châu Âu ở Strasbourg đã thúc giục các nước thành viên trong Cộng đồng châu Âu mở rộng việc công nhận chính phủ của ông trên thực tế. Quốc hội châu Âu kêu gọi chấm dứt viện trợ hoàn toàn cho các phe chống đối do Sihanouk lãnh đạo và “phàn nàn về việc chính phủ Trung Quốc tiếp tục ủng hộ chính trị, quân sự và kinh tế cho Khơme Đỏ “. Trong khi thúc giục 12 nước thành viên châu Âu tăng cường viện trợ nhân đạo cho nhân dân Campuchia, Quốc hội này yêu cầu các nước thành viên cô lập quân đội Khơme Đỏ và những người lãnh đạo của nó “về ngoại giao và quân sự”, đặc biệt là ở Liên Hiệp Quốc. Một nhà ngoại giao ở Phnom Penh đã nhận định “ Ở Washington, họ không vui vẻ gì và không ai muốn tiến đến công nhận chính phủ Phnom Penh “.

Rốt cuộc, một hiệp định hòa bình lâu dài đã được ký ở Paris vào tháng 10 năm 1991. Hiệp định này kêu gọi bốn phe cánh hợp tác và tổ chức bầu cử vào năm 1993. Mặc dù Khơme Đỏ đã ký vào văn bản này, nhưng họ vẫn tẩy chay cuộc bầu cử.

Hun Sen nói “ Nhưng đây (các mối bất đồng của tôi với Khơme Đỏ ) không phải là nguyên nhân khiến cho Khơme Đỏ tẩy chay các cuộc bầu cử vào năm 1993. Họ không thực hiện đúng theo các cam kết của họ theo quy định của Hiệp định Hòa bình Paris “.

Khi Sihanouk trở về quê hương Campuchia vào tháng 11 năm 1992, sau 12 năm lưu vong, một lần nữa thái độ của ông lại thay đổi.

Sihanouk nói “ Hun Sen là một nhà lãnh đạo xuất sắc. Ông ta trẻ, thông minh và có kinh nghiệm trong các công việc của Nhà nước. Ông ta yêu nước và thực sự yêu thương người dân. Ông ta có sự tự hào dân tộc. Khi còn trẻ tôi cũng giống như ông ta – đầy nhiệt huyết, sôi nổi, có những lời mạnh mẽ. Nhưng đó là tuổi trẻ. Tất cả chúng tôi đều đã chín chắn. Campuchia may mắn có được Hun Sen. Chúng tôi cần nhiều người như Hun Sen “.

Từ cách gọi ông là “ đứa con hư “, bây giờ Sihanouk đã coi Hun Sen là “ đứa con nuôi” của mình. Nhưng khi dân chúng ở Phnom Penh phẫn nộ, công kích vào một nhà lãnh đạo Khơme Đỏ, Khieu Samphan, đã làm thay đổi phần nào nhận thức của Sihanouk. Là một phần của kế hoạch hòa bình, Samphan đã được cho phép trở về Phnom Penh, nơi ông được chuyển đến sống trong một ngôi nhà bỏ trống ở ngoại thất hoàng cung. Khi ấy ông ta bị một đám đông dân chúng lên án là tên khát máu, các nhà ngoại giao cho là chính phủ Phnom Penh đứng sau vụ này, vì hầu như họ không ngăn chặn sự công kích thậm tệ ấy. Sihanouk đưa ra lời bình lulaanj là hiện nay ông chỉ tin tưởng Hun Sen “ 50%”.

Về phần mình, Hun Sen đã bổ sung một chi tiết khác vào bản lý lịch gây ấn tượng của ông. Ông đã bổ túc cho quá trình không được học tập chính quy của mình bằng việc hoàn tất một luận án dài 172 trang với tựa đề “ Các đặc điểm của chính trị học Campuchia “. Viện Khoa học chính trị Quốc gia Việt Nam đã trao văn bằng Tiến sĩ cho ông vào năm 1991. Một chú tiểu ở chùa không thể hoàn tất được quá trình học vấn của mình, nay đã có được văn bằng danh dự của Học viện cao cấp.