Kẻ Cướp Bến Bỏi

Chương III

Docsach24.com

ài ca cái roi song

(Đằng tiên ca)

Sau hôm rằm tháng chín, khí trời đã dịu

Mặt trời u ám, ban mai không có ánh sáng

Người bị giam xù đầu ngồi trên giường gãy

Gió lạnh buốt thổi phần phật vào áo quần

Chợt có lính của bộ đến, tiếng lanh lảnh

Gọi ra thúc giục đến công đường

Đứng dậy mang gông đi theo

Khăn rách xốc xếch chân bước vội vàng

Lúc vào cửa có lính canh ngục kèm hai bên

Người ở kinh đô ngơ ngác đứng xem, vây kín như bức tường

Các quan lớn ngồi trên, dưới có một viên quan nhỏ

Gọi bày những hình cụ bày ra la liệt

Có cái roi song to, dài thật là dài

Da nó tía, mình nó cứng, uốn nó lại thẳng đờ ra

Người bị tội nằm duỗi, sợ hãi xanh xám

Đầu quay nghiêng, mặt lấm lét, như con dê hoảng hốt

Chân tay căng thẳng, hai mắt quáng lên

Lúc đó sau trận mưa, hơi thấp độc xông lên đến bàng quang

Giờ lâu bị tra hỏi, miệng không nói được

Chỉ khan vã kêu: “Oan! Oan!” và gào trời

Quan thét lên như tiếng sét rung cả rường nhà

Roi quất nhoang nhoáng bay đi liệng lại như ánh chớp

Lúc giơ lên như hai con thuồng luồng quật vào bờ ao lở

Lúc ngừng như nước lạnh đổ vào nồi nước sôi

Hai cái nọc đứng sững, có vẻ vững chắc

Tiếng rên rỉ vang quanh dãy hành lang

Than ôi! Cành hoa hải đường đương xuân

Bị bẻ tan nát không kể gì đến hương thơm, ở Xương Châu nữa

Bấy giờ đã muộn, trời sâm sẩm tối

Ở nơi góc đài, những giọt sương trong cũng vì ta mà bay lên

Roi song rũ xuống thôi không hăng hái như trước nữa

Chắp tay đứng, ruột mềm quặn lại như cuốn được vào ngón tay

Được, mất do mệnh là sự thường

Ta cũng mày mặt như mọi người việc gì mà đau thương

Ơn nhà, nợ nước chưa chút đền đáp

Là người dũng cảm, đâu có chịu chết ở nơi văn tự

Chao ôi, roi song ôi

Mày không thấy:

Ở phía nam sông Đức Giang ở đỉnh núi Nguyệt Hằng

Trên đó cây tùng, cay bách chết một nửa

Nhưng vẫn đứng trơ trơ giữa trời rét mướt

Ví phỏng có người thợ giỏi, biết dùng không bỏ nó

Thì những hạng cây như bồ kếp và chương não kia đáng kể vào đâu

Vậy mà còn đốn chặt nó thì có đáng không.

Vũ Khiêu (dịch nghĩa)

Ngày 17 tháng Mười, sau khi bộ Lễ tra tấn nghiêm ngặt, nhịn đau viết luôn bốn bài

(Thất nguyệt thập thất nhật, thừa Lễ bộ nghiêm tấn hậu, cưỡng bệnh mãn chí tứ thủ)

Sấm gầm chớp giật trơ trọi một thân

Bạn quen trông thấy sợ không dám gọi

Khiêng về, bỗng mê man như trong cơn mưa gió ác liệt

Tỉnh lại thấy tiếng nói khác thường

Nửa đời thân phận mỏng manh nghĩ những chuyện gân gà mà thương

Mười phần chết chín, tấm lòng chua xót, tưởng đến râu hùm mà sợ

Đa tạ chú bộc cũ nhà họ Tiêu

Đã khóc lóc đem những lời ôn tồn mà yên ủi thân này.

Nguyễn văn Tú (dịch nghĩa)

* * *

Trắt ở bên kia sông về. Nhưng Trắt còn dắt trâu ra chợ bán. Bán trâu, được tiền, dễ chạy ra việc, chứ bây giờ cũng chẳng bụng dạ nào mà lo đồng áng. Chặp tối Trắt mới về đến nhà Cõi. Trắt vẫn đóng cái khố một, mặc cái áo nâu đêm trước, bùn rong trâu bết lên tận bẹn, tận mặt, như vừa lội dưới đồng sâu lên. Đã nhập nhoạng tối mả những con chó từ đầu làng xuống cuối xóm đồng chỉ sủa hoáng vu vơ. Cái mùi bùn, phân trâu chó đánh hơi được ở người hàng ngày. Những con chó nhà không nhận được mặt, nhưng cũng là quen thuộc nên chỉ cắn hóng.

Thoạt trông ra, Cõi chỉ thấy người giống mang máng.

- Trắt đấy phải khõng?

Trắt đã vào bên bậu cửa. Những mảnh bùn trên cổ, trên bẹn, ống chân đã khô róc ra. Cả chiều, cả đêm hôm kia đánh chén, ngủ vùi, mồ hôi nhày nhụa trên mặt, những đám bùn bắn lúc lội qua hào, lúc trâu bồn trên đường, lại cả ngày hôm nay lặn lội đuổi trâu, đánh trâu ra chợ, các lớp bùn bết lại rồi khô, lúc bám lúc rơi, bây giờ mới rời ra từng miếng như bóc. Cõi kêu lên:

- Ô, sao thế này?

Trắt cười:

- Giống thổ công, vua bếp, không nhận ra hả? Bị trôi sông, bị chôn sống, chẳng ngờ hãy còn về được.

- Lấy quần áo tao mà mặc cho khô. Tớ đi kiếm cái nhắm.

- Có tiền đây, cầm đi mà mua.

- Khoan đã. Chui vào ổ rơm đi, run cầm cập kìa.

- Thế bác gái đâu?

- Biết được nó đi đâu!

Lúc ấy, mụ Cõi vừa mới về, đứng ngoài mái tranh đằng hắng nói trống không cốt cho trong nhà nghe tiếng.

- Lại quân ăn tàn phá hại nào đấy!

Cái mừng Trắt về đã át cơn tức, Cõi quên cho mụ ác khẩu một quả thụi. Cõi cung cúc đi. Mụ Cõi cũng chẳng nhìn rõ mặt Trắt. Chỉ thấy cái hình thù đen nhẻm, như lội dưới bùn lên, mụ đoán thằng kẻ trộm này mò ở đâu về, trơ trụi thế chắc chẳng được cái qué gì. Mụ lẳng lặng như trong nhà không người, mụ vào bếp thổi đống dấm. Ánh lửa nhen lom dom rồi mụ cũng ngồi nguyên đấy.

Một lát, Cõi về, dựng huỵch chiếc gậy, lở cả một mảnh vách trấu. Lúc đi, Cõi định bụng hỏi nhà ai cho vay con gà - đôi khi vẫn thế, rồi Cõi trả sòng phẳng. Không thì cũng bất cần, thấy gà chưa lên chuồng thì quơ một con. Cõi không có thói gà què ăn quẩn, túng quá mới mượn, khi có lại đền, cười hề hề. Nhưng số ăn mày, chẳng được cóc khô gì. Đã tối, trời lại trở gió, cổng tán nhà nào cũng buông kín. Mụ Cõi ngồi trong bếp, cũng đoán chồng đi mõi gà. Mụ vốn háu ăn. Mụ đã lấy cái nồi đất, rút rơm đun nước sần để làm lông gà. Rõ chưa bắt được ếch đã ngả thớt. Cõi trông thấy lửa lom đom trong bếp, cũng đoán mụ đun nước làm gà, nghĩ cười thầm con mụ chết đói, nhưng Cõi không vào bếp, Cõi không biết mụ đã vùi cái ngô nướng trong đống tro.

Trắt đã rúc vào ổ lá chuối khô, ngủ ngáy khò khò. Cõi để yên, Cõi mò xuống bếp.

- Nhà mày ăn vụng cái gì đấy?

Mụ hỏi lại:

- Ai trên nhà thế?

- Chú Trắt.

- Đi biệt tăm mấy phiên chợ mà về tay không a?

- Xà, rõ nhà mày...

Mụ hỏi một câu lửng:

- Bảo đi kiếm cái nhắm kia mà? Được gì không?

- Được cái con bòi đây này.

Mụ cười khành khạch. Cõi đùa:

- Tại nhà mày đun nước trước đấy. Đi câu cá mà bảo là đi câu, sẵn lửa củi, thì có mà ăn mày.

Mụ Cõi nghiêm mặt, nói:

- Hỏi thật đấy, tưởng dạo này chú ấy đi ăn trộm? Có thế mới phải tối mò mới về, lại ướt như ngã xuống ao. Khéo nó còn giấu, chứ vác bạc nén về không biết chừng. Hỏi xem.

- Lúc nãy nó cũng bảo cầm tiền mà đi mua cái ăn, chắc nó có. Chuyện còn dài lắm, tao cũng chưa kịp hỏi. Bây giờ có gì ăn không?

Mụ Cõi ngỡ đã đoán đúng chồng biết Trắt có của nả thế nào, mụ đấu dịu:

- Niêu tép mới đánh dặm hôm qua, được không?

- Ừ nhỉ? Thế thì ù đi mua cho xó rượu rồi về bờ rào sờ sẫm quả ớt, cố nhìn mấy quả ổi chiêm ngay đấy, rượu với ổi chấm muối ớt được. Cá dấm, tép kho thì chết cơm rồi. Được, được...

- Chỉ hươu vượn tán ăn. Nhấc niêu cá trong đống tro ra, để bắc nồi thổi cơm. Mà nhà hết gạo, còn có mẹt tấm mới sảy hôm nọ.

- Tấm cám được tất! Mà thôi, đêm hôm thế này để tao lại đi vậy.

Mụ Cõi nghiêm mặt nguýt một cái rồi đẩy nắm rạ vào bếp. Không mấy khi mụ dễ sai, lại không nói cục và ngoan làm thế.

Ở vùng đồng trũng cả đời sũng nước này hiếm hạt thóc, nhưng được cái dễ vơ váo. Con nhái, con chẫu, lá mùng tơi, cây dền cơm, đâu cũng sẵn. Ra đồng người nào cũng đeo cái giỏ, cái ống, lại sẵn mấy cái lạt. Khi về, cái lạt xâu con ếch, con rắn nước, ngửa nón ra thấy quả bàng, quả nhót, nắm lá mảnh bát nấu bát canh láo nháo. Cái giỏ đựng con cua, con trạch, bọn mài mại, săn sắt thì dốc vào cái chĩnh đậy tàu lá cọ, trong đã lót muối sẵn. Tháng tháng đổ chĩnh chắt hết cá mú đã ngấu đem bỏ vào nồi, nước cáy với giềng cả miếng, trát bùn quanh nồi, quấn rơm hầm cả đêm. Sáng ra, nồi kho đã nục như bánh đúc ngô. Cái nước cáy ăn quanh năm, ngọt hơn mật. Một tay mụ Cõi làm nên cái ăn cái uống. Thằng chồng nợ đời lúc nào cũng lầm lầm như chó ăn vụng bột, như đứa chết rồi, lại đòi đi ăn trộm gà, cái lông gà chẳng được, về lại hét cơm hét rượu. Nhưng mà có nhẽ thằng Trắt có tiền!

Cõi lên gian trên, đã thấy Trắt ngồi bó gối, sột soạt giữa đống lá khô. Không biết Trắt tỉnh ngủ ngồi dậy hay đương cơn hốt hoảng, như con đồng môi mới ốp, đầu đảo lắc lư. Thấy thế, Cõi nán lại, chưa đi vội.

Cõi lay vai Trắt. Trắt nhớn nhác kêu:

- Ối!

- Mê ngủ à?

- Đây là đâu? Đình Hàng Hòm hả?

- Ở nhà rồi, ở nhà...

“Ở nhà rồi” - Trắt lẩm nhẩm nhắc lại, như chưa tan cơn bàng hoàng. Bao nhiêu khúc sống, khúc chết, Trắt đã về được đến đây, nhưng từ cái đêm chui từ dưới đất lên ấy, đi đâu, làm gì, ăn uống gì, Trắt biết cả lại cũng quên cả. Vẫn nửa tỉnh nửa mê.

Trắt nói:

- Chết ngạt rồi, tắc mũi rồi.

- Vẫn sống nhăn răng ra đấy thôi.

- Nó đã đem chôn tôi, tôi chết rồi...

Nồi cơm gạo tấm mụ Cõi đã bắc lên. Một mình Trắt lùa cơm không, vét sạch. Nóng giãy môi mà không biết. Hết cả nồi, chưa đụng đến niêu tép. Ăn xong, Trắt nằm ngửa, vật hai cánh tay xuống, bụng kênh lên, trợn mắt, thở phì phọc. Như người bội thực chết đến nơi.

Cõi như không để ý, bấy giờ mới lủi ra ngoài trời tối. Trắt thẳng cẳng một lát, lại gà gà mắt ngủ. Mụ Cõi lại đã đoán chồng đi đâu. Mụ đem cái nồi đất đã nhăn cơm ra vại múc nước vào bắc lên bếp. Lại nhác mắt tìm cái thớt con dao phay. Mụ chẳng để ý câu hèm đi câu, đi đơm lúc nãy chồng nói. Mụ đã trông thấy cái hầu bao của Trắt để cạnh ổ lá chuối khô, ló cái bẹ mo cau, hằn vệt những xâu tiền kẽm.

Cõi lại đã lù lù về. Tay cầm be rượu, tay xách con gà trống đã bị bóp họng, mào lỉu xuống, nhưng cái mỏ vẫn ngoác như giật mình sắp quang quác vỗ cánh kêu thì bị chịt cổ. Lúc này vào trộm gà nhà người ta thì phải chui rào. Nhưng mụ Cõi chẳng hỏi, lẳng lặng đun nước sôi vặt lông gà. Cõi rót rượu. Trắt đã lại ngất ngư ngồi lên. Cơm lèn vào rồi, ngửi thấy hơi rượu, mới thật lại người.

Nửa đêm, vẫn lỉnh kỉnh chén chú chén anh. Cơn thảng thốt đã nguội hẳn, Trắt mới giật mình. Mê man thế mà sao Trắt biết ra chợ bán được trâu, lại lần mò được về đến đây. Nhưng rồi dần dà, chắp nối lại, Trắt kể cho Cõi nghe từ hôm Cõi về, Trắt đi bán dầu...

Đến gà gáy, Trắt lại lăn ra ngủ. Mấy hôm, ăn cơm xong, lại ngủ. Một buổi tối, Trắt nói tỉnh táo:

- Tôi định thế này. Tôi định lại ra đình Hàng Hòm. Ta phải có cánh, cánh to, cánh vững mới được. Tôi mà còn sống là nhờ anh em bên Bắc Bỏi kia. Nhiều người các nơi theo về với Bắc Bỏi rồi. Không phải kẻ cướp, không phải tướng cướp như thiên hạ đồn đại, đây là những người cứu nhân độ thế. Anh em ấy sẽ giúp ta.

- Đã đành các ông ấy là người trọng nghĩa. Nhưng mối thù của anh em ta, thì ta phải lo.

- Phải, là việc của ta. Nhưng mà đấy, không có người đỡ một tay thì em đã ngỏm rồi.

- Chịu thầy, chịu thầy. Chú biết hơn tôi, vậy bây giờ thì làm sao?

- Như thế này...

Những chuyện tày đình tính đếm giằng co có lúc tức tốc rồi lại phân vân, chẳng khác tháng tám tháng chín ngắn ngủi, không biết trời trở lại nắng nôi hay đã sang mùa gió bấc nổi. Mùa màng sông nước cũng nhấp phỏng cái đói ngày ba tháng tám bao phủ xóm làng. Đã sang cuối tháng tám lại như đang còn, không biết ngày mai nóng nực hay mưa dầm, cũng chưa dứt những trận mưa rào. Chỉ còn ấm áp khoảnh khắc, mà lúa ra giêng ngùn ngụt xanh khắp các ruộng cao gần chân tre. Những khóm xương rồng ông lủa tủa quanh bờ cái giếng đất trước cửa đền, hoa lốm đốm vàng hây như đĩa xôi đậu. Bỗng dưng, tiếng sấm rền chân trời hệt những đêm đầu mùa hạ. Nhưng không phải chớp bể mưa nguồn đâu đâu, một cơn gió đùng đùng tới cây cối điên đảo như phải bão rớt, nhưng rồi sấm chớp nối theo ầm ầm. Đây là trận mưa cuối mùa hạ còn sót lại, trong đêm tối, vật vã trên các khoanh tre, bờ rào và cánh đồng.

Mỗi cơn gió giật những tàu cau đổ đùng xuống, ánh chớp ngoài bậu cửa xanh lè hắt vào. Vẫn thấy hai người âm thầm ngồi. Tất cả những cái đói, cái hốt hoảng như mê như tỉnh của Trắt thì những chén rượu đã đuổi bạt từ lâu, từ sau lúc Trắt đã kể ngọn ngành mọi sự việc, lại còn tính xa những việc mới. Be rượu đã lăn lóc giữa đống xương gà cạnh đĩa muối. Họ chẳng say cũng không buồn ngủ. Những ngày đêm khủng khiếp của Trắt vừa qua đã khiến hai người tỉnh như sáo, cứ đăm đắm nghĩ chưa ra thế nào. Một lằn chớp ngoằng xuống xanh lét, tiếng sét đánh ngay đâu trên ngọn tre.

Cõi gọi vào trong bếp:

- Mùi khét lắm. Sét đánh ngoài bụi tre đây thôi. Nhà mày dậy chịu khó ra xem có con cò nào sợ sét rơi xuống thì nhặt về ta làm nồi cháo gạo tấm. Cái cháo cò giã rượu đấy. Dễ đến sang canh rồi.

Mụ Cõi lổm cồm bò trong ổ ra, đội cái rổ sáo lên đầu tránh mưa, biến ra sân. Cõi nhìn theo, nói:

- Có nhẽ con mẹ này vẫn nằm nghe chuyện. Nó cứ đòi giữ cái hầu bao tiền bán trâu của chú. Nó mà cầm tiền thì bằng gió vào nhà trống. Mai phải đuổi nó đi đâu, nó là đứa trống mồm lại hay gàn quải. Nện cho luôn mà không chừa. Của nợ!

Trắt vươn vai, ngáp:

- Em chưa có cảnh vợ con, chẳng biết thế nào. Nhưng thế nào thì cũng phải bớt thượng cẳng chân hạ cẳng tay, ông anh ạ.

Rồi lại nói:

- Tính chẳng ra, ngáp sái quai hàm mà cái ngủ không đến cho.

- Chú cứ đi nằm. Mai lại bàn xem thế nào.

Nói thế, nhưng hai người vẫn ngồi ngật ngưỡng, có lúc tựa vảo cột tre, nghe răng rắc trên mái ọp ẹp. Ngoài kia, mưa đã dứt hạt. Từng cơn gió nhẹ lướt qua, nước đọng trên những tàu cau, bụi chuối, ào ào trút xuống. Những bụi tre kẽo kẹt đưa võng đã chui xuống từ lúc mưa gió to, cái nhà cột tre xiêu xiêu như người rượu say.

- Khi nãy ấy mà, mò vào cái chuồng gà đầu xóm, tớ bóp cổ con gà không kịp quéc một tiếng. Sau lại rứt nắm lông cánh, lông cổ rắc ra đằng bờ chuôm, làm như gà bị con cày con cáo tha ra ngoài đồng.

- Mẹo đấy!

- Mẹo thằng trộm gà nào cũng thế thôi, nhà chủ nó biết tỏng rồi. Vết chân người hay chân cáo, nó dò chứ. Rồi mai bảnh mắt, có người chửi “đứa nào ăn gà nhà tao” rong khắp xóm cho mà xem.

Cõi lại như phân trân:

- Nhưng mà nói có quỷ thần hai vai, tao có trộm gà nhà nào bao giờ.

- Mới lúc nãy thôi.

- Để mừng chú mày về, túng thì phải tính, chứ mai chú đưa tiền tao ra chợ mua con gà, gà to hơn con này rồi nửa đêm tao đem bỏ vào chuồng nhà nó. Tao hay làm thế đấy.

- Lại cao tay nữa!

- Đi học, vẫn nhớ thầy chả đã đánh toét đít những đứa ăn không nói có.

Rồi Cõi thì thào:

- À có cách này.

- Cách sao?

- Thằng đội Quang...

- Không phải cứ nghĩ mà được. Đấy, tôi...

- Hai thằng cùng đi.

- Bác còn ngờ em à?

- Đừng nói nhảm! Nghĩ oan anh thế phải tội, đời mình cũng còn không tiếc cơ mà. Hai người cùng đi, cùng lo thì dễ việc. Lần trước, bởi tôi vụng tính, không có đồng nào giắt lưng.

- Lần này có tiền đây.

- Không, ta tính việc khác.

Trắt nghển cổ lên:

- Bác liệu thế nào?

Cõi chậm rãi nói:

- Bây giờ thì nó sợ, nó nghi ta rồi. Lại đang truy nã chú nữa. Thì ta làm hẳn như thật, cho nó hết đường nghi, cho nó phải tin. Đóng một cái cũi. Chú ngồi vào cũi, tôi trói tay trói chân cẩn thận, ừ tôi trói. Rồi bắn tin cho đội Quang biết làng ta đã bắt được thằng hàng dầu. Nó đang truy lùng mà.

- Tôi không hiểu.

- Ta đóng lấy cái cũi. Tay tôi phó cả thợ mộc đây. Mộng mẹo đinh lim, đinh tre khớp đâu vào đấy, thật chắc, nhưng ta lại tháo ra tháo vào được, chỉ có ta tháo được.

- Thế để làm gì, tôi chưa tường.

- Nó đã đa nghi thì làm cho nó phải tin. Người của nó khiêng cũi, thế nào cũng gõ, cũng thử xem cũi có chắc không. Chắc chứ, lung lay không được, đạp không chuyển. Nhưng ở trong ta làm mộng khác, chốt khác, đẩy một cái mở được ra như cánh cửa liếp này, mà chỉ một người ở trong mở được.

- Bác làm thế nào...

- Anh đã cả đời giữ chân phó nhỏ, phó hai hầu hạ cụ phó cả làm đình, làm chùa mà!

- Vâng, vâng.

- Tớ sẽ đi với lính lên hầu quan, tớ được lên nhận thưởng bắt được thằng hàng dầu cơ mà. Cái cũi được khiêng về đặt trước mặt đội Quang.

- À... à...

- Thằng đội Quang cúi xuống nhòm vào cũi, chú tung cũi nhảy ra đấm ngay vào giữa mặt. Thế tất chúng nó bấn cả lên. Tớ rút dao chém ngay cái sỏ nó. Đường đất nhà ấy, chú đã thuộc, phải không? Hãy biết thế đã. Chắc nhà tớ nó sắp về rồi, còn nồi cháo cò. Nhớ giữ mồm giữ miệng, con mẹ ấy mà biết thì sinh lôi thôi. Hay là chú cho nó giữ bao tiền, bịt miệng nó lại. Con mẹ ấy mà thấy tiền thì mắt nó đỏ hơn mắt cá chày.

Câu chuyện càng dữ dội, lôi cuốn, hai người càng tỉnh ngủ. Vừa lúc, mụ Cõi bưng về cả một thúng cò. Lổn nhổn những cò bợ, cò bạch, cò lửa bị ướt sắp chết rét, lông bết tóp lại như những bắp ngô còi, lố nhố thò đầu lên cạp thúng, nhưng hai cánh đã rúm lại không nhảy ra nổi. Trong khi ngoài trời tối đôi lúc sấm sét lại oang oang, gió đùng đùng quật ngọn tre rạp xuống trước cửa, những con cò còn lại văng cả vào trong vách. Cò rớt bão nhiều quá. Mụ Cõi đặt thúng xuống, lũ con cò lổm ngổm lẫn với những con cò trong vách vừa dò ra.

Mụ ấy với Cõi và Trắt, nước mưa hắt ướt lõng võng, xúm xít vặt lông sống từng con. Những con cò bị nước ngấm lâu lông bở bùng bục. Rồi thì mổ vứt lòng mề, con thui vào đống rạ, con bỏ vào nồi cháo. Chẳng bao lâu giữa ánh chớp lằng nhằng chốc lại lóe vào như đuốc sáng, mọi người nhồm nhoàm vừa nhai, vừa húp xoàn xoạt, như cả ngày chưa được miếng nào. Và Cõi lại quên câu mình vừa dặn Trắt, Cõi nói bô bô:

- Phải mẹo thế cái thằng đa nghi mới mắc.

Trắt đương hứng như cắt nghĩa lại cho Cõi:

- Khôn thế nào thì được người ta khiêng đến tận nhà cái thằng định giết mình cũng phải sướng tửng lên. Sướng là phải, xúm lại xem là phải, chỉ có bác mới cao tay thế, em chịu không nghĩ ra.

- Gặp cái đứa thâm hiểm...

- Em chỉ chưa hạ thủ được nó chứ nhà nó em đã vào hai lần, đâu cũng thuộc như lòng bàn tay. Thế thì phen này...

Cõi lại to tiếng, vẻ lên mặt:

- Thế đã thật chắc chưa?

- Cái cũi ta đóng, ta lại có khóa hiểm, yên trí rồi. Nhưng còn điều này.

- Còn cái gì?

Trắt nói:

- Lo nó vẫn phòng bị. Nhỡ nó chỉ ngồi trên sập, không bước chân xuống đất, không sờ đến cái cũi. Nó sai lính xỉa dáo vào cũi...

- Tính rồi, tính cả rồi. Làm cho nó phải sốt ruột, phải háo ra nhìn cho được mặt cái đứa mà nó giết mấy lần chưa chết. Nó phải trông xem có đích không cái đã.

- Bác bảo rồi làm ra làm sao?

- Trình cho quan biết là đánh nhau suýt chết mới tóm được giặc chứ chẳng phải ngon ăn. Quan cứ ra trông thì biết. Có thế thằng tù mới chịu bị trói nằm ngửa trong cũi. Nhưng nó cũng bị đòn quá tay, đã gãy một chân. Bắp đùi phải quấn lá chuối khô cho cầm máu. Không thì nó nghẻo từ hôm nào ấy rồi. Đổ máu lợn vào cho đọng mặt cũi. Trong bọc bẹ chuối ta cặp con dao ba. Chú ngồi phắt dậy, đạp cũi, không phải đấm mà rút dao đâm thẳng, phóng thẳng vào giữa mặt nó.

- Em chịu! Thế thì em chịu rồi.

Mọi chuyện ngon ơ như húp bát cháo cò. Rồi lăn ra ngủ. Mụ Cõi như cái bóng, sập cửa xuống rồi nhặt các thứ thừa mứa bỏ vào thúng. Mụ thò tay vào mép ổ, kéo cái hầu bao, thấy nặng không xách được. Mụ sờ soạng từng buộc quan tiền. Mụ đẩy lại cái hầu bao vào chỗ mép ổ, nghĩ mừng mừng. Bên ngoài, đằng xa thỉnh thoảng ánh chớp dây, không nghe tiếng sấm. Đã tan cơn mưa cuối mùa, chẳng khác rớt bão.

Hôm sau, Trắt nói với Cõi:

- Còn một điều thật cần.

- Gì thế?

- Tôi về được đến đây lả nhờ các ông đình Hàng Hòm.

- Chú đã kể rồi.

- Các ông ấy không phải chỉ vài ba người. Người của các ông khắp cõi, có nhẽ ở Kẻ Chợ thì xó nào cũng có. Cái hôm ăn cỗ thịt trâu ở đình, em biết cái tài của các ông ấy. Khắp nơi, trong phường ngoài chợ, động chệ thế nào, biết ngay, chuyện cần thì tin về bến Bỏi.

- Bên Kẻ Chợ thì ở hồ Tây theo ven sông Cái lên bến Chèm sang Bỏi hay sang Hối, rồi vào đầm Ao cả Vực Đê, phải không?

- Nhưng ở đây lên thì gần, chỉ nửa buổi. Phải, chỗ Chèm sang. Đương khét tiếng có ông tướng cướp lạ lắm tôi đã kể đấy. Cướp mà đêm hôm không đốt nhà, trộm lợn trộm trâu, không giết người lấy của. Các ông kẻ cướp chỉ cất công đi tìm ma, trừ ma ở lẫn với người, lấy được của rồi đem phát chẩn cho người khố rách, phát hết, rồi về tay không. Hay là thấy đâu trái tai gai mắt thì đến xóa đi. Ngay tôi đây thoát chết cũng nhờ một lời hẹn với các ông ấy. Chỉ một lời hẹn giữa đường giữa chợ mà không quản sống chết, họ hàng máu mủ nào bằng.

- Bây giờ ta nên thế nào? Đêm qua, chú bảo tôi phải có cánh. Tôi thấy là nên, nếu được cánh các ông bến Bỏi giúp cho.

- Em đã nghĩ thế. Hai anh em cố sang bến Bỏi. Bẩm kỹ với các ông việc của ta. Xem có thể thì cậy các ông một tay.

- Được thế thì còn gì! Nhưng phải cẩn thận ngay ở nhà này. Chú đã biết con đĩ rạc nhà tôi, chúng mình mà đi, nhỡ nó nổi cơn, nó báo bọn lý hương thì rầy rà.

Bao nhiêu cái kín đáo, đêm qua đã nói toạc ra cả. Bây giờ vẫn nhớ giữ gìn, nhưng lại quên phứt cái hở. Một lúc sau, Cõi nói:

- Mặc nó, để rồi tôi liệu. Nghe chú nói, tôi cũng thèm đi. Nhưng nhiều cái gấp quá. Lần này, chú đi một mình. Tôi ở nhà lo thế nào lúc chú về thì ta ra Kẻ Chợ được ngay. Đóng cái cũi giả, chỉ một tay mình tháo lắp được không phải một lúc mà xong. Tôi cũng chỉ biết học lỏm thế, còn phải sang nhờ cụ phó cả chỉ vẽ thêm cho. Cụ đã yếu, ta đem con gà, chai rượu đến nhà, cụ khỏi phải đi. Mà lại kín việc, vả chăng...

- Ừ thế thì em đi một mình. Nhưng ở nhà anh liệu lời bảo chị ấy. Đưa cho chị ấy giữ tiền cũng được.

- Chú mặc tôi, đã bảo mà.

Tối hôm ấy, thế nào mà vợ chồng Cõi lại chửi nhau, rồi Cõi nện vợ ra trò, mụ vẫn cờn lên.

- Nhà này sắp rủ nhau đi giết người hả?

- Giữ mồm giữ miệng nào. Mồm mày như cái tĩ gà, ỉa xoèn xoẹt.

- Biết tỏng ra rồi.

- Á! Á! Đi đâu thì ông cũng phải chọc tiết mày cái đã.

- Ối giời ôi!

Cõi mới để ý mấy hôm mụ chạy lên chạy xuống, lúc đun nước, lúc kín nước, lại lúc ngồi ăn, thế ra nó tỏ tường cả. Không xong rồi. Phải giã một trận cho nó nhớ đời.

Nào Cõi có biết gốc gác ả ở đâu. Nằm với nhau thì là vợ ra đường cũng người dưng nước lã, thế thôi. Ngày trước quãng mùa tháng mười, các ả đi thành bọn như phường đánh dặm đến gặt mướn cho nhà người ta. Gặp nhau giữa chợ rồi nên vợ nên chồng. Nghe nói quê dưới đồng chiêm - những miền đất xót như phèn, nắng đến con cua con cáy cũng chết như rang, người phải trôi dạt ra kiếm cơm thiên hạ. Kể thì, lấy vợ nhặt cũng không ra mặt mũi thế nào. Chẳng gì, Cõi đã ngậm cái bút lông mèo theo thầy, nhưng mà cả làng, cả chi họ này không lạ nhà Cõi, đời bố đến đời con, chẳng đời nào có đồng gãy giắt lưng. Làm sao lấy nổi vợ. Lấy vợ theo không thì nghĩ tủi thân, chứ làng nước ai trách cứ, ai rỉa róc đâu. Người ta lại còn khen - chẳng biết mỉa mai hay thật bụng, kiết xác mà cũng tậu được vợ, lại còn học đòi nghiên bút. Cái nông nỗi vợ chồng Cõi thế vậy.

- Có câm đi không? Mày mà...

- Sợ chó ai! Thấy trái tai gai mắt thì nói giữa giời đấy. Kiếm mửa mật không ra hạt cơm, ngữ ấy mà vào lính thì chẳng có nổi hạt gạo làng gánh đi nuôi, ở lính cũng chẳng nên thân, lại còn ra điều ta đây đòi đâm chém ai.

- Con tuyệt tự!

- Ới ông cả bà nhớn ơi! Chúng nó tụ bạ đi giết người, ối...

Cõi xông đến. Ả cũng chẳng vừa. Hai bên dần nhau ăng ắc, tưởng có đứa gãy xương. Sáng hôm sau, ả nằm trong đống lá chuối, rên hừ hừ. Mặc kệ, Cõi sang làng bên kia đìa, đến nhà cụ phó cả. Không biết chỉ một lúc sau, mụ Cõi đã trở dậy, lục hết ổ lá chuối ổ rơm, cả trên các hốc cột, hai bên mái nhà. Nhưng không thấy cái hầu bao đựng tiền.

Giữa trưa, Trắt mải miết đi một mạch mới lên đến bến Bỏi. Sông Cái vào mùa lặng, hai bên bờ cát nổi cao như gò, ở dưới sâu, những làn nước đỏ lừ vẫn cuồn cuộn như có gió to. Trời quang, trong xanh. Từng đàn chim bói cá bụng trắng cánh đen kêu khanh khách ở đâu đến chốc lại vút lên rồi rơi bõm xuống mặt nước như ai ném mảnh sành thia lia. Bay lên, đã quắp được gáy con thiểu, con thờn bơn trắng nhoáng. Mùa này hai bên bờ, các bến Chèm, bến Bỏi quang vắng. Chỉ đến khi nước cả, những bè giang nứa, song mây, bè củ nâu, bè dó hay là vào cuối năm các của rừng tải về cho đường xuôi ăn Tết, những thuyền măng khô, măng củ, mộc nhĩ, nấm hương, lại lá dong, cây rễ ăn trầu... bấy giờ các bến mới lại nhộn nhịp khách buôn khách lái. Tuy vậy, bến bên này cũng không sầm uất bằng bến Chèm bên kia, tiện xuôi Kẻ Chợ hơn.

Thường vào mùa cạn kiệt, cả những phiên chợ hai bên sông cũng vắng đò ngang, mà buổi chợ mới có đò chuyến. Các thuyền đánh cá chỉ đi về có buổi chợ cá eo sèo đôi lúc đầu hôm, sớm mai, mà cũng bất chợt cái thúng, cái mảng nứa ghé vào, chợ tạm mỗi hôm một nơi mà thôi.

Có người sang bến Chèm, nhỡ buổi, phải chặt cây chuối, ôm thân chuối bơi ghé qua bãi Giữa vào khi vắng đò, đôi bên sông vẫn quen lội thế. Nhưng Trắt không sang sông, mà Trắt ngóng thuyền qua lại, để hỏi thăm.

Một cái nan câu lướt nhanh ngoài mép nước.

Trắt gọi:

- Ơi đò!

Chiếc nan ghé vào.

- Cho tôi hỏi thăm thuyền bác Bỏi.

- Bác Cả hả? Ở đâu về đấy?

- Ngoài đình Hàng Hòm.

- Xuống đây.

Chẳng biết thế nào, nhưng thấy người dưới nan sốt sắng tự nhiên, lại nói như ra lệnh, cũng chẳng do dự Trắt leo xuống cái thúng câu. Người ấy cúi đầu sải bàn tay. Thúng tạt ra dòng rồi xuôi vun vút. Chắc cái thúng này đi rút câu cắm hay thu lưới về, túm lưỡi câu cắm với đống lưới đã xếp bên mạn, những con cá nhảy lục đục dưới cái vỉ tre cật, người ngồi xổm lên.

- Thuyền bác Cả đậu chỗ kia.

Một đám lô nhô thuyền mờ mờ dưới bóng cây ven bờ. Trắt bỡ ngỡ, lặng im. Nhưng người nan câu lại vui chuyện.

- Cả vạn này vừa hội đánh cá tiến ngã ba sông trên ngược về, đã mấy đêm vào đám ăn cỗ đấu võ ở thuyền bác cả.

- Liền anh cũng ở đám à?

- Ừ.

- Hội võ bác Bỏi a?

- Tôi chỉ là thằng cầm bùi nhùi bật hồng thỏi, võ viền đâu thứ tôi.

- Hội võ trên thuyền thì to thế nào?

- Mấy đời các vạn ở bến Bỏi là con cháu nhà bác Cả. Nghề cá ở nước thì hội võ các vạn cũng như đình đám xóm làng bên trên bãi. Ở vạn thì chỉ bao giờ có đám ma mới phải đưa lên bờ.

Dần dần, trông rõ nhấp nhô cả chục chiếc thuyền gỗ đỗ chen chúc trong hũm bờ lở, dưới mấy cây súng xanh mát như bụi tre và những cây muỗm cổ thụ um tùm. Những cái nan len lỏi giữa đám thuyền, ra vào ve vé, như bọn trẻ con chạy quanh người lớn.

Cái nan câu Trắt ngồi, người chèo đã ném sợi thừng vắt lên cọc trước mũi chiếc thuyền rồi quay lại bảo Trắt:

- Bíu mà lên trước đi.

Trắt dún chân, nắm mạn thuyền. Người nan câu dận Trắt vào khoang trong. Thấy một người mặt rám nắng màu cát đỏ xạm, chạc trên dưới năm mươi, hàng râu ria ba chòm đen rậm xõa ngang ngực vạm vỡ để trần.

Trắt đoán đây là bác Cả, bác cả Bỏi, ông tướng cướp bến Bỏi đã được nghe lão quán nước Hàng Hòm thì thào.

Ông tướng mà sao cái anh thuyền câu không vẻ sợ sệt, mà lại nói suồng sã vui vui.

- Người Kẻ Chợ về chơi với bác Cả đấy!

Bác Bỏi ngẩng lên:

- Mày vẫn trọ đình Hàng Hòm à? Thằng Cõi đâu?

Trắt giật mình. Dường như bác ấy đã biết hết.

- Bẩm quan, anh Cõi con chưa lên được, cho con sang tạ ơn quan. Con là thằng Trắt bán dầu, quan đã ra tay cứu. Bây giờ chúng con có việc lên xin quan chỉ bảo.

- Quan nhớn, quan bé, thằng lãnh, thằng đội gì tao. Tao là cả Bỏi, thằng chài lưới bến Bỏi.

- Vâng ạ.

- Về đây thì cứ thong thả. Ra mui nghỉ chốc nữa vào ăn cơm.

Trắt ra ngồi mảnh chiếu cói ngoài mũi thuyền. Gió mát rượi, ngủ gật được, nhưng không chợp mắt nổi vì người các thuyền nhảy sang, đi như chạy rầm rập. Chỉ một thoáng đã biết đại khái quang cảnh và mọi việc quanh mình. Bác Bỏi đã vào bữa chén, ngồi với mấy tay chân sào, chắc thuyền khách. Các thuyền bên bưng sang cả rổ vỉ cá nướng thơm mõ còn sèo sèo với những vò rượu nút lá chuối được xách cổ theo. Cũng như vẻ mặt dễ dãi phúc hậu của bác Bỏi, tấp nập thế nhưng không nghiêm như cửa quan, mà còn bộn rộn, có người vừa đi vừa ê a múa hát. Ngoài sông, gió cát bốc lên đỏ xuộm, những chiếc nan như lá tre bay trong làn bụi.

Lát sau, Trắt được gọi vào. Chén bữa cơm toàn cá với rượu thuốc uống bằng bát. Không biết rượu rắn hay ngâm cá, vị hoi hoi. Về chiều, lại nhiều thuyền nữa chen đến, những chiếc to bản đậu rúc mũi vào nhau ghép liến thành cái sàn, người bước thoăn thoắt như trong nhà ra sân. Lúc ấy, thuyền nào cũng như có chén, chẳng biết tiệc hay cơm tối, khói nấu nướng xanh bốc trên mui. Ánh nước hắt lên lẫn khói, lẫn sương phảng phất, đôi chỗ còn rớt lại một vết nắng vàng nhạt.

Dần dần, khói bếp thành làn mờ mịt trên đám thuyền lẫn vào sương tỏa ra mặt nước. Cả đêm, Trắt ngồi xem những trận đấu võ, múa võ, kỳ lạ, hào hứng, không biết mỏi mắt. Khoảng sàn như mỗi lúc rộng hơn, những cây đình liệu sáng rộng tít ra các mép thuyền mới tới, chụm mũi lại, các mái khoang dỡ ra hết, neo khít lại rồi đánh đai chão dây song.

Bác Bỏi vẫn trần trùng trục, đứng ra khoang giữa, một tay giơ bổng thanh trung bình tiên bằng cả cây tre đực, như dựng cờ. Rồi vỗ bụng đốp đốp mấy cái.

- Anh em ời, anh em ới! Vụ nước kiệt vào mùa năm nay, các vạn ta ngược ngã ba Hạc được mẻ cá tiến[1], thuyền nào cũng đầy. Có biếu, có tiến ai đâu cá ngon thì làm cỗ ăn chơi, đấy là tục lệ từ thời các cụ ta ở bến Bỏi.

Những cây đình liệu tiếp nối rừng rực sáng chưng một khúc sông. Hầu như mỗi thuyền là một lò võ, một môn võ khác nhau, lúc chặp tối thì múa võ, khuya thì đấu, sau cùng đánh trung bình tiên. Mắt người xem đã lóa rượu, thấy đâm thấy gạt như múa hoa, không nhìn ra đấy là cây roi tre, cái sào chống hay chiếc bê chèo. Bây giờ mới thấy bác Bỏi ra võ thượng thặng, cả bốn ngọn roi chúc lại, bác cả gạt ngang hết ra rồi đâm sang vun vút.

Đình liệu tàn, các tay quyền tay roi nằm lăn lóc ra sàn ngáy pho pho. Trắt vui như minh cũng được là người các vạn đi đánh cá tiến về hội võ, rồi Trắt cũng nằm ngủ ngay trên ván thuyền.

Sáng sớm, bác Bỏi cho người ra lay Trắt dậy. Nhà chài thức khuya mấy cũng quen dậy sớm. Bác Bỏi hỏi:

- Có việc gì nào?

Trắt kể tình đầu.

Nghe xong, bác Bỏi chỉ nói: “Chẳng cứu chúng mày thì cứu người khác, không phải ơn huệ đâu!”Rồi bác ngồi yên, mặt lạnh không động râu, không nhếch mép, cũng không hỏi thêm câu nào. Bác Cả bảo người nhà thuyền dọn rượu sớm. Rồi bác bảo Trắt:

- Ăn cơm sớm rồi về cho kịp, kẻo tối.

Trắt mạnh dạn:

- Chúng con định làm thế, bố bảo sao?

- Đã định thế thì cứ thế mà làm.

Cả thuyền đã xong bữa sáng. Bác Cả im lặng, nhưng dường như bác vẫn nghĩ cả lúc Trắt kể lể, bây giờ bác mới nói một mạch:

- Giá năm trước mà cụ huấn Cao kéo quân qua Bỏi thế nào tao cũng lên với cụ rồi. Tao vẫn còn tiếc. Bây giờ giúp môn sinh rửa thù cho cụ, thế cũng như tao được làm quân của cụ. Có phúc mới được theo việc nghĩa trời đất chứng giám này. Anh em mày đã bàn, mưu chúng mày thì chúng mày làm, tao có nghĩ ra đâu mà tao được như chúng mày. Bây giờ chỉ còn ở cái trí, cái gan. Hãy nhớ, không được trệch sự hẹn, việc quân không sai một bước chân, biết chưa. Hẹn sao giữ hệt thế. Ngày nào chúng mày vào nhà lãnh Quang thì tao khắc biết, khỏi phải báo lại. Cứ ngày ấy, ngày ấy, lúc chặp tối, người của tao vào trói cả nhà lãnh Quang, gắn sơn vào mồm, không đứa nào kêu được một tiếng. Chúng mày bắt sống thằng lãnh Quang hay xách cái đầu nó ra bến Đá thì tùy cơ ứng biến. Bấy giờ đã sẵn thuyền đợi ở bến Đá. Được chưa?

Trắt cũng thấy rõ ràng không thể hỏi được hơn.

- Vâng, lạy bác.