Kẻ Cướp Bến Bỏi

Chương II (tt)

Docsach24.com

 một túp nhà tranh bên trái cổng có một người đàn bà bước ra. Rõ vẻ người nhà quan, váy lĩnh Bưởi đen nhánh, thắt lưng nhiễu tam giang, tay xách cái khóa đuôi chuột, rỉ sắt đen xỉn to bằng ống tay. Ai gọi hàng dầu? Người này ra khóa cổng mà. Nhưng người đàn bà ấy lại cất tiếng:

- Vào đây, vào đây mua vài cân dầu. Quảy hẳn vào trong này để khóa cổng.

Không phải người đàn bà ấy khóa hai cánh cổng lim nặng như hai gọng cùm. Một người búi tóc, chít chăn lượt, dáng ông lại, ông nho trong sân tất tả đi ra, cầm lấy khóa đem móc vào lỗ cổng giữa cái rõi sắt rồi cả hai người lính trên chòi xuống đẩy. Cánh cửa cót két nặng nể đóng sập lại. Trắt đã vào trong cổng rồi, ngẩn ngơ toan hỏi cửa khóa thế thì tôi ra làm sao. Nhưng lại nhớ đây tà cửa quan, mà người ta gọi mua dầu, bỗng dưng chợt thấy được may mắn quá.

Trắt gánh dầu theo người đàn bà. Người ấy không còn trẻ, nhưng cũng chưa hẳn đã già. Da bánh mật, đuôi mắt rạn chân chim nhăn nheo, vẻ ủ ê lại như cau có rõ người hay bẳn tính, hấp tấp.

Người đàn bà bảo cái bác chít khăn lượt:

- Bảo trong ấy có nhà đứa nào hết dầu thì ra mà đong.

Người chít khăn, áo dài đã đi vào sân. Một lúc cũng chẳng thấy ai ra. Trắt đỗ thùng dầu, ngồi lên cái đòn gánh.

Rồi Trắt tự nhiên hỏi như đùa:

- Nhà quan tuyển võ sanh đàn bà gác cổng?

- Cái nhà anh này ăn nói chớt nhả! Liệu giữ cái mồm đấy. Ai lính tráng gì với nhà các người.

Nói như mắng ấy nhưng mặt lại tươi tỉnh, rồi tủm tỉm. Trắt cảm thấy dễ làm quen.

- Thấy nhà bác giống cái chòi gác, mà lại ở cạnh cổng.

Người đàn bà chép miệng, mặt lại ỉu ngay.

- Ừ, cũng là chòi gác thôi.

- Để tôi về bảo vợ con ra đây xin tuyển lính, ở dưới quê đương đói, nhờ bác giúp cho. Trần đời chưa trông thấy lính đàn bà như dinh quan nhớn đây.

Hình như người đàn bà ấy gọi Trắt vào để nói chuyện dông dài vậy, không thấy hỏi đến dầu. Hai người đàn bà khiêng ra cái nồi đồng ba mươi, lồng quai vào chiếc đòn ống.

Trắt hỏi:

- Đựng dầu bằng nồi đồng à?

- Còn bao nhiêu dầu đong hết. Nhà cỏ việc phải phiên phiến lên.

- À...

Bấy giờ hai người vợ lính cúi đầu.

- Chào bà Tư. Bà cũng đong dầu ạ?

- Tôi gọi hàng dầu cho các người đấy. Trông từ sáng mới thấy. Đỡ phải đi đong chợ.

- Đội ơn bà gọi giúp cho.

Những người đàn bà mặc cả nì nèo. Nhưng Trắt cũng chẳng đong bán diết dóng, cho nên rồi ngã giá được ngay. Lại cố ý để hời cho người nhà được vài tiền ăn bớt, tôi tớ nhà quan đều đã thạo mua bán thế. Chỉ để lại cho bà Tư mấy gáo, cả hai thùng dầu đổ vào cái nồi ba mươi còn sóng óc ách, chưa đầy được cắn mép nồi. Mấy khi đã gặp may nhường này.

Hai người tong tả khiêng nồi dầu vào. Một mình, Trắt lúng túng:

- Phúc đức quá, bà giúp cho đi chợ được thuận mua vừa bán ngay. Mà lúc nãy tôi dám hỗn, khí không phải, bà nhớn xóa tội, bỏ quá cho.

Người đàn bà ngẩng nhìn Trắt:

- Chưa rằm tháng bảy, đâu mà xá tội vong nhân sớm thế.

- Bà cứ nói giỡn!

- Anh ở đâu vào bán dầu?

- Nhà cháu ngoài đầu ô.

- Hôm nào cũng đi à?

- Cũng buổi đực buổi cái.

- Đực cái là thế nào?

- Cháu làm ruộng, phải bớt việc nhà mới đi chợ được.

- Nói toạc thế cho dễ nghe, lại đực vởi cái, rõ con hươu con vượn.

Cứ sa sả, nhưng lại rõ là người vui chuyện. Những câu lọt tai làm cho người ta gần gũi. Trắt cảm thấy bớt e dè.

- Cháu hỏi khi không phải, bà Tư là thế nào?

- Tư là tư, một hai ba bốn chứ tư gì nữa, năm à? Năm, sáu, bảy đến mười mươi người ta cũng không thiếu.

Trắt không hiểu thế nào.

- Bà bỏ lỗi cho.

Rồi Trắt im. Người đàn bà lại nói, với người đàn ông chất phác, nhưng giọng chua chát, kể lể:

-Chẳng giấu chú, tôi là con hầu thứ tư trong nhà, nhưng quan nhà này có đến đứa hầu thứ mười lăm, thứ hai mươi kia. Chật chội quá, tôi phải ra ở riêng cho mát mẻ.

Trắt nghe biết vậy, không nghĩ là câu nói xót xa của người đàn bà bị hắt hủi trong cảnh năm thê bảy thiếp.

- Bà ở ngoài này lâu chưa?

- Lâu rồi.

- Quê bà ở đâu?

Người đàn bà nghe hỏi, hàng nước mắt tràn ra mí, đong lại rồi chảy xuống hai bên má đã rám. Không nói được nữa, mặc nước mắt cứ ròng ròng.

Một lát mới thở dài:

- Đừng gọi tôi bằng bà. Tôi không phải là bà. Tôi cũng chưa đến tuổi ấy. Nghĩ lắm, cay đắng lắm thì nó rộc người ra như thế này.

Ngoài cổng, tiếng ốc rống lên, xói vào tai, như tiếng ốc rúc cháy nhà. Trắt nhớn nhác nhìn ra.

- Chú cứ ngồi, chẳng ai vào đây mà ngại. Tôi gọi nó đem khóa ra. Lại của nhà bếp về đây mà. Không sợ, mặc kệ các thằng tráng xuống đẩy cổng.

Người đàn bà thoắt vào sân trong. Trắt nhác nhìn nhanh mắt một lượt. Ngôi nhà một gian, hai trái, vách dựng đất trấu. Đằng sau một chuồng gà. Con gà mái đương túc túc gọi con. Vại nước có cái mo buộc vào gốc thân cây chuối, vắng lạnh, gọn như nếp nhà của người già ở một mình. Thế là được biết chị ta là vợ thứ tư đội Quang. Nhưng tội tình gì mà phải ra ở đây. Trắt tặc lưỡi: “Những nhà giàu, nhà quan, vợ nhiều như lợn con. Nếu không phải vì thằng chồng rẫy thì cả lũ ở với nhau cũng đủ chết vì nói cười thơn thớt mà bụng bổ dao găm, những toan giết nhau không tanh dao”.

Lại mấy người quảy vào mấy cái bu đại. Toàn là gà Mía trên Sơn đưa về. Những chiếc đòn càn thọc qua nan miệng bu, con gà trống lông mã đỏ tía thò cổ kêu hộc hộc, như nỗi khó nhọc đường xa.

Trắt hỏi:

- Nhà có tiệc à?

- Cả tỉnh này đồn mà anh không biết sao?

Lúc nãy là chú em, bây giờ gọi anh, người đàn bà cứ nói, tình cờ như không để ý.

- Tôi chẳng biết gì cả.

- Nhà làm tiệc khao.

- Tiệc tùng nhà quan thì như cơm bữa ấy mà!

- Ông đội Quang cứ mỗi trận đi đâm chém về lại mở tiệc. Nghe nói dạo trước cái trận trên Mường được to lắm, về đã khao ngay ở Sơn, xuống đây lại tiệc, lại tiệc, cơ mà cũng được thăng chức nữa kia.

- Chắc là lên quan lãnh.

Cô Tư chép miệng:

- Nào tôi biết được?

Trắt rùng mình, nóng bừng mặt tai nghe những tiếng “đâm chém”, “trên Mường” mà cô Tư vừa nói. Ngoài đường lại inh ỏi tiếng ốc. Cô Tư lại lụi hụi chạy vào sân trong, vạt áo đổi vai tứ thân nâu non lất phất ra sau, chỉ kịp vắt lên một bên vai trần. Trắt nhìn theo, nuốt nước bọt.

Lại đến bọn buôn gạo. Gạo mới ở thuyền lên, hầu như gạo cả dãy chợ Bạch Mã ngoài cầu Đông quảy vào. Thấy tíu tít đông người lại lạ mắt, Trắt ỷ tứ vào đứng sau tấm mành mành nhìn ra đám hàng gạo quảy những chiếc bị cói đại đậy vỉ buồm, những đôi thúng to, nặng trĩu đòn gánh. Nhìn đám gánh gạo, Trắt nghĩ: cô vợ tư đội Quang đương thù cả lũ chúng nó, có khi có thể tin được. Cứ một việc lọt được vào đây ngồi từ bấy tới giờ, đã chẳng ngờ.

Cô Tư vào. Trong nhà sau bức mành, nồng mùi hói dầu mỡ và hơi người, cô quát khẽ:

- Chết chửa, đứng thò đầu đòn gánh ra ngoài mành mành thế, khác nào nhà này chứa tù xổng. Ngồi hẳn vào trong kia nào!

Trắt thật thà:

- Tôi là thằng bán dầu, có trộm cắp gì đâu.

- Nhỡ cái, có đứa trông thấy thì tôi phải vạ.

Trắt nói:

- Thằng lính trên cổng để người vào mới phải tội.

Rồi Trắt dịu giọng:

- Cô cho tôi đứng xem người ta một mảy. Mấy khi đã được ở cửa nhà quan.

- Vào trong khuất kia mà nghển cổ lên. Không phải dọa. Đây là cửa quan, đừng giỡn mà chết!

- Tôi, tôi...

- Bọn gánh gạo nữa lại vào mà anh vẫn luẩn quẩn đây. Thằng lính trên cổng đã trông thấy anh ra đâu. Nó tinh ma lắm đấy. Chết thôi...

Trắt chắp tay:

- Chẳng phải giấu ai, tôi có việc...

- Ở đây không có ai là ai.

- Tôi xin...

- Lại tiếng chân trâu, chân ngựa nhốn nháo ngoài đường kìa.

- Tôi thưa với cô Tư.

Người đàn bà ngơ ngác nhìn Trắt.

- Anh nói thế nào, tôi nghe chưa ra.

- Chuyện dài, không nói hết ngay được.

Cô Tư ghé gần lại:

- Bảo thật, ra ngay, không có không xong. Đấy lại tiếng ốc, thằng tráng lại xộc xuống kia. Có chuyện gì phiên sau đến.

- Phiên sau là bao giờ?

- Phiên chợ ngoài ô, ngày tám.

- Lại vào đây à?

- Ừ.

Trắt còn ngẩn ngơ vì được cái hẹn đột ngột, người đàn bà như đã sắp sẵn câu nói:

- Từ nãy, đông người ra vào, thằng tráng khó nhớ được anh đã ra chưa, nhưng anh cứ đi đằng cổng cho nó trông thấy hẳn hoi. Phía sau bụi chuối có cây tre bắc qua hào, ngoài ấy có cái chỗ dưới bụi ô rô, cày cáo vân chui. Phiên chợ sau chịu khó chui vào đằng ấy, đừng để ai trông thấy. Nhớ chưa?

- Nhớ!

- Phiên chợ sau, buổi trưa, bây giờ khách đương đông. Thấy người thì nép xuống đám cỏ lau chớ ngẩng đầu lên, nó chém đứt cổ đấy. Rồi lên đây.

- Vâng ạ.

Lâu nữa, Trắt nhìn cô Tư, lại thấy không hiểu. Nét ủ ê lúc nãy bây giờ thân mật tươi ra, nói vẻ săn sóc, dặn dò, như với người trong nhà.

Anh hàng dầu đã ra ngoài trước cửa. Cô Tư lại tất tả vào sân trong rồi ra cùng người nhà áo the, khăn lượt, cầm cái chìa khóa đuôi chuột.

Cô Tư nói to với Trắt, với bọn lính:

- Tiện cổng mở thì ra đi. Nó đợi ra từ nãy, tôi không dám tần phiền các ông.

Rồi lại ghé vào tai Trắt:

- Lần sau đi chân tay không, đừng rước hai cái thùng của nợ ấy đến nhẻ...

Đứng với Trắt, đợi mở khóa rồi hai người tráng khom lưng đẩy cánh cổng, cô Tư cứ chuyện bâng quơ với mọi người, cô Tứ bẻo lẻo mồm miệng, cứng tuổi rồi mà xưa nay vẫn bẻm chuyện.

- Chú hàng dầu sướng nhẻ, chưa đứng bóng mà đã bán sạch một lèo cả hai thùng. Sớm nay ra ngõ gặp giai.

Trắt nghĩ, mà không dám đối đáp “Gặp gái thôi, nhưng mà được cái may”.

Tối hôm ấy, rồi quanh quẩn, Trắt lại lần về Hàng Hòm. Ngồi nín lặng, vẫn nghĩ về lúc sáng vào được trong cổng nhà đội Quang, được chuyện với người vợ lẽ chắc là bị đánh đuổi, hắt hủi ra đấy, lại được cái hẹn. Trắt cứ ngỡ ngàng không thể nghĩ ra trước được. Thế thì những ông đã ngồi đây có thể giúp một tay. Lúc thì bốc lên, nhưng rồi nghĩ lại, phải có cách rõ ràng. Cách thế nào thì cũng phải trèo tường lên dỡ ngói.

Nhưng không thấy ai trở lại. Mấy hôm nay vẫn chỉ đông đám thợ cối, thợ khắc, thợ thuộc da bò da trâu cho các nhà chủ ở Hà Trung, ở Hàng Da. Mãi quá nửa đêm mới thấy một người lò dò vào. Trắt nhận ra cái dáng cao lớn, cằm bạnh, cẳng chân dài như những người quen sông nước, chèo lái cả đời, vai ngực vạm vỡ hơn đôi bắp chân. Ngoài trời vẫn mưa sập sùi. Bước vào trong mái hiên, người ấy nhấc chiếc áo tơi lá sột soạt giống con gà đội mưa chạy vào chỗ ráo, rũ một cái. Nước bắn cả vào đám đương nằm ngủ sau cái giại đầu hiên, mà cứ làm như không, bọn kia cũng ngủ say, không biết.

Vừa vào, đã thì thào với lão quán. Trắt ngồi ngay đấy, nghe rõ, nhưng người kia cứ nói chẳng để ý, như người bên cạnh đã là chỗ quen biết.

- Khuya một mảy, tôi đem đến.

- Cái gì đã?

Khách cười hô hố.

- Của giời cho mà lại biết trước hả?

Lão quán gật gật.

- Cũng phải biết chứ. Nhỡ đem cái đầu lâu về thì để vào đâu, thối hoăng lên.

- Không, không. Gửi cái mới.

- Nói đùa vậy, cái mới hay cái sỏ người sỏ lợn cũng được.

Người ấy đứng dậy, toan đi. Trắt giơ chén.

- Ông anh cạn với em một chén cho ấm bụng. Mưa gió thế này.

Người nọ cúi nhìn Trắt rồi cười khà khà.

- À, chú mày, thằng lái dầu! Xem ra chú mày cũng nhớ bọn tớ đấy nhỉ. Nhưng mà tao cũng hỏi lại, mày là trương phiên khán thủ hay thủ túc lạnh Quang đấy? Khai thực ra, không thì ông xiên cho một nhát ngay.

Lão chủ quán nói:

- Đã bảo rồi, người tử tế mà. Chú ấy mong các ông đã mấy hôm.

Trắt nói:

- Ông anh cho đàn em theo với.

- Chú mày túng đói hay có thù ai?

- Thằng đội Quang...

- Đội Quang mới ở Sơn về được thăng chánh phó lãnh binh ấy a?

- Chính nó.

- Tao phải hỏi lại, mày đi rửa thù hay mày muốn vào ăn trộm nhà nó?

- Em trả thù.

- Cái thằng đội Quang ấy thì cả thiên hạ Sơn Tây, Kẻ Chợ này thù nó. Khéo đến lúc mày lọt được vào nhà nó thì đã có đứa chặt mất đầu nó rồi.

- Em đã vào được nhà nó.

- Có đứa dắt mối a?

Trắt lúng túng, ấp úng. Người kia nói luôn:

- Cái ả Tư phải không? Trông mặt chú mày tao đã biết bà già, gái tơ còn khối đứa chết mệt với chú này. Thằng bán dầu mà chấp chới đào hoa đấy! Đã thuổng cuốc với ả Tư được chưa?

- Không, em không phải lòng phải bề ai đâu, em còn cái thù phải...

- Bây giờ chú cần gì anh?

- Anh dạy em leo tường, moi vách, cậy cửa... Các ngón...

- Được, gì nữa?

- Thế thôi. Em nậy cửa vào buồng nó, em chặt đầu nó, xách ra.

- Không dễ như mày nói đâu.

- Phải học các anh đã. Rồi em vào nhà nó đương lúc có tiệc này.

- Ừ, nhưng mà mấy hôm, hôm nào nhà nó chả có tiệc.

- Em đã có...

- Cứ hú hí với ả Tư, vài đêm nằm đợi đấy, vội gì.

- Em đã có hẹn.

- Đã bảo có hẹn thế thì càng tốt.

- Lạy anh, em chỉ ước một điều.

- Được tao sẽ hộ mày.

Người ấy đi khỏi, ông lão quán nói:

- Hôm nọ tao đã kể. Trên bến Bỏi có một đám cướp tài lắm. Tiếng là đi ăn cướp nhưng không cướp của ai một đồng kẽm, một manh áo rách.

- Lạ nhỉ!

- Gầm giời có một đấy. Chỉ cướp cứu người giúp người.

- Thế lúc nãy bác ấy bảo xồi đem đến gửi...

- À, khi thì gửi tin, khi thì gửi người trọ.

- Chắc bác ấy là người cánh cướp trên bến Bỏi?

- Biết được!

Trắt đã biết thêm một tin lạ. Ngay từ lúc ấy, Trắt đã phấn chấn, quên cả chuyện về bàn với Cõi. Không, Trắt không quên, mà Trắt tưởng đến một sáng sớm kia, Trắt qua đò về đến nhà Cõi, Trắt cởi cái tay nải nâu, Trắt ném ra cái đầu lâu đội Quang. Trắt ngỡ như thật.

Trên tường thành Cửa Đông, Cửa Nam những tiếng trống điểm canh vọng lại. Các ông ăn sương, cái gì các ông cũng biết. Cả đến cái cô Tư hay giăng dện. Lai còn thế vậy. Các ông như thầy bói sáng, nói vanh vách. Có thể như thế, không thì sao chỉ chốc lát chẳng quen biết ra thế nào mà người ta đã đậm đà, đã cặn kẽ thế. Nhưng Trắt cũng chỉ thoáng nghĩ vậy. Từ giờ đến đầu phiên sau còn ối cái phải lo tính. Trước nhất được các ông dạy cho mấy miếng nhà nghề. Có lúc định gọi Cõi ra, nhưng lại thấy chưa đâu vào đâu, ra thêm bộn, mà không có cái ăn. Thế này là thấy mói rồi. Để xem đã.

Cái tiệc nhà ông đội Quang mừng được thăng chức chánh lãnh binh mà rộn cả đất Kẻ Chợ. Như làng vào đám, cỗ bàn linh đình trong nhà, rộn rã chèo hát ngoài sân suốt ngày đến đêm. Hai cánh cổng gỗ mở toang, không đóng im ỉm như mọi khi. Ngoài tường, đình liệu đốt suốt sáng. Dãy đèn dầu treo quanh các mái hiên thành một chuỗi sao sa. Người các phường quanh đấy nô nức vào xem hát, đông như hội.

Các quan đầu tỉnh, đầu hạt, dưới Đông lên, trên Đoài xuống khắp mặt, chốc chốc lại một đám khách mới. Ngựa đứng trong tàu chen chúc, đá nhau nhảy tung lên, phải buộc cả ra ngoài vườn. Những cái chân giá cáng đỡ võng nghỉ xếp chổng đống hai bên tường. Các quan lớn xuống võng, có ông áo thụng lam như vào buổi chầu. Những quan võ để râu ria ba chòm oai vệ áo gấm thắt lưng điều. Ngựa hay cáng tới, đoàn tùy tùng theo xách điếu, cầm hèo hoa, lại bưng những cái quả sơn son thếp vàng đựng đồ mừng - không phải buồng cau, trăm hồng Hạc, cam Canh, cam Cáo mà là những xếp bạc nén, vàng lá bọc giấy hồng điều trang kim phủ tấm nhung đỏ màu hoa hải đường, cả vàng bạc và nhung sắm ở các nhà khách buôn to bên Ô Quan Chưởng. Hai gia nhân chít khăn lượt, áo the, thắt lưng nhiễu bỏ giọt trịnh trọng bưng cái quả lên ngang vai, như khiêng long đình.

Tiếng pháo không lúc nào dứt. Thợ pháo làng Bình! Đà trong phủ Thanh Oai ra túc trực. Những cây pháo: dựng cao hơn ngọn cau, mỗi đêm pháo hoa đốt tua tủa ra ngũ sắc hoa cà hoa cải. Người ta đồn đến hội và những khao vọng ngoài kẻ Mọc kẻ Vẽ đất quan cũng chưa đâu vui bằng đám này.

Mọi toan tính của Trắt không kịp với những thuận; lợi đưa tới. Trắt chưa gặp lại được các ông ở đình Hàng Hòm, các ngón leo trèo, phá cổng, phá khóa chưa được biết thử. Ngày hẹn “phiên sau” với cô Tư đã sắp tới. Trắt lại nghĩ vơ vào. Xưa kia, Trắt cũng là tay quyền cước, tấn trung bình, chảo mã vững rồi phượng hoàng cũng ra miếng được như ai. Vả lại, hãy gặp cô Tư xem thế nào đã. Không do dự nữa. Có vào việc lại thấy nhiều cái đã định cứ phải xem lại từng ly từnq tý.

Đến đầu phiên chợ rồi, nhà đội Quang vẫn còn ăn uống, nhưng khách đã hết, chỉ còn những đám gia nhân và lính đánh cỗ vét. Bớt ồn ã nhiều, không như những hôm chính tiệc, tuy vậy người ra vào vẫn đông như đi xem chọi gà. Chỉ không còn pháo hoa Bình Đà, nhưng người hàng xứ vào sâu xem hát. Ba cánh phường Bắc được đón về thay nhau diễn ban ngày lại cả tối. Trà trộn vào lúc nào cũng được, nhưng Trắt cẩn thận làm như cô Tư đã dặn.

Trắt mặc cái áo chồi năm thân nhuộm cậy nâu sẫm, ống tay rộng như áo khách - lẫn với bọn tôi tớ nhà quan, lại như anh lái bè củ nâu, bè đó trên ngược mới về bến Bà Móc, lên dạo phường phố, chỗ nào thấy hay mắt cũng tạt vào. Trắt cốt mặc áo rộng để quấn được ngang lưng cái thừng đay, nhét được con dao bầu con dao bổ cau. Cứ sẵn sàng thế, nhỡ dùng đến đã sẵn. Thấy đông người, Trắt vừa lạ vừa mừng. Trắt đứng lại bên kia cổng, nhìn người ra vào.

Nhộn người thế này cũng tiện, cứ việc lũ lượt vào trong sân, tháo khoán rồi mà, chẳng nghe tiếng quát hỏi chửi bới nữa. Bọn lính tráng trèo cả lên chòi canh cổng đứng ngoảnh vào xem hát, mặc người chen nhau ở dưới. Một lúc, Trắt lững thững sang chỗ bờ ô rô như mọi người đi. Trắt để ý quả là chỗ bụi ô rô ấy, cày cáo chui đã thành một lỗ trống, thoạt trông tưởng tổ mối đùn đất đỏ.

Trông trước trông sau, Trắt cúi xuống, ôm hai tay giữ búi tóc, luồn thoắt qua bờ rào. Rồi trèo cái cầu noi lung lay vượt hào nước, Trắt lom khom qua bãi cỏ tranh, lên đứng núp vào lưng búi chuối, ngay cạnh cái chuồng gà. Đứng đấy nhìn ra mồn một rõ người đi bên ngoài. Trắt lé mắt vào nhà cô Tư, nhà buông cửa liếp trong, lại mành ngoài, tối như bưng. Cô ấy có trong nhà, hay đã vào ăn cỗ, hay ra sân xem phường chèo hát ban ngày vừa bắt đầu. Nhà đương nhộn nhịp thế này. Bất giác, Trắt thấy trợn. Tự dưng chui vào đây. Ngộ người ta bẫy mình thì sao?

Trắt ép mình đến cái vách bên cửa. Trắt mới giơ tay chưa kịp rờ vào, đã nghe tiếng hỏi ra:

- Đã đến à?

Rồi cánh cửa liếp kênh lên một bên.

- Vào, vào đi.

Trắt vừa bước qua ngưỡng cửa, chưa đứng vững, cô Tư đã kéo tay: “Dịch vào trong này, để buông cửa”. Rồi cô Tư thở thở, hỏi hỏi dồn. Líu ríu như chim liếu điếu hót rì rầm to nhỏ lúc mặt trời vừa lặn, Trắt chưa nghe rành ra câu gì. Bàn tay cô Tư vuốt vào lưng áo Trắt. Một tiếng kêu khẽ:

- Ối, cái gì thế này?

- Chiếc thừng thôi mà.

- Cả con dao, hai con dao, giời ơi!

Trắt giữ hai tay người đàn bà nóng hổi, đầm mồ hôi, và nói thong thả: “Tôi đã bảo hôm nọ với cô Tư thầy tôi mất mạng để nó được lên quan to thế này, cho nên vào cái lúc nó sung sướng, nó phải đền mạng. Thầy tôi, cũng là giời có mắt. Cái may run rủi tôi được gặp cô, cũng là giời xui khiến vậy”. Cô Tư rút tay trong tay Trắt ra. Những tơ tưởng vẩn vơ lúc nãy của cô Tư đã tiêu tan cả. Chỉ còn vang lên cái câu Trắt vừa nói, và những con dao, cái cuộn thừng thế này... Trong bóng tối gian nhà mờ mờ, người đàn bà đột nhiên ngồi gục đầu. Chốc lại ngửng mặt, không biết cô Tư khóc hay đương nhìn bóng Trắt. Những câu Trắt nói mỗi lúc một rợn.

- Tôi sẽ cắt đầu nó đem đi. Cho tôi cái tay nải...

- Anh ạ.

- Chỉ cho tôi biết hôm nay nó nằm buồng nào.

- Không vội được. Vội cũng không xong đâu. Trong nhà bây giờ đang bề bộn, mà cái thằng già ấy hay đa nghi, hay dáo dở, nó lắm chỗ ngủ lắm, mười mấy con đĩ mỗi con một buồng, cả một dãy buồng, phải lần khéo mới ra.

Trắt đã nổi nóng, quên cả những ý định lúc trước khi vào đây, hãy dò la xem sao. Trắt nói rít trong hàm răng:

- Để hôm khác a? Thế thì phí công quá.

- Không phải để hôm khác.

Trắt hăm hở:

- Mình bảo thế nào?

- Tôi đã trữ thức ăn đây, đợi đêm. Đến lúc ngoài sân tan hát tối thôi. Người xem về hết, trong nhà chè chén xong, lại như mọi hôm, chúng nó lăn ra ngủ như chết. Bấy giờ sẽ vào lần các cửa buồng. Không trông thấy nó vào, nhưng tôi đã biết cái lối, cái lệ nó đóng cửa buồng, đoán thì được.

- Cô đưa tôi vào à?

- Vâng.

- Cô Tư, cô Tư, tôi ơn...

Trên phản, cô Tư đã bày ra đĩa xôi, liễn thịt trâu tái bát tương gừng và một be rượu. Hai người ngồi ăn nhẩn nha, như trong buồng cô dâu chú rể. Trời đã tối lúc nào. Chợt, có tiếng gọi ngoài liếp:

- Bà Tư ơi, bà Tư!

“Chui xuống gầm giường nằm yên”, cô Tư thì thào như thở. Một lát không thấy gọi nữa. Tiếng chân lạo xạo bước ra. Có lẽ lính tuần định vào nhờ cái lửa hút điếu thuốc. Hay là đứa nào ở đám chèo vừa tan ra định nhập nhoạng vào bâng quơ. Họ tưởng cô Tư đã ngủ hay đi xem hát chưa về.

Đợi. Kỳ lạ, oái oăm lúc ấy giữa hai người. Trong gian nhà tối om, thỉnh thoảng người xem hát tối đã ra về, ánh đuốc loang loáng qua khe vách. Tiếng nhị, tiếng mõ, tiếng trống cơm đôi lúc còn inh ỏi như lúc giáo đầu, cả phường hát vỡ nước... bung bung nhóc... bung nhóc... bung nhóc..., nhưng tiếng trống chầu thì rời rạc - hát chèo không phải hát tuồng, mà hát tuồng thì cũng thế, ông cai, ông chánh, các ông chức việc rượu vào rồi vênh váo chen nhau ra ngồi cầm chầu nhưng chỉ một lúc, tiếng tùng, tiếng cắc đã loạc choạc rồi im, các cụi say khướt, mắt dip ngồi ngật ngưỡng, hay là đã vứt dùi trống, chúi đầu loạng choạng đi đâu rồi.

Người đàn bà vẫn nắm chặt tay Trắt, nhưng hễ động đến con dao bầu thì lại run bần bật. Có một người đàn ông, một người đàn bà trong góc nhà. Ai cũng cứ chợt mơ màng lại chợt tỉnh rồi chỉ còn tựa vào nhau, đợi cái sắp đến cứ nghĩ như xa xôi nhưng rõ ràng là khuya nay. Chốc chốc, Trắt lại ngoái tay rút con dao, chùi lưỡi dao vào ống tay áo rồi nghiêng tai nghe ngóng ngoài vách. Người đàn bà ôm chặt người đàn ông, nhưng mặt cũng lắng ra ngoài, hơi người sực lên ở bàn tay, ở vai áo cạnh cuộn thừng quấn quanh bụng, cái lưỡi dao bầu lạnh ngắt. Tất cả, đợi.

Người đi xem vãn dần rồi vãn hẳn. Chừng như đã khuya. Ngoài kia, tiếng vó ngựa xa xa rồi dồn dập lướt qua. Ngựa chạy đêm về trạm vào phía Cửa Nam. Chẳng mấy lúc, trên tường, trong chòi canh đã đổ mõ nửa đêm. Bắt đầu lại thanh vắng như khuya mọi khi.

Cô Tư đứng dậy.

- Anh ngồi đây, để tôi lên nghe thế nào.

Một lát, người đàn bà đã rón rén về.

- Nó ngủ buồng con Mười.

Trắt nắm lại cái thừng đay rồi rút con dao ra cầm tay. Trắt bước theo cô Tư. Chẳng rõ lối trong nhà này bao giờ, nhưng xăm xăm vội vã, chỉ nghe nói “nó ngủ buồng con Mười” đã như trông thấy, biết rồi. Người đàn bà đành phải đi đằng sau, chốc lại kéo lưng áo Trắt.

 Đầu tháng, lại ẩm ướt sương đêm, có lúc Trắt quay lại, chỉ thấy bóng cô Tư, Trắt yên chí như sắp đến nơi, lại cung cúc bước.

Ngôi nhà ngói bát vần hiện lên lù lù, hai người đi như chui vào bụng con voi, ngóc ngách, quanh quẩn. Đã hết cơn bối rối, cô Tư len lên trước Trắt. Bây giờ Trắt không hùng hục đi trước nữa. Đến một chỗ tối bưng, cô Tư cầm tay Trắt đặt vào cái cánh cửa. Trắt xòe tay lên mặt cánh cửa đã đóng cài then trong. Trắt đã săn cả -thói quen anh thợ đóng cối, cái lạt mà thiếu cũng đành ngồi chơi. Trắt moi trong cái cạp quần lá tọa ra một chiếc que đóm mỏng, lách vào khe, đẩy then.

Đâu đây, ngay sau nhà, những tiếng gà gáy canh một dồn dập. Đến lúc im, trống đầu canh trên chòi, người lính chợt tỉnh ngủ, cầm dùi đánh từng tiếng một, uể oải. Chiếc chốt cửa đã ngãng ra, kịch một cái xuống đất. Cửa mở hé, nhưng then rơi xuống khác nào sập cái bẫy chuột. Ở đâu bật ra tiếng quát giật giọng:

- Ai?

Tức khắc, tiếng mõ nổi khắp nơi. Những bó đuốc bập bung lên. Như đã rình sẵn, những đám người rùng rùng xô đến. Cả Trắt và cô Tư bị trói nghiến lại, không kịp quay lưng.

Lãnh Quang lè nhè ngái ngủ giọng rượu, ở trong buồng như bấy giờ mới thức giấc.

- Cái gì mà bay làm ầm nhà lên thế?

- Bẩm quan có động.

Lãnh Quang xộc ra, lưng thắt bó que, tay cầm con dao bảy sáng nhoáng. Dường như nó vẫn ngồi săn thế. Ánh lửa đuốc rừng rực. Cả lúc ngủ, quân ác này vẫn phòng xa thế hay nó vẫn giăng bẫy hàng đêm vậy. Trắt bị trói giật cánh khuỷu, cùng một dây với cô Tư bị đạp rụi xuống chân cột. Các tay súng, đại đao, đinh ba xỉa xuống, như rào chông sắt vây quanh.

Lãnh Quang làm như chưa trông thấy, dõng dạc hỏi:

- Sao, sao nào?

- Cái nhà Tư dắt đất cho thằng này nậy cửa.

- Cửa nào?

- Cửa buồng quan ạ. Mảnh tre nó lách gảy then ra, con nhặt được để làm chứng đây.

- Á!

Mấy người lính tâng công nhao nhao.

- Con đã nghi từ lúc tan hát cái nhà Tư ngoài ấy có khang khác, con gọi cửa thử.

- Bẩm quan con theo chúng nó từ ngoài sân.

Người trên chòi cổng lật ngửa dây trói rồi nói:

- À thằng bán dầu, cái thằng bán dầu hôm nọ đây. Thế có chết không!

Lãnh Quang nói thong thả:

- Hừ, con Tư rước giai vào ngủ rồi đem nhau đi giết tao. Thế thì tao tống cổ mày đi là phải. Đáng nhẽ phải chém đầu mày, tao chỉ đuổi mày ra ngoài ấy, tao cũng chưa đo hết được bụng dạ mày. Ha! Ha! Bay lấy rượu ra đây.

Một người nói:

- Nó giắt sẵn cuộn thừng trong lưng, nó còn đi ăn trộm nữa, thằng kẻ trộm này táo gan thật.

Trắt quát to:

- Tao không phải đứa trộm cướp. Tao...

Nếu không có lãnh Quang đứng đấy, nhiều người đã cười nhao nhao. Ai cũng há hoác miệng không thành tiếng. Nửa đêm nậy cửa, không trộm thì cướp, chứ còn không với có thế nào.

- Tao chỉ lấy cái đầu thằng đội [1] Quang!

- Á.

- Tao lấy cái đầu đội Quang đem lên Kệ tế thầy tao.

Lần này lãnh Quang “á” một tiếng như hét. Rồi rối rít quát:

- Bay! Bay đâu! Đem ra hai rọ, nhốt chúng nó vào rồi buộc đá ngay trước mặt tao. Khiêng đi trôi sông lập tức. Nhanh lên!

Lãnh Quang vừa sừng sộ lại vừa loạng quạng, liệu xiêu như hãi quá, tưởng tên cướp và con quỉ cái sắp dựng dứng lên, xông đến. Bấy giờ đã sang canh, nhưng còn mù mịt đêm dày. Trên không trung, những con vạc ăn đêm ở ngoài sông bay về ngang qua, buông từng tiếng rời rã. Xa xa, tiếng chim lợn sà xuống mặt nước tìm cá chết nổi đương bay lên, kêu éc éc rùng rợn báo điềm chết chóc đến nơi. Lãnh Quang vung con dao bảy như đỡ gạt người chém mình rồi cầm be lên tu ồng ộc, lại hét “Nhanh! Nhanh lên!” Bọn gia nhân đã vác tới hai cái rọ tre, ngã xuống, đẩy Trắt và cô Tư, mỗi người vào một rọ, trong bỏ sẵn mấy tảng đá rồi buộc lại.

- Vác đi, bỏ xuống sông Cái, đem ra tận giữa sông.

Nửa đêm, đoàn người khiêng rọ như khiêng cái võng vong đám ma, xung quanh dáo mác, đóm đuốc đùng đùng theo. Giữa khuya, vào qua Cửa Nam, ra bến Đá ngoài sông Cái.

Chỉ nghe tiếng nứa đuốc nổ lép bép, tiếng khóc rưng rức. Hai cái rọ bị ném sang chiếc đò ngang. Mấy chiếc đò nữa đã sẵn quanh đấy, xúm lại, cả đuốc cả người xô xuống, những chiếc đò bơi băng băng ra. Đã đến con nước giữa. Sông Cái vào mùa cạn, thành cát cao, nước miên man réo xiết. Không ai nói một tiếng. Nhưng cả ba bốn người ngồi áp đầu đuôi cái rọ. Bỗng thế nào mà Trắt quều được bàn tay sang cái rọ nhốt cô Tư. Một người giơ cái sào, định đập xuống, một người khác kéo vai, khẽ nói: “Mặc nó. Đằng nào nó cũng sắp chết rồi”.

Cả mấy người ngồi đò đều lầm rầm như khấn:

- Chúng tôi không làm nên tội. Các người đừng oán chúng tôi. Ân trả ân oán trả oán, thiên hạ sinh sự, chúng tôi không làm nên tội. Các người...

Thình lình, hai cái rọ bị đẩy lăn tùm xuống nước. Thuyền quay ngay mũi, vun vút lao vào bờ. Trên thành, trống vừa điểm canh năm, ngoài sông vẫn tối mờ mịt. Đám lính bước lên bãi, quỳ xuống cát, vái vọng xuống nước.

Lúc nãy, lãnh Quang luống cuống, bắt đem trôi sông ngay hai đứa không nhớ lột xống áo chúng nó ra xem còn dao búa gì không. Đằng lưng Trắt vẫn còn con dao bổ cau sắc mũi. Trắt oằn người cắt được cái dây trói từ lâu, đã quên vội thò tay ra. May mà những người lính cũng không phải đứa cố tình giết người. Bây giờ ở trong nước, Trắt quơ tay tìm cái rọ cô Tư. Nước réo ào ào, không thấy. Trắt dứt những cái lạt buộc nắp rọ, chui hẳn ra, ngoi lên mặt nước. Bốn phía mờ mờ hơi nước, hơi sương. Trắt lại lặn xuống chỗ đoán là vừa chui rọ ra. Trắt đạp chân, quạng tay. Cái rọ có đá chặn, khó trôi ngay. Nhưng chỉ thấy cát, đáy sông đương mùa kiệt, hai tai ù tiếng nước réo, cát cuốn trôi qua, phủ lên mặt. Thế này có lẽ cái rọ chuồi mất rồi. Trắt nổi lên, thờ thẫn vào bờ.

Tảng sáng, Trắt lại về đình Hàng Hòm. Ông lão quán vẫn ngồi hàng hay đã tựa vào cái thúng nổi nước mà ngủ ngồi, vừa mới mở mắt, ánh dầu chẩu nhấp nhoáng, trông ông gầy đét như pho tượng ông Nhịn Ăn ngồi ở dãy tượng La Hán trên chùa.

- Bố ơi! Có thấy cái ông hôm trước về đây không?

Ông lão hàng nước đứng dậy, trố mắt kèm nhèm.

- Ối, ông ấy vừa kể đội Quang cho lính đem mày bỏ rọ trôi sông lúc nửa đêm rồi mà.

Trắt rầu rĩ:

- Vâng ạ. Con chui dưới sông về đây.

- Quần áo rách bươm lại ướt như chuột lột thế kia, làm ngụm rượu rồi vào nằm cho lại người.

Cũng vẫn người thức, người ngái ngủ quanh chõng hàng, Trắt mặc. Thời buổi này, người cụt đầu, người chém nhau mất mạng, ngày ngày người chết như gà dây, chẳng ai để mắt - mà cũng sợ, bỗng dưng cái ách quàng vào cổ, người ta lảng nhau, ai hỏi thì lắc đầu, nói không biết. Trắt vắt lên dây cái áo ướt, cái quần chỉ còn một mảnh rồi cứ trần truồng tô hô chui vào ổ, kéo rơm lên kín mặt, ho sặc sụa.

Trắt thở khò khò như ngáy mà không tài nào chợp đi được. Nghĩ lại thương cô Tư chết oan. Oán thù chồng chất thế này, Trắt nghẹn trong cổ.

Trắt ngồi dậy, ướm cái quần rách, không mặc được mà cũng không thành cái khố. Chỉ còn cái áo chồi nâu xám xịt, ẩm sì như nhuộm thâm. Thế mà vẫn còn con dao bổ cau giắt trong áo. Trắt mặc áo, rồi rút cái khố đuôi lươn của ông quán. Quay ra hỏi nhưng lão đã vào cái ổ rơm bên kia từ lúc nào. Không biết đương nói mê hay ư ử rên quen miệng của người có tuổi.

Trắt ghé tai ông lão:

- Ông nói hộ ông ấy tối nay vào cái chỗ hôm qua đỡ cháu một tay. Nhớ tối nay.

Những ý nghĩ đau đớn giục Trắt đến quên cả suốt đêm qua chỉ đợi chết, đáng nhẽ Trắt đã chết. Trắt không mảy may còn nhớ thế. Trắt chỉ biết thế là đã thuộc đường đất, biết thung thổ, nó phải mất mạng. Bác Cõi, hôm nào em về thì em trói cái ma nó về, em thề với bác.

Rồi Trắt đi.

Chặp tối, Trắt đã trèo lên cây vông rồi chui bờ rào ô rô ngồi giữa đám cỏ tranh. Một lát thấy vắng, Trắt bò vào. Chòi canh hai đầu lặng tờ. Trắt như con nhái bén, đã qua được hào nước. Trắt kiểm lại, trên búi tóc giắt con dao bổ cau, cuộn thừng đay và con dao bầu mới. Ngước lên, chỗ nhà cỏ Tư chỉ còn tà một đống than âm ỉ khói. Bụi chuối đã bị đẵn trụi. Vại nước vỡ từng mảnh. Cái chuồng gà thì đứa nào đã khiêng mất. Trắt lẩm nhẩm: cô Tư sống khôn chết thiêng, cô Tư...

Trắt men sân đến cuối thềm nhà trên, leo lên núp trong cây nhãn lồng bùm tum góc ngoài bể nước ngay đầu vườn. Cũng đã chạng vạng, nhưng không ngờ vào được tận đây. Có lẽ giờ này những con chó săn, chó ngao canh đêm bọn lính còn chưa thả trong cũi ra. Ẩn trong cây nhãn rậm rạp, người đi lại trong nhà, buồng nào hiên nào cũng rõ mồn một. Kia kìa lãnh Quang. Lãnh Quang mặc áo lụa hoa cau, phanh dải áo bụng, ngồi uống rượu trên hiên nhà khách, hai lính hầu đứng dưới sân chốc chốc lại phảy một nhát quạt lông, ở nhà lãnh Quang chỉ ngồi chén một mình, cả chục người vợ cũng phải dọn mâm một lũ với nhau bên nhà ngang. Cái tính nó khoái chè chén thảnh thơi thế. Tinh mắt, còn nhận ra thập thò hai lính nữa cầm súng, đeo thanh đại đao canh ngoài cửa. Chắc nó mới cẩn thận hơn từ đêm qua.

Lãnh Quang đứng lên, ngất ngưởng ra. Những đĩa đèn dầu treo một dây trên hiên, ở nhà ngang, ả Mười đã đứng đợi sẵn, vội bước lên, đỡ lão vào cái buồng đầu nhà. Đến cửa, lãnh Quang đứng lại, rồi ngoắt lưng ra. Ả Mười bước tới. Lãnh Quang giơ chân đạp thốc một cái vào bụng ả. Ả nọ ngã lăn xuống thềm rồi cứ nằm úp mặt trong rãnh. Lãnh Quang hét:

- Con Chín đâu!

Một người đàn bà ở buồng cạnh đấy, ra giơ cánh tay dìu lão vào buồng. Cánh cửa khép lại. Ả Mười nằm lăn như chết dưới rãnh một lúc, rồi không biết vì đau không đứng lên được hay ả sợ quá, cứ bò lồm ngồm như con cún, lết xuống nhà ngang. Ngồi trong cây nhãn, Trắt nhìn được hết. Dần dần khuya, đèn các buồng và quanh hiên lần lượt tắt. Cả khu nhà ngập trong bóng tối. Vai áo Trắt đã ẩm. Trắt tụt trên cây nhãn xuống. Từ tối tới giờ, hơi người đã hả lẫn vào hơi sương, người như bóng ma. Các bợm đình Hàng Hòm nói phải. Đêm ở lâu ngoài trời, người lẫn vào sương. Khi nãy, những con chó dưới sân còn có lúc hích mũi đánh hơi quanh gốc nhãn, có túc Trắt đã toan tìm cách lủi, nhưng bây giờ người đứng ngay cạnh gốc cây, những con chó vẫn ngồi, không nhúc nhích, mõm hếch ra phía cổng. Không một tiếng chó sủa. Rồi mấy con chó rỗi rãi quần đùa nhau huỳnh huỵch giữa sân. Trắt lướt qua sau lưng cấy rơm, đàn chó vẫn mải vờn nhau.

Trắt bò lên thềm, bíu cái cột hiên rồi lần vào vách buồng. Đích xác cái ả Chín dắt nó vào buồng nầy. Quang đèn dầu trẩu ngoài kia đã cạn, chỉ còn khói bốc khét lẹt đưa vào. Vài bước cũng tối mò. Người ngủ, tiếng thở, tiếng ngáy, tiếng cựa mình trong các buồng rập rờn thoảng ra.

Trắt ngồi xổm, nghe ngóng, rồi khác đêm trước Trắt nhảy thoắt lên cửa buồng ả Chín. Trắt lại lách mảnh tre cật mỏng như cái lạt vào khe cửa, nhẹ nhàng nhích dần chiếc then ở trong.

Xung quanh im phăng phắc. Cánh cửa lỏng then, hũm vào rồi doãng ra. Cho khỏi vướng, Trắt thò hẳn tay, nắm được, đẩy khẽ.

Bỗng hai cánh cửa toang ra. Bất thần, một suýt thì Trắt ngã đâm đầu vào. Nhưng một cái đá thúc, hất Trắt té ngửa ra ngoài hiên.

- Trộm! Trộm!

Lập tức, người ở đâu xô đến ngay. Những bó đuốc bật tức khắc, trong khi bọn lính tuần đêm đã bẻ quặt tay Trắt ra sau lưng, trói ngồi vào chân cột.

- A! Lại thằng bán dầu hôm qua!

- Nó chết rồi cơ mà?

Cái thằng bán dầu đêm qua đã đem trôi sông! Khiếp quá, lãnh Quang kêu lên, nhiều người mới la lối theo. Nhưng vừa kêu vừa nhớn nhác:

- Ối giời ôi, con ma...

-... Con ma thằng bán dầu.

- Nó chết trôi sông rồi mà...

- Ma à? Còn con ma Tư kia kìa...

- Chết! Chết!

Thì ra, lúc nãy vào trong buồng, lãnh Quang cũng như ngủ, như rình. Nhảy trong buồng ra, mà không phải áo lụa năm thân phanh bụng ra như chặp tối, lãnh Quang áo chẽn, thắt lưng nhiễu thâm, quần chồi thâm buông lá tọa, lại giày Tàu cẩn thận, tay lăm lăm con dao bảy. Đủ lệ bộ bằng đi trận. Lúc nào lão cũng giữ gáy. Lão ngủ chỉ nhắm một mắt, có nhẽ. Lúc cánh cửa hé, trong buồng ngoài sân vẫn tối thui, nhưng có một làn gió lành lạnh khác thường thoảng vào. Lão hất ả Chín xuống đất, ngồi ngay dậy. Chính lãnh Quang đá tống Trắt ngã ngửa ra, rồi kêu “trộm”.

Lãnh Quang chống con dao bảy, mặt phừng phừng, nhòm xuống Trắt.

Trắt giãy giụa, gào:

- Tao đây, tao không phải ma, tao là người, tao đến lấy đầu thằng đội Quang đem lên Kệ tế thầy đây. Các đồng môn đương đợi tao đem đầu mày về, đầu mày đâu, đầu con chó đội Quang đâu?

Lãnh Quang đứng yên, con dao bảy rơi xuống cạch một cái mà không biết. Tiếng hò hét của Trắt như điên, nhưng lãnh Quang còn điên hơn. Lãnh Quang nhặt con dao, tựa lưng vào vách, như sắp ngã.

Không ả Chín, ả Tám nào dám đến đỡ. Mỗi câu Trắt thét “Đầu mày đâu?” lại đẩy con dao bảy trong tay lãnh Quang quờ quạng vung lên, chém chát chát vào cột, vào vách. Lãnh Quang phát rồ rồi. Không ai dám đến gần. Trắt thì cứ nhảy như con ếch bị buộc dưới chân cột. Những cửa buồng quanh đấy đóng lại hết. Bọn lính lủi cả ra sân. Cái hãi, cái hóa dại của lãnh Quang đương cơn, con dao bảy ấy chém loạn lên vào đầu vào tai bây giờ!

Lãnh Quang hỏi to:

- Đứa nào đêm qua đem thằng này trôi sông? Ra ông xem mặt, những đứa nào?

Ba, bốn người rúm ró đùn đẩy nhau đến cạnh ánh đuốc. Lãnh Quang nói, lần này nhẹ nhàng tỉnh như không:

- Ba thằng, bốn thằng, còn thằng nào nữa? Hai thằng kia vào đem ra bốn cái rọ. Bỏ rọ chúng mày đã. Mai ban ngày ban mặt, ông xử xem tội xổng tù hay thả tù.

Bốn cái rọ được xách ra, bốn người lính bị đẩy vào. Bốn cái rọ khiêng ra treo vào cành cây sau vườn. Lãnh Quang lơ láo đảo mắt nhìn quanh rồi bỗng hét rền như sấm:

- Đem chôn sống thằng này ngoài vườn. Chôn ngay cho tao trông thấy.

Đèn đuốc ra sáng cả vườn nhãn, một chốc đã đào xong gần bờ rào ô rô, một cái huyệt loang lổ đất.

Những sợi dây mây trói cả hai tay, hai chân Trắt. Chiếc đòn ống khiêng bổng lên như vừa bắt con lợn trong chuồng ra. Lãnh Quang quẳng cái áo chồi, trần lưng ra, ngửa mặt, tu cả be rượu còn lại rồi quẳng be xuống cái hố huyệt, rên hừ hừ, trong khi Trắt nằm ngửa mặt trên đống đất, vẫn sa sả:

- Ông chặt đầu mày. Mày kề cổ ra đây. Thầy ông, anh em ông đương đợi ông vác đầu mày về. Đầu thằng... đầu...

- Chôn ngay! Chôn đứng!

Trắt bị ném huỵch vào hố. Đất rào rào lấp xuống như dội mưa. Phút chốc con người đã bị vùi biến, mặt đất lại phẳng như lúc nãy.

Mọi người lật đật về, như sợ ma đuổi. Lãnh Quang nhớn nhác chạy trước. Như hãi cái hồn người ngoi lên bíu lại. Vào đến trong hiên, lãnh Quang lại rối rít: sao chúng mày chôn nhanh thế hay đấy là cái bóng thằng trôi sông, không phải, nó còn rủa tao đến tận lúc hạ huyệt...

Càng khiếp đảm, lãnh Quang đâm vào buồng con vợ nào chẳng biết. Lãnh Quang hét lấy cái khóa đuôi chuột to, khóa trái lại, khóa trái... Ngoài kia, khu vườn đã tối om sương mờ phủ.

Lúc ấy, hai cái bóng trên cây nhãn nhảy ngay xuống. Không biết những mũi dao, những nhát thuổng hay tay bới thoăn thoắt. Chỉ một loáng đã lôi được một cái bóng trong lỗ ra.

- Em... em...

- Im!

Ba người đi về phía mấy con trâu tiệc còn lại buộc đằng góc vườn. Trên chòi canh vẳng ra tiếng mõ. Bọn lính tuần, cả đàn chó ngao dường như chưa hoàn hồn từ lúc đào huyệt chôn sống người, cả đám xúm lại giữa sân như một đống rạ. Chỉ những con trâu không biết gì đang đánh sừng cộc cộc vào gốc cây như tiếng ban chiều mõ đạc ở cổ trâu.

Ba con trâu được cởi thừng mũi ra. Người cưỡi cúi rạp, bàn tay vỗ hai bên yếm cổ. Những con trâu lồng dựng đứng, lội ào ào qua hào, nhảy húc đổ một quãng đường đất, bật rễ chỗ rào ô rô, gãy ngang một thân cây vông. Những con trâu cong lưng băng băng bôn trong đêm, như những con trâu điên.

Bấy giờ, trong nhà lãnh Quang còn điên hơn. Tiếng lội hào, tường đổ ầm ầm ngoài kia đã dựng người dậy. Đèn đuốc lao xao dọi ra vườn. Mấy con trâu còn lại, đã tụt hết thừng mũi bồn lộp cộp cả lên sân gạch. Chỗ vừa chôn người, đất bị bới tung, còn trơ lại cái hố. Thằng bán dầu mới bị chôn đã biến mất. Bọn lính chạy dạt vào rồi lại men ra. Trâu lóa mắt húc cả vào người, vào đuốc. Rối tinh lên.

Lãnh Quang lom khom đứng, mắt trợn cắm xuống cái hố đất loang lổ. Rồi, chẳng nói chẳng rằng, như ma đuổi, lại đâm bổ vào một buồng. Lãnh Quang vừa thấy thằng bán dầu cầm con dao xông tới. Ngoài vườn, trong sân, đàn trâu vẫn chạy tứ tung lẫn với người. Lãnh Quang lại nhìn thấy thằng bán dầu, kia kìa. Lãnh Quang đóng sập cửa. Rồi nằm thẳng cẳng trên giường.

Ánh đèn dầu lạc vừa khêu bấc, lãnh Quang cũng chưa kịp nhìn mặt nó là con vợ nào, lãnh Quang đẩy bắn nó xuống chỗ xó luồn góc nhà. Lãnh Quang lại chồm lên, mở cửa rồi quay lại hét:

- Xách quang đèn ra đây.

Đứng trước thềm, lãnh Quang vung con dao bảy.

- Cái Ba, cái Năm, lên đây. Vào thành trình quan Tổng đốc, xin quan cho lệnh truy nã thằng bán dầu, hỏa tốc. Bắt được... bắt được...

Rồi thở hổn hển, ngồi bệt xuống. Cô Chín, cô Tám mon men đến, xốc nách lãnh Quang đứng lên.

Buổi sáng ấy, cũng bình thường như mọi ngày, chợ Cầu Dền, chợ Dừa, chợ Cửa Nam tấp nập hơn, vì ngày phiên. Dưa cải, từng bó củ trắng nõn bên thúng cà chua đỏ ối như nhót chín, từ trong làng kĩu kịt quảy ra. Lại sắp vào cuối năm hanh hao, trên các bãi hoang dưới bờ tre, ở những chân ruộng đã gặt quang, những cây lá bánh khúc đã chớm trổ hoa. Thoạt trông, tưởng đàn bướm vàng về nhầm mùa. Sương sớm đọng trên lá khúc long lanh như hạt nước. Lũ trẻ hái lá khúc, sương ướt bắn li ti lên bờm tóc. Người chợ búa, người tất tả công việc. Gặt hái đã xong, ngoài đồng rặt những đống khói chân rạ của trẻ chăn trâu đốt hun chuột. Chợ Bưởi chợ Canh lại sắp vào những phiên cuối năm, bán tranh gà lợn Kim Hoàng, có chợ trâu bò cho người mua về đụng thịt ăn Tết. Trong trạm Hà Trung phóng ra một con ngựa chạy công văn hỏa tốc, bụi lầm suốt đường Hàng cỏ ra ngoài ô Đồng Lầm.

Cả ba con trâu được tròng thừng vào cổ, đứng nghênh ngang trước thềm đình Hàng Hòm. Nghỉ lại phường này mấy hôm cũng chẳng bận đến ai. Buộc ra bãi cho gặm cỏ, trâu bò đem bán chợ hay cho đi làm mùa, của nhà người ta hay của ăn trộm đem về qua, thì cũng thường thấy.

- Chú làm nốt bát rượu ấy rồi Lại vào trong đình mà ngủ cho lại sức. Nằm dưới đất khí lạnh liễm vào, dễ ốm. Này lão quán hôm nay dọn hàng sớm, dắt một con trâu ra bờ hồ mà thui. Tùy lão, phần bán phần để chén, tối nay khao.

Hôm sau, lão quán bảo Trắt:

- Hai con trâu kia, các ông ấy nhủ rằng cho mày đem về làng. Trâu này còn làm đồng được, cày bừa được, thịt thì phí.

Chú thích:

[1] Mặc dù đội Quang đã lên chức quan lãnh, nhưng một số học trò của Cao Bá Quát vẫn gọi hắn là thằng đội, tỏ ý khinh miệt.