Lâu Đài Người Bán Nón

Chương XIII

Cái lạnh buốt da của một buổi sáng tháng ba ngự trị Levenford. Những lọn tuyết lơ lửng đầy trời đáp xuống nhẹ nhàng như những cánh bướm. “Mùa đông trễ tràng và khắc nghiệt chưa chịu chấm dứt”. Brodie tự bảo với mình, đứng trên thềm cửa tiệm nhìn con đường vắng vẻ, u buồn. Điều lạ lùng, sự yên tĩnh của con đường đã an ủi ông và cái vắng vẻ của nó làm cho ông dễ thở hơn. Từ ba tháng nay, ông rất khó chịu khi phải đối diện với những người dân ở Levenford, và cái vắng lặng của con đường đã giúp cho lòng kiều hãnh đã bị thương nhưng không hề khuất phục. Bây giờ ông có thể để cho gương mặt cứng rắn của ông được thoải mái một chút và thầm thán phục ý chí bất khuất của mình. Người ta đã bắn vào ông nhiều mũi tên cay độc, nhưng ông không bao giờ có một lời nói hay một cử chỉ nào biểu lộ sự rung động: Ông đã thắng.

Hất cái nón ra đằng sau ót, Brodie đặt hai ngón tay cái vào nách áo gi-lê, và hít không khí lạnh ngắt với một vẻ cáu kỉnh, hung hăng nhìn về phía con đường lặng lẽ. Ông không mặc áo khoác, cũng không mang khăn quàng cổ: rất tự hào về thể chất của mình, ông khinh thường những dấu hiệu của sự yếu đuối đó. “Tôi có cần gì tới các áo măng tô!” – Thái độ bất cần của ông, có vẻ như nói lên câu đó…

Thình lình, ông trông thấy một người tiến tới. Chỉ duy lòng kiêu hãnh đã bắt ông đứng lại ở cửa, bởi vì ông đã nhận ra đó là kẻ có cái lưỡi độc địa nhất thành phố.

“Quỷ sứ hãy bắt tên chuyên ngồi lê đôi mách này”. Brodie nói lầm bầm khi nghe tiếng bước chân chậm và êm nhẹ tiến đến gần và khi trông thấy kẻ kia băng qua đường với một vẻ quả quyết. “Ước gì tôi có thể móc lưỡi hắn ra, hắn tiến đến tôi, tôi nghĩ đúng lắm!”

Grierson đến nơi, áo ấm kéo lên tận tai và như Brodie đã tiên đoán, ông ta dừng lại.

- Tôi xin kính chào ông, ông Brodie – Ông ta nói, nhấn mạnh câu “Tôi xin kính chào ông” với vẻ nhã nhặn mà người ta có thể xem như là một sự kính trọng hoặc là một sự mỉa mai.

- Chào ông! – Brodie đáp lại cụt ngủn. Thời gian vừa qua, ông đã khổ sở vì nọc độc của cái lưỡi hiểm ác này và biết rằng cần phải cẩn thận đề phòng nó.

- Tôi e rằng cái lạnh sẽ vẫn tiếp tục – Grierson nói tiếp – Mùa đông này thật khắc nghiệt, rất khắc nghiệt, nhưng ông không có vẻ bị ảnh hưởng chút nào! Người ông chắc bằng thép nên ông mới chịu đựng nổi tất cả mọi sự một cách dễ dàng như thế!

- Tôi thích nghi một cách khá dễ dàng với thời tiết – Brodie làu nhàu, ném ánh mắt khinh bỉ vào cái mũi tái xanh của Grierson.

- Nhưng điều bực mình là cái buốt giá này bắt buộc phải chấm dứt vào một ngày nào đó: băng rồi cũng phải tan; và nó càng đông cứng bao nhiêu, lại càng mềm bấy nhiêu khi bị chảy ra. Một này nào đó, ở đây sẽ có sự thay đổi lớn trong tình hình – Và ông ta ngước nhìn Brodie với một cái nhìn hết sức ngây thơ.

Brodie hiểu nghĩa bóng của câu này, nhưng ông không đủ sức trả miếng lập tức.

- Thật vậy sao? – Ông ta nói một cách ngây ngô và cười ngượng nghịu – Ông thật là thông minh.

- Chỉ là trực giác thôi, thưa ông Brodie, điều mà người La Mã gọi là đoán điềm từ thời tiết.

- Chà, ông còn là một nhà thông thái nữa!

- “Sáng nay, ông bạn thân mến”. Grierson điềm nhiên nói tiếp. “một con chim cổ đỏ nhỏ bé đã bay vào nhà tôi… nó có vẻ sắp chết”. Ông ta lắc đầu. “Thời tiết này thật là ghê gớm đối với những kẻ không có một mái nhà để ẩn trú”. Và trước khi Brodie có thể mở miệng, ông ta nói tiếp: “Tất cả gia đình ông mạnh giỏi chứ”?

Brodie tìm được cách trả lời với vẻ bình tĩnh:

- Rất tốt, cảm ơn. Nessie thành công tuyệt vời ở nhà trường. Hẳn ông cũng đã được nghe nói đến. Năm nay nó lại sẽ chiếm hết mọi phần thưởng!

“Mày hãy chuẩn bị lãnh lấy cú này”. Brodie nghĩ thầm. “Thằng con trai đần độn của mày luôn luôn bị con gái thông minh của tao đoạt mất hạng nhất”!

- “Tôi không biết chuyện đó, nhưng dầu sao cũng hay tuyệt đấy!” Và sau một lúc im lặng, Grierson hỏi bằng một giọng thật êm dịu. “Và còn cô con gái kia của ông, cô Mary, ông có được tin tức gì trong thời gian gần đây không”?

Brodie nghiến răng, nhưng ông ta tự kềm chế và ung dung nói:

- Tôi sẽ rất cám ơn ông nếu ông đừng nhắc đến tên nó trước mặt tôi.

Grierson lấy một vẻ hối tiếc sâu xa:

- Tôi thật rất tiếc đã làm cho ông buồn, thưa ông Brodie, nhưng tôi rất quan tâm đến con gái của ông. Cơn bệnh kéo dài của cô ấy đã làm cho tôi lo ngại, nhưng hôm trước tôi có nghe nói cô ấy đã tìm được một chỗ làm ở Luân Đôn, và tôi tự hỏi phải chăng do sự giới thiệu của những người ở Darroch đó… tôi muốn nói gia đình Foyle. Nhưng chắc chắn ông cũng không biết gì nhiều hơn tôi về việc này… - Và ông ta nháy mắt nói tiếp với một cái nhìn xéo:

- À! Tôi đã để tâm rất nhiều đến tai biến đó, vì lòng nhân đạo thuần túy, ông hiểu chứ. Tôi rất xúc động khi thằng bé đáng thương đã chết ở bệnh viện..

Brodie quắc mắt nhìn ông ta, nhưng sự hành hạ vẫn tiếp tục:

- Người ta nói đó là một đứa bé thật dễ thương và ông bác sĩ đã rất đau lòng khi nó chết trong tay ông ấy. Ông ấy rất quan tâm đến người mẹ - và điều này không làm tôi ngạc nhiên, một trường hợp rất hiếm thấy – với những biến chứng, viêm phổi và tất cả mọi thứ”. Ông ta lắc đầu một cách buồn bã. “Dầu sao, cũng thật là một tai họa, ông bạn thân mến, khi người cha đã không được sống sót để làm cho cô ấy trở thành người đàn bà có thể… Hừ! hừ! Xin lỗi, ông Brodie… tôi quên… tôi lại để cái lưỡi ngu ngốc của tôi nói quá nhiều.”

Grierson xin lỗi một cách nhún nhường, nhưng ông ta đã lột sống da thịt của Brodie, đã làm cho ông này phải run lẩy bẩy và ông ta đủ khôn lanh để biết dừng lại đúng lúc.

Brodie nhìn như muốn đâm thủng Grierson, nhưng bằng một giọng nhỏ, kềm chế, ông nói:

- Ông cứ để cho cái lưỡi ngọt ngào giả dối của ông nói tùy thích, không sao đâu.

Brodie thật sai lầm. Grierson không bỏ lỡ cơ hội liền gia tăng những lời nói bóng gió với một cái cười khẩy ngọt xớt:

- Khá lắm, khá lắm, đó cũng là một sự gan góc, không bao giờ nao núng. Tôi rất thán phục thái độ cương quyết của ông trong tất cả cái thảm kịch này. Nếu là người khác sống trong thành phố, có thể họ đã hoàn toàn sụp đổ tinh thần, bởi vì điều này đã làm trò cười cho cả Levenford trong mấy tháng.

- Những lời nói của bọn ngồi lê đôi mách không làm cho tôi chú ý đến – Brodie đáp lại, thở hổn hển. Ông muốn cái nhìn của mình có thể giết chết Grierson, nhưng phẩm giá của ông ngăn ông sử dụng đến vũ khí khác và sự kiêu hãnh của ông không cho phép ông thụt lùi.

- Phải, phải – Grierson trả lời bằng một vẻ trầm ngâm giả tạo – Nhưng phải làm mục tiêu cho những mụ sùng đạo giả dối đó và làm trò cười cho cả thành phố là một điều đủ để làm cho một kẻ khác phải mất tinh thần, ông bạn thân mến ạ.

Grierson hạ giọng nói tiếp, như thể một ý nghĩ thú vị vừa chợt đến với ông ta.

- Điều đó đủ khiến cho một người bình thường đi tìm sự an ủi nơi một giọt nhỏ.

Brodie cúi mắt nhìn xuống Grierson. Phải chăng người ta cũng đã vu không ông về điều này?

- “Không gì bằng một giọt nhỏ để làm lên tinh thần một người”. Grierson nói bóng gió bằng một giọng kéo dài, “nhất là vào những ngày lạnh lẽo như thế này. Nào, tôi phải đi, trời rét quá, không thể đứng nói chuyện mãi được. Xin chào ông Brodie”.

Và ông ta đi thật nhanh, đầu cúi xuống một cách khiêm tốn, không để cho Brodie có thì giờ trả lời. Tuy lạnh run vì đã đứng khá lâu ở ngoài trời, nhưng bên trong, ngọn lửa tự ái đang sưởi ấm cho ông ta. Grierson hớn hở nhớ đến vẻ bối rối trong đôi mắt của Brodie khi những mũi tên của ông ta đã trúng đích, và tưởng như nghe rõ tiếng thở dài của Brodie dưới sự giày vò của chất độc tẩm trong các mũi tên đó. Ông ta cười một mình khi nghĩ rằng câu chuyện thú vị này sẽ được kể lại ở câu lạc bộ. Các bạn của ông sẽ ôm bụng cười khi ông ta kể nó theo cách của ông ta. Grierson thưởng thức chiến công của mình một cách thỏa mãn. Thật là thích thú khi đã làm cho con vật hợm mình kia phải câm giọng khoác lác của hắn lại! Hắn tưởng hắn là ai mà lại mang cái vẻ mặt kiêu kỳ như thế? Hơn nữa, kẻ nào lại nỡ đuổi con gái của mình ra khỏi nhà như một con chó trong một đêm bão tố như vậy? Điều này đã gây ra cái chết cho đứa bé. Và hắn cũng đã suýt giết Mary nữa, theo những lời người ta đồn. Viêm phổi, sốt sản và còn gì nữa. Thật là tai tiếng, cho dầu cô ấy có là… Và ông ta biến mất, vẫn khoái trá đeo đuổi những ý nghĩ của mình.

Brodie dõi mắt nhìn theo Grierson, môi mím cong lại. “Đó là cách làm của họ”, ông nghĩ. Họ sẽ tìm cách ném đá vào ông, chà đạp ông vì ông đã thất thế. Nhưng ý nghĩ này lại làm ông vươn mình lên một cách kiêu hãnh. Ông chưa sờn đâu: Họ hãy chờ đợi xem, những kẻ nói bóng gió và lắm điều ấy! Trong một hay hai tháng nữa, tất cả câu chuyện đáng nguyền rủa đó sẽ tan biến hết. Những người bạn sự thật của ông – giới quí tộc, tinh hoa của vùng này – sẽ chỉ cảm thấy buồn tiếc và thông cảm với ông.

Tuy vậy, khi nhớ lại những gì đã phải chịu đựng, đôi môi Brodie run lên. Trong suốt những ngày Mary nằm bệnh viện, giữa sự sống và cái chết, ông vẫn bình thản, vững chắc như một khối đá, cương quyết từ bỏ con gái mình. Bằng hành động đó Mary đã làm cho mình bị phỉ nhổ và ông đã tuyên bố sẽ bỏ mặc, không ngó ngàng gì đến Mary nữa. Trước sự thất vọng câm nín của vợ ông, mặc dù có những lời lẽ gay gắt và những xao động của dư luận bị kích thích tột độ, mặc dù có sự can thiệp khẩn thiết của bác sĩ Renwich trong cuộc nói chuyện riêng, mặc dù có những sự phỉ nhổ, nhục mạ và chê trách của công chúng, ông ta vẫn khăng khăng không chịu nhượng bộ. Và ý nghĩ về quyết tâm không gì lay chuyển nổi của ông đã làm xoa dịu cơn bực tức hiện tại.

Với một sự hài lòng độc ác, Brodie thích thú nghĩ đến thảm họa của chiếc cầu Tay: Cái chết của đưa bé đẻ hoang không làm cho ông thỏa mãn, - ông đã không nhìn nhận nó ngay từ phút đầu, - nhưng hình ảnh thân thể bị dập nát của Foyle ít khi nào rời khỏi trí óc ông. (Người ta đã thâu nhặt hài cốt của chàng và đem chôn ở nghĩa trang Darroch).

Đó là một niềm an ủi lớn lao cho lòng kiêu hãnh bị tổn thương của ông ta, trí tưởng tượng của ông đã thưởng thức một cách say mê vô số những chi tiết rùng rợn. Ông không mảy may quan tâm đến việc có hàng trăm người khác cũng thiệt mạng trong thảm nạn này. Cả đoàn tàu bị rơi xuống vực sâu, đối với ông, chỉ là công cụ cho sự trả thù chính đáng. Chỉ một mình kẻ đó đã làm hại ông, đã dám chống lại ông và bây giờ nó đã chết, thật là một sự trừng phạt đích đáng.

Brodie vừa quay mình trở lại cửa tiệm thì có một người khác đến bắt chuyện, một anh chàng nhỏ thó, dao động và nhút nhát như một con thỏ, xuất hiện từ cánh cửa nhà bên cạnh: Đó là Dron. Ông chủ tiệm bán nón nhanh chóng tìm lại được tất cả sự tự tin trước nỗi sợ hãi do ông gây ra cho kẻ khác, đồng thời ông ức đoán một cách khinh bỉ về mục đích của cuộc viếng thăm này. “Phải chăng anh ta sắp báo cho ông biết vợ anh ta vừa đẻ thêm một đứa con nữa?” Brodie tự bảo với mình khi nhận thấy vẻ mặt bí mật đặc biệt của Dron.

Quả thật anh chàng có một vẻ rất đáng ngạc nhiên. Run rẩy, vì sự xúc động bị kềm chế, hai bàn tay xoa mạnh vào nhau một cách ồn ào, đôi mắt nháy liên tục, hai chân giật giật như bị chứng động kinh, Dron cố gắng nói, nhưng chỉ ấp a ấp úng.

- Nói đi nào, - Brodie nhạo báng – và đừng bắt tôi đứng ngoài cửa quá lâu. Lần này đứa bé mới sinh của anh là con trai hay con gái?

- “Đây không phải là chuyện đó”. – Dron vội vã nói, với những cử chỉ luống cuống. Rồi một cách chậm chạp, như một người cẩn thận lặp đi lặp lại trong đầu câu nói của mình, anh ta tiếp: “Tôi chỉ tự hỏi ông có chắc chắn là không muốn thuê căn nhà của tôi, căn nhà mà tôi đã đề nghị với ông vào cuối năm ngoái không?” Anh hất đầu, chỉ căn tiệm trống không của mình. “Có lẽ ông đã quên rằng ngày hôm đó ông đã ném tôi ra ngoài đường, nhưng tôi thì không quên, ông đã ném tôi té nằm ngửa”.

Khi nói đến câu sau cùng này, giọng Dron tăng mạnh lên thành một tiếng la inh ỏi.

- Anh đã té. Anh bạn nhỏ của tôi, chỉ thế thôi. Nếu anh thích ngồi ngoài đường hay trước cửa tiệm tôi, tôi không thể giận anh được; nhưng nếu đó không phải là tư thế anh thích, hãy về mà nói với vợ anh! Đó không phải là việc của tôi.

Brodie trả đũa một cách ung dung, tuy nhiên đôi mắt của anh chàng kia đã gợi sự tò mò nơi ông, đôi mắt in rõ hai tình cảm trái ngược đang tranh giành ưu thế với nhau: Đó có thể là đôi mắt của một con thỏ, nửa sợ hãi, nửa vui mừng khi nhận thấy kẻ thù rơi vào bẫy của chính hắn.

-“Tôi hỏi ông có chắc chưa?” Dron ấp úng nói, rồi mạnh dạn hơn. “Ông có chắc chắn là ông không thèm mướn căn tiệm của tôi không? Bởi vì, bây giờ nếu ông muốn, nó cũng không thuộc về ông. Tôi đã không cho mướn nó. Không, tôi đã không cho mướn nó! Tôi đã bán nó cho Công ty Mungo buôn bán nón và đồ dệt kim”. Anh ta hét lên những câu cuối cùng này bằng một giọng đắc thắng, rồi sôi nổi nói tiếp: “Tôi đã được số tiền nhiều hơn tôi hy vọng, bởi vì họ có một số vốn vô giới hạn. Họ sẽ lập ra một cửa hàng lớn bán đủ thứ, và một gian hàng đặc biệt, với tủ bày hàng đặc biệt, bán đủ loại nón. Tôi biết rằng tin này sẽ làm cho ông rất vui, nên tôi không thể chờ đợi được: ngay khi bản giao kèo vừa ký xong, tôi liền chạy đến cho ông biết”. Giọng Dron càng lúc càng lên cao với một vẻ hăng say cuồng nhiệt – “Ông chỉ là một kẻ thô bạo, khoác lác!” – Anh ta hét lớn – “Điều này sẽ dạy cho ông biết đừng nên hiếp đáp kẻ yếu hơn ông!”

Sau đó, như thể biết trước sẽ bị Brodie đánh, anh ta quay lưng chuồn thẳng.

Brodie vẫn đứng yên. Sự sôi nổi nhút nhát của Dron không làm cho ông bận tâm, nhưng cái tin do anh ta đem đến thật tai hại. Vận xui cứ đeo đuổi theo ông mãi sao? Công ty Mungo, gốc Glasgow và lúc đầu vẫn giới hạn hoạt động của mình ở đó, từ ít lâu nay đã bành trướng ra các vùng thôn quê lân cận. Như những kẻ hiểu rõ lợi ích của nguyên tắc có nhiều chi nhánh phụ, họ đã xâm chiếm đa số những thị trấn của Lanarkshire và bây giờ đang nới rộng dần dọc theo sông Clyde. Brodie biết sự xâm nhập này là một tai họa cho nhiều nhà buôn địa phương. Thật vậy, Công ty chủ trương cạnh tranh: họ bán hạ giá, bán theo phiếu; còn những gian hàng của họ thì choáng lộn với những món hàng mà giá cả được ghi kỹ từng xu – Đó là không kể hàng loạt các khẩu hiệu rất quyến rũ khách hàng như: Lý tưởng cho em bé hay Giá trị thật sự hoặc “Tuyệt diệu”; mà đặc biệt họ còn hạ giá bán một cách tàn nhẫn khi có sự cạnh tranh quyết liệt.

Họ đã đến Darroch và Ardfillan, Brodie không phải không biết điều đó, nhưng ông thường tự hào cho rằng họ sẽ chừa Levenford ra, vì nơi đây đã có cửa tiệm lâu đời đầy tiếng tăm vững chắc của ông. “Họ sẽ không bán nổi một cái nón trong một năm”, ông đã tự bảo với mình một cách khinh thường. Và kìa, bây giờ họ đã đến! Ông nhận thức rõ rằng sẽ có một cuộc đấu tranh. Và ông sẽ làm cho họ khốn đốn chật vật. Ông sẽ để cho họ thi tài với James Brodie! Đột nhiên, ông nhận ra, họ sẽ ở sát gần bên ông, và trong một cơn giận dữ bất ngờ, ông giơ một nắm đấm đe dọa về phía căn tiệm trống không trước khi trở vào tiệm của mình.

Với Perry, hiện diện một cách khiêm tốn khắp nơi, ông tỏ vẻ cáu kỉnh, như thường lệ:

- Anh đứng dòm cái gì ở đó vậy? Anh hãy làm việc một chút để thay đổi. Cái vẻ vô công rồi nghề của anh làm cho tôi phát bệnh!

- Thưa ông, tôi phải làm gì bây giờ? Tôi không có khách để phục vụ.

- Tôi thấy rõ là anh không phục vụ ai hết. Có phải anh có ý muốn ám chỉ rằng tôi không có khách hàng không? Tôi, một người có công việc làm ăn tốt nhất và vững chắc nhất trong thành phố? Chính tuyết rơi đã giữ người ta ở trong nhà, đồ ngu. Anh hãy lau chùi cửa tiệm một chút, hay là lấy cục xà-bông và đi ra ngoài rửa chân!

Ông chủ la lên và đóng sầm cánh cửa văn phòng lại. Ông ngồi xuống ghế. Bây giờ ông chỉ có một mình và có thể không cần phải giữ vẻ hiên ngang bảnh bao như trước mặt mọi người nữa. Một sự thay đổi gần như không thể nhận thấy diễn ra một cách mơ hồ trong ông, đường nét vững chắc của hai má ông hơi lún sâu xuống một chút và một lằn xếp nhỏ cay đắng nổi lên ở hai bên khóe miệng. Tờ báo Herald nằm trên bàn giấy đã không được mở ra – từ nhiều tháng nay, ông không hề đọc báo – và với một cử chỉ lơ đễnh chán chường, ông hất mạnh nó xuống đất, rồi đút tay vào túi rút ra cái ông điếu và bọc đựng thuốc, đặt chúng lên bàn giấy với một cái nhăn nhó chán ghét: ông không muốn hút thuốc trong một buổi sáng đã liên tiếp đem đến cho ông nhiều điều phật ý.

Trong văn phòng có một lò sưởi than ấm cúng, và mặc dầu Brodie thường tự hào về cái thể chất của mình trước thời tiết xấu, ông bỗng cảm thấy lạnh. Một cái rùng mình làm rung động cả người ông, và ông chợt nhớ lại câu nói của Grieson: “Để xua đuổi cái lạnh hay giúp một người lên tinh thần, không có gì bằng một giọt nhỏ”.

- Một giọt nhỏ, một thành ngữ kỳ lạ - Brodie thì thầm.

Ông đứng dậy một cách nóng nảy và xuyên qua tấm cửa kính, ông nhìn thấy tuyết trắng đang bao phủ tất cả: mặt đất, con sông Leven đóng băng, những mái nhà. Tuyết trắng đầy trời, rơi xuống không ngừng, như thể không bao giờ chấm dứt. Những hạt tuyết gây cho ông một cảm giác bực bội: một hạt tuyết riêng rẽ trông thật dễ thương nhưng khi chúng hợp thành số đông, chúng trở nên không thể chịu nổi. “Hắn tự an ủi mình bằng rượu!” Ông tưởng như nghe có tiếng bàn tán thì thầm. Đúng vậy, Grierson đã chẳng nói bóng gió như thế sao?

- “Tôi đã chịu đựng sự chê trách mà không hưởng được một điều an ủi nào, không có ăn xôi mà phải chịu đấm!”

Bầu không khí ảm đạm của buổi sáng hôm nay làm tăng nỗi buồn của Brodie, và rùng mình, ông tiếp tục độc thoại. Cái cách tự bộc lộ này hoàn toàn mới mẻ đối với ông. Nhưng nhờ vậy mà ông triển khai được những ý tưởng của mình một cách rõ rệt hơn.

- À! Chúng cho là tôi uống rượu, những con heo dơ bẩn đó! Nhưng tôi sẽ làm đúng như lời chúng nói. Hơn nữa, đó là điều tôi đang cần để làm tan đi cái vị đắng trong miệng… Tên chân khoèo tồi tàn hay mách lẻo này với những “giọt nhỏ” của hắn và những câu ngọt xớt “tôi xin lỗi ông”, và cách hắn kéo lê hai bàn chân, nghiêng mình xuống tận bùn… Một ngày nào đó, tôi sẽ đá cho nó té nằm dài trong bùn. Phải, tôi cần một cái gì để rửa sạch miệng sau những lời bực bội hồi sáng nay – Brodie nhăn mặt, nói thêm một cách mỉa mai, vẫn căn phòng trống – Dầu sao, cũng cám ơn, thưa ông Grierson, cảm ơn lời khuyên đáng được chấp thuận của ông.

Bỗng nhiên, vẻ mặt ông ta thay đổi. Ông cảm thấy thèm uống rượu. Và một sức mạnh hung bạo cuồn cuộn trong từng thớ thịt khiến ông chỉ muốn bóp nát một cái gì đó; một cảm giác đòi hỏi mạnh mẽ, cuồng nhiệt đến độ ông cảm thấy mình có thể uống bao nhiêu rượu cũng được.

-“Tôi hưởng được cái gì nếu tôi sống như một mục sư rụt rè, sợ sệt, mà dầu có sống như vậy đi nữa, họ cũng vẫn nói xấu về tôi. Không, tôi sẽ cho họ một đề tài để nói trong những buổi tối ngồi lê đôi mách. Quỷ sứ hãy bắt họ đi! - James Brodie hét lớn lên, vừa ấn mạnh nón xuống tận mắt và đi ra.

Gần cửa hàng của ông có một quán rượu nhỏ yên tĩnh, quán “Huy hiệu của gia đình Winton”. Chủ quán là bà cụ Phémie Douglas. Brodie bước vào quán, lúc đó vắng khách, và hỏi cô chiêu đãi viên một ly uýt-ki nóng.

- Xin cô nhanh dùm! – Sự thèm muốn dữ dội đã làm cho giọng ông trở nên thô lỗ.

Bây giờ ông đã quyết định uống rượu. Không gì có thể ngăn cản được ông, không gì có thể chống lại nhu cầu càng lúc càng lớn, làm cho cổ họng ông khô lại, làm cho hai bàn tay không ngừng mở ra và nắm lại, làm cho ông giậm chân một cách bực tức trong khi chờ đợi ly rượu. Khi rượu được đem đến, ông uống một hơi rồi nói một cách nóng nảy:

-Một ly khác!

Brodie uống một hơi bốn ly lớn đầy. Rượu bắt đầu tác dụng trong người ông như những chất men đang sôi sục. Khi đã nóng phừng lên, ông cảm thấy nhẹ nhàng hơn. Bóng đen của ba tháng vừa quá, tuy vẫn còn quay cuồng trong đầu ông như những đám mây khói, nhưng không còn đè nặng ông nữa. Một nụ cười cay độc nở trên môi, James Brodie ý thức một cách mạnh mẽ hơn bao giờ hết sự cao cả của ông, cá tính bất khả xâm phạm của ông. Và, lòng kiêu hãnh bị tổn thương của ông được bình phục! Cô chiêu đãi viên trẻ, duyên dáng, đang mong được bắt chuyện với người khách lạ lùng và to lớn này, nhưng Brodie không nhìn cô. Mải mê với cảm giác đang được giải thoát khỏi sự chán nản và suy nghĩ về những chiến thắng trong tương lai, ông ngồi im lặng, đôi mắt mơ màng, nhìn vào khoảng không. Cuối cùng ông hỏi mua một chai uýt-ki, trả tiền và đi ra.

Trở về căn phòng của mình, Brodie tiếp tục uống; rượu vào làm đầu óc ông trở nên độc đoán hơn, và ông hoàn toàn tán thành mọi cách cư xử của mình vừa qua.

Cái nhãn dán trên chai rượu in rõ ràng hai chữ “Sương núi”. Hai chữ này kích thích mạnh mẽ óc tưởng tượng của ông, khiến ông cảm thấy mình hùng mạnh như một trái núi và rực rỡ như giọt sương mai.

Ông nói lầm bầm với cái chai:

-Phải, mày hãy nghe những gì tao nói đây: Bọn chúng không hạ được tao đâu,  tao quá mạnh đối với chúng. Tao có thể hạ được chúng. Tất cả những gì tao đã làm đều đúng. Tao sẽ không thay đổi thái độ của tao đối với đứa con bất hiếu đó. Hãy chờ một chút và tụi bay sẽ thấy tao bước đi như thế nào. Tất cả sẽ được quên đi và không gì lay chuyển hoặc ngăn cản tao, tao sẽ thắng bọn chúng!

Brodie không biết mình đang buộc tội ai, nhưng ông xếp một cách rộng rãi vào loại này, tất cả những kẻ mà theo ý ông, đã công kích ông, bỏ rơi ông hay không thấy được giá trị của ông. Trong lúc này, ông không nghĩ đến sự cạnh tranh đang đe dọa công việc làm của ông. Sự cạnh tranh mà lòng tự kiêu của ông cho là không đang kể. Sự chống đối mà ông cảm thấy luôn luôn bàng bạc chung quanh ông, giờ đây được cô đọng lại trong ý nghĩ rằng bất cứ ai cũng có thể xúc phạm đến phẩm giá của ông; mà nỗi ám ảnh này, luôn luôn tiềm tàng, càng lúc càng mạnh mẽ hơn và tàn phá tâm trí ông nhiều hơn. Nhưng khi mối đe dọa địa vị của ông càng trở nên rõ rệt, thì niềm tin vào khả năng chiến thắng những đe dọa đó càng gia tăng mãnh liệt hơn.

Sau cùng, ông giũ bỏ sự suy tư để nhìn vào đồng hồ. Những cây kim mà ông thấy có vẻ to hơn và đen hơn bình thường, chỉ một giờ kém hai mươi. “Đã đến giờ ăn trưa”. James Brodie tự bảo một cách thú vị, “đến giờ đi gặp bà vợ rất can đảm của tôi. Thật là tuyệt diệu khi có được một người vợ lúc nào cũng chăm lo cho mình”. Ông ta đứng lên một cách bệ vệ, nhưng hơi loạng choạng, băng qua cửa hàng, hoàn toàn quên mất Perry và những cái cúi mình khúm núm sợ sệt của anh ta, và đi ngay ra giữa đường như một vị chúa tể. Suốt dọc theo mặt đường, ông ta tiến tới, đầu ngẩng cao, hai vai ưỡn ra sau, bước từng bước với một cảm giác tuyệt vời về sự quan trọng của mình.

Vài người khách qua đường hiếm hoi nhìn James Brodie với vẻ kinh ngạc, và trong khi ông quan sát họ bằng khóe mắt, vẻ ngạc nhiên của họ làm thỏa mãn lòng kiêu ngạo của ông ta, củng cố sự tự tin ngây ngất của ông, “các người hãy nhìn thật kỹ”, - thái độ của ông ta như có ý muốn nói đó là “Brodie – James Brodie – và tạ ơn Chúa, đó không phải là một người tầm thường”.

Brodie đi trong tuyết cho đến tận nhà mình, như thể đang dẫn đầu một đoàn diễu hành chiến thắng, luôn luôn ở ngay chính giữa đường. Xe cộ bắt buộc phải đi vòng để tránh ông, nhường cho ông làm vua trên mặt đường. Tới trước nhà, ông dừng lại. Một lớp tuyết trắng bao phủ căn nhà với một vẻ uy nghi hư ảo và lừa dối, làm dịu những đường nét cứng rắn, che giấu những đường viền nặng nề và thô kệch, khiến trước đôi mắt chói lòa của ông, ngôi nhà vươn lên như một khối hùng vĩ, in hình trên bầu trời màu xám. Chưa bao giờ ông thấy nó đẹp như thế, và khi vượt qua ngưỡng cửa, ông kiêu hãnh tự bảo nó là của ông!

Bước vào phòng ngoài, ông giở nón ra, và bằng những cử chỉ hùng mạnh ngông nghênh, ông giũ sạch lớp tuyết dày bám trên người, vừa thích thú nhìn những mảng tuyết tan dính trên vách tường, chiếc đèn treo, trần nhà, các khung hình. Sau đó, ông giậm một cách ồn ào những chiếc giày nặng nề xuống đất cho những mảnh tuyết cứng rơi ra, rồi đi vào phòng bếp với vẻ mặt của một kẻ chiến thắng.

James Brodie ngồi ngay xuống trước chiếc đĩa xúp nóng đã đặt sẵn trên bàn. Đây là bằng chứng gần như ít được chú ý về sự chăm sóc của bà vợ tận tâm và biết phòng xa của ông. Món xúp thơm mùi thịt bò, xương bò và đặc xệt đại mạch. “Đúng là món ăn thích hợp cho một ngày lạnh lẽo”, ông tự bảo, và bắt đầu ăn ngấu nghiến, không ngừng đưa lên miệng từng muỗng đầy và nhai thịt một cách ồn ào. Ông ta rất hài lòng, bởi vì nhiều tuần nay ông ăn không ngon miệng và cũng không thấy thèm ăn như vậy.

-“Tuyệt vời!” Ông gật đầu nói với vợ. “Và là điều hay cho bà. Nếu bà làm khét món canh của tôi với một ngày như hôm nay, tôi sẽ ném nó vào đầu bà!” Rồi vì bà ngừng lại để nghe lời khen tặng bất thường này, ông la lên: “Bà chờ đợi cái gì? Bữa ăn trưa của tôi chỉ có bấy nhiêu thôi sao?”

Bà Brodie vội vã đi ngay, và mang đến thật nhanh một tô thịt bò hầm, một đĩa khoai tây và bắp cải. Bà lo lắng tự hỏi điều gì đã lôi ông ra khỏi sự câm lặng triền miên đầy cáu kỉnh và trở nên ồn ào dễ sợ như vậy. Miệng đầy thức ăn, Brodie nhìn vợ với vẻ nhạo báng.

- “Ghê thật, bà vợ yêu quí của tôi, bà có một thân hình tuyệt vời!” Ông ta cười khẩy. “Nó cũng gần thẳng như lỗ mũi xinh đẹp của bà. Không, bà đừng bỏ trốn”. Brodie giơ con dao lên với một cử chỉ đe dọa, vừa tiếp tục nhai hết một miếng thịt. Xong, ông nói tiếp, giả vờ tỏ ra quan tâm một cách đặc biệt. “Tôi phải thú nhận là bà đã không được đẹp ra trong thời gian vừa qua. Tất cả những lo âu làm bà gầy đi, tóm lại bà giống một con ngựa kéo xe già. Cho đến giờ, bà vẫn còn mang tấm choàng vai cũ kỹ này”, ông ta xỉa răng bằng cái nĩa với một vẻ suy tư, “nó xứng đáng với bà lắm!”.

Bà Brodie đứng đó như một cây sậy khô, ánh mắt đăm đăm hướng về phía cửa sổ, như thể cái nhìn tránh né này giúp bà chịu đựng những lời lăng nhục ấy. Bà có nước da màu xám và trong của người bệnh, đôi mắt hõm sâu với một vẻ tuyệt vọng đen tối, và hai bàn tay ốm yếu của bà – bị hư xấu vì làm việc quá nhiều – giật giật một cách bồn chồn sợi dây cột chiếc tạp dề.

Một ý nghĩ chợt đến với Brodie: và ông liếc nhìn chiếc đồng hồ treo, kêu lên.

- Nessie đâu rồi?

- Tôi đã cho nó đủ thức ăn để ở lại trường. Khỏi phải về dưới cơn mưa tuyết này.

- Và mẹ tôi? – Ông ta làu nhàu.

- Bà không muốn dậy vì sợ lạnh.

- “Đáng lẽ bà nên làm như bà ấy!” Ông ta nói với một tiếng cười thô lỗ. “Nếu bà cũng cẩn thận như vậy, bà sẽ chịu đựng hay hơn và sức khỏe của bà sẽ không sa sút quá nhanh như thế. Thế là chỉ có hai đứa chúng mình thôi? Thật là cảm động, phải không nào? Bây giờ tôi có một tin quan trọng báo cho bà biết, một sự lý thú bất ngờ”.

Ngay lập tức bà rụt rè quay đầu lại, nhìn chồng với một vẻ tò mò cố giấu.

- “Nhưng bà đừng vội mừng!” Brodie chế nhạo. “Không phải về chuyện cái con khốn kiếp xinh đẹp của bà đâu. Bà sẽ không bao giờ biết được nó ở đâu. Lần này là vấn đề làm ăn. Bà luôn luôn giúp đỡ và khuyến khích chồng bà rất nhiều nên tôi phải nói cho bà biết”. Ông dừng lại, vẻ quan trọng: “Công ty may mặc Mungo đã mua cửa hiệu bên cạnh cửa hiệu của chồng bà, của Brodie, người bán nón”. Ông ta hạ giọng, nhìn sát mặt vợ. “Vậy có nghĩa là bà sắp sửa phải đi ăn mày rồi!”

Nói xong James Brodie cười rúc rích, khoái chí và tỏ ra dí dỏm.

Bà Brodie một lần nữa lại nhìn vào khoảng không. Bỗng bà cảm thấy mệt và ngồi xuống; nhưng liền đó ánh mắt chế giễu của chồng bà sa sầm lại, và gương mặt ông ta, đã đỏ gay lên vì rượu và thức ăn, phừng lên giận dữ

- Tôi đã bảo bà ngồi xuống chưa, đồ vô lễ? Đứng lên cho tới khi nào tôi nói chuyện xong!

Bà lại đứng lên như một đứa trẻ ngoan ngoãn.

- Có thể là bà không cần biết vì sao những tên đốn mạt đó dám cả gan đến sát bên cửa hiệu của tôi. Có lẽ bà đã đủ cái ăn và cái uống một cách quá dễ dàng, trong khi tôi phải làm việc cực nhọc để nuôi bà. Trí hiểu biết kém cỏi của bà không thấy rằng sẽ phải có một cuộc tử chiến… cho tới khi nào bọn chúng phải chết sao?

Ông ta đấm mạnh xuống bàn. Sự vui vẻ điên cuồng của ông đã biến mất, nhường chỗ cho một vẻ phẫn nộ đáng sợ.

- Nếu bà không thể suy nghĩ được thì hãy đi lấy bánh puddding cho tôi!

Bà đem đến một cái bánh mứt táo và ông ăn như một con chó sói đói, trong khi bà đứng ở đầu bàn bên kia, hệt như một đầy tớ, quần áo lôi thôi. Cái tin mà ông vừa báo, không hề làm bà xúc động.

Bà không sợ một tai biến nào về tiền bạc: Dầu ông ta chỉ đưa một số tiền vừa đủ để chi tiêu trong gia đình, bà vẫn luôn luôn có cảm giác là ông ta có tiền. Bà thường trông thấy ông ta rút từ trong túi ra một nắm đồng tiền vàng. Một mối lo âu khác đang giày vò bà… Bà không được thư của Mathieu từ sáu tuần nay và trước đó những lá thư của cậu ta càng lúc càng trở nên ngắn ngủi và bất thường. Điều này đã làm cho bà lo lắng và đau buồn một cách sâu xa. Đối với Mary bà xem như đã mất nàng vĩnh viễn. Bà không được biết gì về nàng, trừ tin đồn rằng gia đình Foyle đã tìm được cho nàng một chỗ làm ở Luân Đôn! Bây giờ, tất cả hy vọng và tất cả tình thương của bà đều tập trung vào Mathieu. Nessie là con cưng độc quyền của Brodie và bà chỉ còn lại có Matt. Hơn nữa, bao giờ cậu cũng là đưa con được bà cưng nhất. Nhưng không hiểu, đang có tai họa gì…

Bỗng bà giật mình.

- Cho tôi đường – Brodie la lên – Bà đang mơ mộng gì đó? Miếng bánh kẹp mứt này chua quá. Bà làm bánh ngọt rất tồi!

Tác dụng của rượu càng giảm xuống, ông ta càng trở nên gắt gỏng: Ông giằng lấy hũ đường từ tay bà, rắc đường lên miếng bánh theo ý thích của mình và ăn với một vẻ bất mãn.

Sau cùng ông ta đứng lên, cố gắng lắc mạnh để làm tan cơn buồn ngủ nặng nề bắt đầu xâm chiếm. Ra đến cửa, ông ta quay lại nói bằng một giọng sắc như dao:

- Bây giờ bà ngồi xuống đi, tôi chắc chắn là ngay lúc tôi quay lưng, bà sẽ đến ngồi trước bếp lửa với những quyển sách tồi tệ của bà, trong khi tôi cố làm việc để nuôi bà! Bà đừng nói với tôi là bà không lười biếng; bà đừng nói với tôi là bà không phải là một kẻ vô tích sự. Nếu tôi khẳng định điều đó, ấy là vì điều đó đúng. Chấm hết. Tôi biết bà quá, đồ giả vờ! 

Với sự bực tức càng lúc càng tăng, ông ta cố tìm cho được một cách thức mới để hành hạ vợ, và tìm ý nghĩ về một mũi tên cuối cùng hết sức độc địa đến với ông, đôi mắt ông sáng lên một cách hiểm ác:

- “Bây giờ, chúng ta đang có sự cạnh tranh trong công việc làm ăn”, ông ta nói tiếp, cố ý dằn từng tiếng, “chúng ta cần phải tiết kiệm. Cần phải bớt tiêu xài hoang phí ở trong nhà này, và để khởi đầu, tôi quyết định giảm bớt mười đồng shilling trong mỗi tuần, và đừng quên là tôi không muốn tiết kiệm về thức ăn của tôi. Bà hãy cố gắng xài phí ít hơn và vẫn cho tôi ăn như cũ. Bà nghe tôi nói chứ: giảm mười shilling trong mỗi tuần. Bà hãy suy nghĩ đến điều đó trong khi đọc tiểu thuyết!”

Và ông ra khỏi phòng.