Mối thù thiên thu

Phần I

Xe lướt tuyết rền rĩ những âm điệu như than vãn hoà với tiếng rèn rẹt của dây cương và tiếng leng reng của những quả chuông buộc nơi cổ những con chó đầu đàn; nhưng người và vật đều mệt mỏi nên chẳng buồn cất tiếng. Con đường mòn nằm lấp dưới lớp tuyết dày đặc mới rơi xuống. Họ đã vượt một khoảng đường xa, và những bàn trượt nặng trĩu dưới những tảng thịt nai rừng nặng như đá, bám rít lấy mặt tuyết chưa kết đông và chậm lại một cách bướng bỉnh hầu như có người xúi giục vậy. Màn đêm xuống dần, nhưng đêm hôm đó họ không có ý định cắm trại. Tuyết lả tả rơi trong bầu trời êm ả, không thành băng tuyết mà thành những mảnh pha lê li ti đủ hình thể xinh đẹp. Trời thực ấm áp - chỉ ngót 10 độ[1] dưới không độ - và mọi người cảm thấy thoải mái. Meyers và Bettles đã lật hai cánh mũi che tai lên, và Malemute Kid° lại còn tháo cả bao tay ra.

Đàn chó đã mệt mỏi từ lúc xế trưa, nhưng lúc này chúng lại tỏ ra hăng hái như vừa được tiếp một nguồn sinh lực mới. Trong đám những con chó khôn, có một vẻ bồn chồn – chúng hung hăng nhưng bị dây kéo cản lại, chúng hỉnh mũi đánh hơi và dỏng tai lên nghe ngóng. Chúng bực tức với những con có vẻ thờ ơ, thúc dục những con này bằng cách táp nhẹ vào mông chúng. Những con bị trách móc như vậy cũng dúm lại và hùa vào làm cho vẻ hung hăng lan rộng thêm. Sau cùng con đầu đàn của chiếc xe dẫn lộ rít lên một tiếng mãn nguyện, rạp mình sát xuống tuyết rồi lao tới phía trước. Những con khác cũng rít lên như vậy. Các đoàn sau đi túm tụm lại, dây kéo siết lại gần nhau; những chiếc xe lướt trên tuyết băng tới trước, và mọi người nắm chặt lấy cây cột, nhấc chân bước mạnh mẽ càng lúc càng mau để khỏi bị xe lướt tuyết cán lên. Dường như họ vừa trút được hết sự mỏi mệt lúc ban ngày, và họ lên tiếng hò khuyến khích đàn chó. Chúng đáp lại bằng những tiếng sủa ăng ẳng vui vẻ. Họ đang tiến với một sức phi mau như gió qua bóng tối đang xuống dần.

Mọi người lần lượt kêu mấy tiếng “Quẹo! Quẹo!” trong khi chiếc xe lướt tuyết bất chợt rời bỏ đường chính, họ điều khiển những xe lướt tuyết đó như đoàn thuyền lướt trong gió.

Sau đó là cuộc chạy nước rút một trăm thước tới cái cửa sổ che bằng tấm da bên trong có ánh sáng le lói như báo cho mọi người biết đó là cái chòi có người ở, có lò lửa kiểu Yukon đang cháy rực, và những ấm trà đang bốc hơi nghi ngút. Người và vật đã đổ xô tới chiếc chòi đó. Chừng sáu chục con sủa vang như khiêu khích, và có những con vật lông xù to lớn xông lại phía những con chó kéo chiếc xe đi đầu. Cánh cửa mở bật ra, một người mặc áo màu đỏ tía thuộc Cảnh Sát miền Tây Bắc bước một cách khó khăn giữa những con vật hung hăng, lông chúng che phủ tới đầu gối người đó; ông dàn hoà chúng một cách bình tĩnh và vô từ bằng cái cán roi. Sau đó mọi người bắt tay chào hỏi, và Malemute Kid được người lạ bắt tay mời vào căn lều của chính mình.

Stanley Prince, lẽ ra phải ra đón anh, và có nhiệm vụ trông chừng cái lò và trà nóng, lại đang bận rộn khách khứa. Họ chừng hơn chục người, thật là một nhóm người hỗn tạp phụng sự Hoàng gia Anh để thi hành luật pháp hoặc phân phát thư tín. Họ thuộc nhiều nhân chủng khác nhau, nhưng cuộc đời thường nhật đã tạo họ thành một hạng người đặc biệt - một loại người dong dỏng và gân guốc, có bắp thịt cứng rắn vì phải đi lại đường rừng, khuôn mặt xạm nắng và tâm hồn thanh thản, cặp mắt sáng luôn luôn nhìn thẳng và thành thực. Họ đánh xe do chó của Hoàng gia kéo, gieo sợ hãi vào lòng những kẻ bất lương, họ ăn những thực phẩm thanh đạm của chính phủ ban cho và lấy thế làm sung sướng. Họ đã từng trải đời, tạo được nhiều thành tích, và sống những giờ phút nên thơ mà họ không ngờ.

Họ sống rất thân mật và hồn nhiên. Hai người trong bọn nằm dài trên giường của Malemute Kid, miệng hát những bài ca mà tổ tiên người Pháp của họ đã hát khi mới đặt chân tới mảnh đất miền Tây Bắc và sống chung với người Da Đỏ ở đó. Giường của Bettles cũng bị chiếm; ba hay bốn “khách du hành” lực lưỡng vừa cựa quậy ngón chân của họ trong đống chăn mền vừa nghe chuyện một người đã từng phụng sự trong lữ đoàn hải thuyền cùng với Wolseley khi ông này chiến đấu mở đường đi tới Khartoum. Và khi anh này mệt rồi, một chàng “chăn bò” thuật lại về những triều đình cùng những ông hoàng bà chúa mà anh ta đã thấy hồi Buffalo Bill đi lưu diễn tại các kinh đô bên Âu Châu. Trong một góc phòng có hai chàng lai, cựu đồng ngũ trong một cuộc bại trận, ngồi sửa lại dây cương và đàm luận về hồi mà miền Tây Bắc đang chìm trong khói lửa của cuộc nổi loạn và Louis Riel làm chúa tể.

Những lời giễu cợt và trò nghịch tinh thô lỗ ồn ào như vỡ chợ, và những cuộc mạo hiểm gian truân trên những nẻo đường và khúc sông được kể lại như chuyện tầm thường, nhưng sở dĩ nó được nhắc lại là vì nó có đượm vẻ khôi hài hoặc ngộ nghĩnh. Prince say sưa theo dõi chuyện của những vị anh hùng không tên tuổi này, những người đã chứng kiến lịch sử diễn biến, đã coi những chuyến vĩ đại, những chuyện hào hùng là chuyện tầm thường hoặc tình cờ trong cuộc sống thường nhật mà thôi. Chàng đem thuốc lá quý ra cho mọi người chuyền tay quấn hút một cách lãng phí; rồi trí nhớ dường như được mài dũa lại, mọi người đua nhau thuật lại những chuyện phiêu lưu kỳ thú cho anh nghe.

Khi buổi chuyện trò tàn và những kẻ du hành kia nhồi thuốc lá vào ống điếu cuối cùng rồi trải ra những cái túi ngủ bằng da thú được cuộn chặt, Prince quay lại bạn để hỏi thêm tin tức.

Malemute Kid, đang bắt đầu cởi giầy, cất tiếng trả lời: “Anh biết chàng chăn bò là ai rồi, và chắc anh cũng đoán được một cách dễ dàng là người nằm cùng giường với hắn có máu Anh Cát Lợi. Còn những người kia đều là dòng dõi của những tay lục lâm, lai với không biết bao nhiêu dòng máu khác. Hai người đang ở ngoài cửa đi vào thì lai máu Eskimo. Anh chàng có cái khăn quàng bằng len đan – hãy để ý cặp lông mày và cằm hắn - một người Tô Cách Lan đã từng khóc trong chiếc lều ám khói của người mẹ Da Đỏ của hắn. Và thằng đẹp trai đang đặt cái áo khoác xuống để gối đầu là một thằng lai Pháp – anh đã nghe hắn nói chuyện đó; hắn không ưa hai thằng Da Đỏ vào sau hắn. Anh hiểu không, khi bọn “lai” nổi loạn dưới sự chỉ huy của Riel thì bọn “thuần tuý”, (không lai) lại cứ phớt tỉnh, và từ ngày đó tới giờ họ vẫn không ưa gì nhau mấy”.

“Nhưng này, thế cái thằng cha ngồi lầm lì bên cạnh cái lò là hạng thế nào? Tôi chắc hắn không nói được tiếng Anh. Suốt buổi tối tôi chưa thấy hắn hé miệng”.

“Anh lầm rồi. Nó biết khá tiếng Anh đấy. Anh có để ý nhìn mắt hắn lúc hắn nghe không? Tôi có để ý. Nhưng nó không họ hàng quen thuộc gì với những kẻ khác. Khi bọn này nói tiếng lóng ta có thể thấy là hắn không hiểu. Chính tôi cũng tự hỏi rằng hắn là hạng người gì. Chúng ta thử khám phá coi”.

“Cho thêm mấy que củi vào lò!” Malemute Kid lên giọng ra lệnh và mắt nhìn thẳng người đó.

Hắn ta làm theo ngay.

Stanley Prince nói nhỏ phê bình: “Hắn đã được huấn luyện về kỷ luật ở một nơi nào hẳn”.

Malemute Kid gật đầu, tuột nốt đôi bít tất (vớ), rồi len lỏi qua đám người nằm ngổn ngang để tới phía lò. Tới nơi, chàng treo đôi vớ ẩm ướt vào giữa đám chừng hơn chục đôi vớ khác.

“Anh cho chừng nào thì tới Dawson?” Chàng ướm hỏi.

Hắn quan sát chàng một lát rồi mới trả lời: “Người ta nói là chừng 75 dặm[2]. Có lẽ mất hai ngày”.

Giọng nói của hắn có hơi pha một chút, nhưng hắn nói không ngượng hoặc phải loay hoay tìm tiếng.

“Trước anh đã ở đây chưa?”

“Chưa”.

“Ở miền Tây Bắc lại à?”

“Phải”.

“Sinh tại đó hả?”

“Không”.

“Vậy thực ra anh sinh ở nơi nào hả? Anh không thuộc cùng xuất xứ với bọn người này”. Malemute Kid đưa tay lướt qua đám người đánh xe, kể cả hai cảnh sát viên đã chui vào giường của Prince. “Anh từ đâu tới? Tôi đã từng thấy những khuôn mặt giống như anh, nhưng tôi không nhớ ở nơi nào.”

“Tôi biết ông.” hắn trả lời lừng khừng làm những câu hỏi của Malemute Kid xoay hẳn qua chiều khác.

“Ở đâu? Anh đã gặp tôi bao giờ chưa?”

“Không, bạn ông, làm mục sư ở Pastilik, lâu lắm rồi. Ông ta hỏi tôi có gặp ông là Malemute Kid không? Ông ta cho tôi thức ăn. Tôi không ở lâu: Ông có nghe ông ta nói về tôi không?”.

“À! Anh là người đã đổi da rái cá lấy chó phải không?”

Hắn gật đầu, vỗ ống điếu, rồi cuộn tròn mình trong đống da thú để tỏ vẻ không muốn nói chuyện nữa. Malemute Kid thổi tắt ngọn đèn mỡ rồi chui vào mền ngủ chung với Prince.

“Thế nào, hắn là ai?”

“Không biết - hắn tìm cách lảng câu chuyện rồi ngậm miệng như hến. Nhưng hắn là kẻ làm mình phải tò mò. Tôi có nghe về hắn. Cách đây tám năm, cả vùng bờ biển đều bàn tán về hắn. Hắn có một vẻ gì bí mật, anh ạ. Hắn từ phía Bắc xuống vào giữa mùa Đông, từ một nơi cách đây hàng ngàn dặm, vòng theo bờ biển Bering và đi như bị ma đuổi. Không ai biết hắn từ đâu tới, nhưng hắn là từ một nơi xa xôi lắm. Vì đi nhiều nên hắn có vẻ mệt mỏi, khi hắn xin thực phẩm của nhà truyền giáo Thuỵ Điển ở vịnh Golovin và hỏi thăm đường xuống phía Nam. Mãi sau chúng tôi mới nghe tới chuyện đó. Sau đấy hắn rời bờ biển và đi thẳng qua eo đất Norton. Thời tiết ở đó kinh khủng, bão tuyết và gió lộng, nhưng hắn vượt được qua nơi mà hàng ngàn kẻ khác có lẽ đã bỏ mạng, băng qua vùng St. Michael rồi tới Pastilik. Hắn mất hết cả, chỉ còn giữ được hai con chó, và có vẻ sắp chết đói.”

“Hắn quá nóng lòng muốn tiếp tục cuộc hành trình đến nỗi linh mục Roubeau phải cho hắn thực phẩm; nhưng vị linh mục đó không thể giúp chó cho hắn được, vì ông ấy đang chờ tôi đến để cùng lên đường. Chàng Ulysses đó quá hiểu tình thế nên không dám lên đường nếu không có chó, và chàng phải quanh quẩn ở náu lại vài ngày. Trên xe lướt tuyết, hắn có một đống da rái cá đã thuộc rất khéo, loại da thú quý như vàng. Ở Pastilik có một lão thương gia người Nga chuyên bóc lột. Lão này dư chó. Họ đổi chác mau chóng, và khi con người kỳ lạ đó tiếp tục cuộc hành trình về phía Nam, xe của hắn có một đàn chó đầy sinh lực kéo. Còn lão lái buôn bóc lột kia được hưởng da rái cá. Tôi có thấy, thực là những bộ da đẹp. Chúng tôi tính ra và thấy rằng mỗi con chó mang lại cho lão tới năm trăm đồng. Và không phải kẻ kỳ lạ kia không biết giá da rái cá đâu; hắn là thổ dân Da Đỏ thuộc bộ lạc nào đó, và nghe vài câu hắn nói, người ta có thể đoán chừng hắn đã sống với người da trắng.”

“Sau khi băng ở ngoài biển tan, có tin từ đảo Nunivak cho hay là hắn có tới đó, để kiếm thực phẩm. Sau đó hắn biến dạng, không ai gặp hắn nữa, và tám năm nay, bây giờ người ta mới lại nghe tới hắn. Hắn từ đâu tới? Và hắn làm gì ở đó? Và tại sao hắn bỏ nơi đó để tới đây? Hắn là người Da Đỏ không ai biết ở nơi đâu, và hắn biết tuân kỷ luật, một điều đặc biệt đối với người Da Đỏ. Này Prince, đây là một điều bí ẩn ở miền Bắc mà anh cần tìm ra giải đáp.”

Chàng trả lời: “Cảm ơn anh lắm lắm, nhưng tôi hiện đã có quá nhiều việc phải làm rồi.”

Malemute Kid đã thở đều; nhưng chàng kỹ sư hầm mỏ vẫn mở mắt nhìn vào bóng tối mông lung, chờ cho cảm giác tò mò kích thích lạ lùng nguôi dần đi. Và khi chàng đã ngủ thật, đầu óc chàng vẫn còn tiếp tục làm việc, vì chính lúc đó chàng cũng đang phiêu lưu trên làn tuyết trắng, cùng với đàn chó vất vả tiến trên những đường mòn vô tận, và nhìn thấy những con người sinh hoạt, làm lụng và chết hiên ngang, đúng với tư cách của con người.

Sáng hôm sau, mấy giờ trước khi mặt trời mọc, những người đánh xe do chó kéo và những cảnh sát viên cùng lên đường tiến về Dawson. Nhưng những nhân viên chức trách bảo trì quyền lợi của Hoàng Gia Anh và định đoạt số phận của những bực thần dân thấp kém hơn không để những người đưa thư được nghỉ ngơi nhiều, vì một tuần lễ sau họ đã xuất hiện ở sông Stuart, mang nặng thư từ gửi tới vùng Salt Water. Tuy nhiên, họ đã thay chó mới. Nhưng chỉ có chó là được nghỉ thôi.

Mọi người đã hy vọng được ở lại đó nghỉ ngơi ít lâu để lấy lại sức. Hơn nữa, vùng Klondike này là một khu vực mới của miền Bắc, và họ mong ước được quan sát vài điều về Thành Phố Vàng này, tại đó tiền bạc dồi dào như nước và vũ trường lúc nào cũng rộn ràng một bầu không khí tưng bừng vui vẻ hầu như vô tận. Nhưng họ vẫn sấy vớ và hút tẩu thuốc mỗi buổi tối một cách vui vẻ cũng như những lần tới thăm trước, tuy có một hai tay liều lĩnh bàn bạc về chuyện đào ngũ và vượt quá vùng Thạch Sơn hiểm trở để tới miền Đông, và từ đó, qua thung lũng Mackenzie, đặt chân trở lại vùng đất xưa của họ ở xứ Chippewyan. Hai ba người còn định trở về quê hương bằng đường đó sau khi mãn hạn phục vụ và họ bắt đầu sắp đặt kế hoạch, mong mỏi ngày thi hành cuộc mạo hiểm ấy y như một dân thành thị xếp đặt chương trình cho một ngày nghỉ đi cắm trại trong rừng.

Anh chàng đổi da rái cá có vẻ băn khoăn đứng ngồi không yên và không chú ý gì tới cuộc đàm thoại, sau cùng hắn kéo Malemute Kid ra một bên và nói thầm một lát. Prince thỉnh thoảng tò mò nhìn họ, và vẻ bí mật càng tăng lên khi họ đội mũ, mang bao tay rồi đi ra ngoài. Khi trở lại, Malemute Kid đặt cái cân vàng lên bàn, cân ra chừng 60 lạng vàng và trút vào túi người Kỳ Dị. Sau đó, đoàn trưởng cầm đầu những người đánh xe tới tham dự cuộc bàn cãi bí mật, và dường như họ đã điều đình một chuyện gì với ông ta. Ngày hôm sau cả đoàn đi ngược dòng sông, duy chỉ có anh chàng đổi da rái cá lại mua một số thực phẩm và đã ngược về phía Dawson.

Trả lời những câu hỏi của Prince, Malemute Kid nói: “Chẳng biết chuyện gì, nhưng anh chàng khốn khổ đó lại muốn bỏ việc vì một lý do nào đó. Tuy hắn không nói ra, nhưng chắc chắn lý do đó phải hết sức quan trọng đối với hắn. Anh biết không, giống như trong quân đội: hắn ký hai năm, và chỉ có mỗi một cách để được tự do là bỏ tiền ra chuộc. Hắn không thể bỏ tiền rồi ở lại đây được, hắn đã quyết định ở lại vùng này từ khi tới Dawson, nhưng hắn không quen ai cả, mà trong túi không có một xu, và tôi là người duy nhất đã cùng hắn trao đổi một đôi lời. Thế nên hắn đã nói với viên phó quản đốc và lo dàn xếp mọi việc trong trường hợp hắn vay được tiền của tôi. Hắn nói là sẽ hoàn lại nội trong năm nay và nếu tôi muốn, hắn sẽ chỉ tôi chỗ làm giàu. Tuy hắn chưa trông thấy tận mắt nhưng hắn biết là chỗ đó có nhiều của lắm.”

“Khi kéo tôi ra ngoài, hắn gần như muốn khóc. Hắn cầu khẩn, van xin, quỳ xuống tuyết lạy tôi, tôi phải kéo lên mới thôi, hắn nói mãi như một người điên. Hắn thề rằng bao nhiêu năm nay hắn làm việc chỉ cốt để thực hiện điều này và bây giờ hắn không thể nào chịu bỏ dở. Hỏi hắn việc đó là gì hắn không chịu nói. Hắn nói rằng người ta có thể bắt hắn chạy bên nửa phần đường bên kia và như vậy hai năm nữa hắn mới trở lại Dawson được, và lúc đó sẽ quá muộn rồi. Suốt đời tôi chưa thấy ai năn nỉ khẩn thiết như hắn. Và khi tôi nói là sẽ cho hắn vay tiền, hằn lại sụp lạy dưới tuyết làm tôi lại phải kéo hắn lên. Tôi bảo hắn là hãy coi món tiền đó như tiền ra vốn để được chia một phần. Anh tưởng hắn chịu liền phải không? Không? Hằn thề là hắn sẽ cho tôi tất cả những gì hắn tìm được, sẽ làm cho tôi giầu có ngoài sự mơ ước của kẻ tham lam nhất. Thực ra một người bỏ cả tính mạng và thời giờ của mình để lấy một phần, thường thường chia một nửa số tài sản mình tìm thấy, cũng đã đứt ruột rồi. Này Prince, chắc có điều gì bí ẩn trong câu chuyện, anh để ý mà coi. Nếu hắn còn ở xứ này, chúng ta sẽ nghe nói về hắn...”

“Thế nếu hắn không ở đây?”

“Thì bản tính tốt của tôi sẽ bị tổn thương và tôi sẽ mất toi hơn 60 lạng vàng.”

Thời tiết lạnh lẽo đã tới với những đêm dài và mặt trời lại bắt đầu chiếu le lói dọc theo đường tuyết trắng ở phía Nam, nhưng chưa có tin gì về tiền vốn xuất trước của Malemute Kid cả. Nhưng rồi vào một buổi sáng lạnh lẽo đầu tháng Giêng, một đoàn xe chở nặng do chó kéo tiến tới căn lều của chàng ở phía dưới sông Stuart. Anh chàng da Rái Cá cũng đi theo đó, và cùng với hắn là một người đàn ông mà tạo hoá hầu như đã quên không biết làm thế nào để tạo ra một người thứ hai giống như thế nữa. Người ta hễ nói tới may mắn, tới bóc lột và tới nắm đất giá năm trăm Mỹ kim là phải nói tới Axel Gunderson và hễ kể đến những chuyện gan góc, bạo lực hoặc liều lĩnh bên lửa trại là phải nói tới hắn. Và khi câu chuyện bớt hào hứng, thì cứ nói tới người thiếu phụ đã chia sẻ số phận của hắn là cuộc hội thoại lại sôi nổi ngay.

Trong khi cấu tạo Axel Gunderson, thần thánh đã nhớ lại nghệ thuật sắc sảo thời xưa của họ và đã đúc khuôn hắn theo với những người được sinh ra khi thế giới còn trẻ trung. Với hai thước mốt bề cao, hắn đứng sừng sững trong bộ y phục oai hùng. Ngực, cổ, và chân tay hắn giống như của một ông hộ pháp. Để chịu đựng thân hình nặng trên trăm ký, đôi giày đi tuyết của hắn lớn hơn giầy những người khác cả gang tay. Nét mặt thô bạo, cặp lông mày rậm rạp, chiếc cằm banh ra và cặp mắt xanh đục không chớp, khuôn mặt hắn như nói cho ta biết hắn là con người chỉ biết luật lệ của sức mạnh. Mớ tóc màu vàng nâu râu ngô, cứng nhắc vì đọng nước đá toả xuống như ánh sáng ban ngày chiếu qua màn đêm dài và thõng xuống tới lưng chừng cái áo bằng da gấu của hắn. Hắn còn vướng víu ít tác phong của dân đi biển khi ta nhìn hắn bước trên đường mòn nhỏ này trước đàn chó, rồi hắn lấy cán roi đập vào cửa căn lều của Malemute Kid chẳng khác nào như một tướng cướp miền biển Bắc trong khi ngao du xuống miền Nam dõng dạc đòi vào cổng toà lâu đài.

Prince vén tay áo lên để lộ cánh tay mềm mại, và nhào nặn đống bột bánh mì, thỉnh thoảng chàng liếc nhìn ba người khách – ba người khách mà không bao giờ ai có thể tưởng tượng được là có thể cùng họp nhau dưới một mái nhà. Người kỳ lạ, mà Malemute Kid đã mệnh danh là Ulysses, vẫn làm chàng rất chú ý; nhưng chàng để ý nhất tới Axel Gunderson và vợ gã. Nàng như thấm mệt vì chuyến đi trong ngày hôm đó. Từ khi chồng nàng làm chủ được một tài sản lớn lao, nàng đã quen những căn nhà đầy đủ tiện nghi, và trở nên mềm yếu; chuyến đi hôm nay làm nàng bị mệt mỏi thật. Nàng ngả người dựa vào cái ngực lớn như tấm phản của chồng, chẳng khác gì một bông hoa ẻo lả ngả vào một bức tường, uể oải đáp những câu đùa cợt vui vẻ của Malemute Kid và làm cho tim của Prince đập dồn dập bằng những cái liếc nhìn của cặp mắt âm u và sâu thẳm. Sở dĩ như thế là vì Prince là một người đàn ông khỏe mạnh và trong bao nhiêu tháng ít có dịp gặp gỡ phụ nữ. Và nàng lại nhiều tuổi hơn chàng, hơn nữa lại là một phụ nữ Da Đỏ. Nhưng nàng khác hẳn tất cả những phụ nữ bản xứ mà chàng đã gặp: nàng đã du lịch nhiều – đã từng sống tại xứ sở của chàng, và nhiều xứ khác nữa, chàng biết vậy trong khi theo dõi câu chuyện; và nàng biết hầu hết những điều mà phụ nữ đồng chủng của chàng biết, và biết thêm cả những điều mà phụ nữ chẳng nên biết. Nàng có thể dọn một bữa ăn với cá khô hoặc có thể làm một cái giường trong tuyết. Tuy nhiên, nàng lại trêu chọc họ với những câu mô tả tỉ mỉ về những bữa ăn thịnh soạn khiến họ phải nuốt nước miếng, và làm cho ruột họ cồn lên khi nàng nhắc lại các món cũ rích mà hầu như họ đã quên bẵng. Nàng biết những cách sinh hoạt của giống nai rừng, gấu, cáo nhỏ màu xanh và giống hải báo ở những biển miền Bắc, nàng thành thạo về rừng rú và sông ngòi, và những dấu vết do người, chim chóc và thú vật để lại trên mặt tuyết nàng đều thuộc lầu cả; tuy nhiên, Prince bắt gặp cái chớp mắt tán thưởng của nàng trong khi nàng đọc những luật lệ của Trại. Những luật lệ này do chàng Bettles bất trị đặt ra trong một lúc hứng chí và viết bằng một giọng khôi hài thô lậu. Prince luôn luôn lật úp bài luật lệ đó vào tường trước khi có phụ nữ tới; nhưng ai có thể ngờ được rằng người phụ nữ bản xứ này – mà thôi, bây giờ quá chậm rồi.

Người đàn bà này là vợ Axel Gunderson, một phụ nữ mà tên tuổi cùng danh tiếng đã truyền tụng cùng với tên tuổi và danh tiếng của chồng trong toàn cõi miền Bắc Băng. Khi ngồi vào bàn ăn, Malemute Kid trêu ghẹo nàng với sự bình tĩnh của một người bạn thân thiết, và Prince trút bỏ được sự ngượng nghịu của buổi sơ giao và cùng góp chuyện. Nhưng nàng không hề sút kém trong cuộc đấu trí bất đồng, trong khi chồng nàng trí tuệ chậm chạp hơn, chỉ biết khen ngợi tán thành. Và gã lấy làm hãnh diện về nàng; mọi dáng điệu và hành động của gã đều biểu lộ cái địa vị cao cả mà nàng ngự trị trong đời gã. Anh chàng Da Rái Cá lặng lẽ ngồi ăn, bị quên lãng trong cuộc đấu khẩu vui nhộn; và khi mọi người mới ăn tới nửa chừng, hắn đã rời bàn đi ra với đàn chó. Tuy nhiên chỉ một lát sau những bạn đồng hành của hắn cũng mang bao tay và áo khoác để ra theo hắn.

Từ mấy hôm nay không có tuyết rơi, những chiếc xe lướt trên tuyết cũ đã đổ chật về trên con đường mòn Yukon một cách dễ dàng như đi trên nước đá mịn màng. Ulysses dẫn chiếc xe đầu; theo sau là chiếc xe của Prince và vợ Axel Gunderson; trong khi Malemute Kid và chàng khổng lồ tóc vàng đi đoạn hậu trên chiếc xe thứ ba.

Hắn nói: “Đây chỉ là một chuyến cầu may nhưng tôi cho là có nhiều hy vọng lắm. Hắn chưa từng tới đó bao giờ, nhưng hắn kể rành mạch lắm và cho tôi xem một bản đồ mà tôi đã nghe nói tới khi còn ở xứ Kootenay cách đây đã lâu. Tôi muốn có anh cùng đi, nhưng tính hắn kỳ dị và hắn thề độc địa là sẽ bỏ hết nếu có thêm một người nữa vào. Nhưng khi về, tôi sẽ cho anh biết trước tiên, và tôi sẽ cắm cho anh một chỗ bên tôi, ngoài ra, tôi sẽ giành cho anh một nửa phần tại vị trí lập tỉnh.”

“Không! Không!” Hắn la lên khi Malemute Kid muốn ngắt lời hắn. “Tôi đang điều khiển công việc này và sẽ cần có hai người trước khi tôi làm xong. Nếu trôi chảy cả, nơi đó sẽ trở nên miền Cripple Creek thứ hai anh nghe không? – một Cripple Creek thứ hai! Anh biết không đó là cả mạch vàng chứ không phải vàng vụn phải đãi; và nếu làm đúng cách, chúng ta sẽ vớ được cả món bở - hết triệu này tới triệu khác. Trước tôi đã có nghe về nơi đó và anh cũng vậy. Chúng ta sẽ dựng lên một tỉnh – hàng ngàn công nhân – có sông đào rộng rãi – có hãng tàu buôn bán phồn thịnh – tàu thuỷ để chở khách sang ngang – có lẽ phải tính lập đường xe lửa – nhà máy cưa – nhà máy điện – mở ngân hàng riêng – hãng buôn – nghiệp đoàn – Này! Anh đừng có trống chuyện với ai cho tới khi tôi trở về nhé!”

Đoàn ngừng lại chỗ đường mòn đụng cửa sông Stuart. Một biển sương muối kín mít toả ra về phía Đông bất tận. Những chiếc giày đi tuyết buộc ở xe bây giờ được tháo dây lôi ra. Axel Gunderson bắt tay rồi bước tới xe trước, hai chiếc giày có vành rộng để bước trên tuyết của chàng thụt xuống tuyết cả nửa thước và chàng nện tuyết xẹp xuống để đàn chó khỏi đầm mình dưới tuyết. Vợ chàng đi về phía xe sau, tỏ ra nàng đã quen xử dụng đôi giày phiền phức đó. Cảnh vật im lìm bị phá tan vì những tiếng chào tạm biệt líu lo, đàn chó đua nhau rít lên; và anh chàng Da Rái Cá dùng roi điều khiển một con chó ương ngạnh.

Một giờ sau, đoàn xe trông không khác nào một cây viết chì đen vạch một vạch thẳng dài trên mảnh giấy lớn.