Món Quà Bí Ẩn

Chương 8

Bánh “Pudding” và bánh táo

Mười giờ ba mươi tối.

Đó là lúc thành phố chia tay Lou, để tiễn anh về con đường ven biển dẫn về ngôi nhà xinh xắn ở Howth, thành phố Dublin.

Bên cạnh bờ biển, cả dãy nhà nằm san sát nhau giống hệt như một bức tranh màu nước hoàn hảo. Suốt ngày được gió biển thổi vào, vùng đất này đã đi vào văn hóa của người Mỹ, được xem như “nhà” của ông già Noel và những con tuần lộc với những nóc nhà sáng lấp lánh. Mỗi khung cửa sổ với màn cửa vén lên, lung linh ánh đèn từ cây thông Noel hắt ra. Lou nhớ lại, hồi còn trẻ, anh từng cố đếm xem có bao nhiêu cây thông khi đi qua khu vực này. Bên tay phải của Lou, anh có thể nhìn thấy cả bến cảng phía xa. Ánh sáng của thành phố Dublin lấp lánh trên mặt biển đen, giống như ánh đèn kỳ diệu trong những câu chuyện cổ tích.

Howth là niềm mơ ước của mọi người – Lou nhớ lại. Ký ức đầu tiên của anh bắt đầu từ đây – cảm giác khao khát đầu tiên của anh, cảm giác mong muốn thuộc về nơi đó. Cách thành phố Dublin mười lăm kilomet là cảng cá và khu nghỉ mát nổi tiếng Howth Head. Đó là ngôi làng lịch sử, có những con đường với tường đá bao quanh dẫn đến làng Howth cổ xưa và khu tu viện đổ nát, với những lâu đài từ thế kỷ mười lăm nằm sâu trong đất liền, với những mảnh vườn đỗ quyên và những ngọn hải đăng dọc theo bờ biển.

Ngôi làng nổi tiếng lúc nào cũng tấp nập với những quán rượu, khách sạn, nhà hàng cá tươi. Vịnh Dublin, dãy núi Wicklow hay thung lũng Boyne đều là những danh lam thắng cảnh hút hồn du khách. Howth là một hòn đảo với dải đất liền nhỏ nối liền nó với phần đất liền còn lại – dải đất nhỏ ấy cũng chính là sự kết nối Lou với gia đình anh.

Những ngày có bão, từ cửa sổ văn phòng làm việc của mình, Lou có thể nhìn rõ từng con sóng đầu bạc giận dữ, cuộn tràn, như thể sẵn sàng nuốt trôi cả dải đất bé nhỏ đó, đe dọa cắt đứt gia đình anh với phần đất liền còn lại. Đôi lúc, anh nằm mơ thấy mình xa gia đình, xa họ mãi mãi. Trong khoảnh khắc đó, lòng anh dâng tràn lên nỗi khát khao được bao bọc, chở che của họ.

Đằng sau vườn cây cạnh rộng lớn của gia đình là bãi đất hoang gồ ghề đầy những cây thạch nam tím và cỏ hoang, nhìn thẳng ra vịnh Dublin. Từ phía trước, có thể thấy một khung cảnh tuyệt vời trong những ngày quang đãng, giống như một khoảng trời xanh khổng lồ với những cụm mây trên bầu trời được nhẹ nhàng thả xuống mặt đại dương. Lou rất thích một mình đi dọc theo chiếc cầu tàu vươn ra từ bến cảng. Tình yêu của anh dành cho cái cầu tàu bắt đầu từ những ngày anh còn bé, những ngày bố mẹ hay dẫn anh, chị Marcia và anh Quentin đến Howth mỗi Chủ nhật. Dù trời mưa hay nắng, họ vẫn kéo nhau đi dọc theo cái cầu tàu này.

Trong những ngày nắng nóng, anh thường vừa đi vừa nhâm nhi cây cà rem. Còn trong những ngày mưa bão, gió từ cầu tàu thổi mạnh đến nỗi cả nhà phải bám vào nhau để gió khỏi thổi họ rơi xuống biển.

Và những ngày gia đình quây quần nơi cầu tàu đó, Lou thường lảng ra, biến mất trong thế giới của riêng mình. Anh mơ mình là cướp biển giữa biển khơi. Anh mơ mình là người cứu hộ. Anh mơ mình là người lính. Anh mơ mình là cá voi. Anh cảm giác như lúc đó, thuở còn là cậu bé Lou đứng nơi cầu tàu đó, anh có thể là bất cứ thứ gì anh muốn.

Trong khoảnh khắc đầu tiên bước chân xuống cầu tàu; con đường đưa anh đến với không gian yên tĩnh của riêng mình. Anh vẫn thích nhìn những chiếc xe hơi, những mái nhà trên vách đá nhô ra biển mờ dần theo từng bước chân rời xa khỏi đất liền của anh. Rồi anh sẽ đứng với ngọn hải đăng nhìn ra biển khơi. Ở đấy, sau một tuần làm việc, anh sẽ vứt tất cả những lo âu phiền muộn xuống biển, nhìn nó rơi xuống đầu ngọn sóng và chìm dần vào biển sâu.

Nhưng đêm nay – cái đêm Lou lái xe về nhà sau lần đầu tiên gặp Gabe – thì đã quá trễ để đi bộ trên cầu tàu. Đã quá khuya. Anh chẳng còn nhìn thấy gì ngoài bóng đêm và thỉnh thoảng là ánh sáng lóe lên của ngọn hải đăng. Nhưng trong khu làng ven biển thì không hề yên tĩnh, dù chỉ mới giữa tuần và đồng hồ đã nhích gần đến mức muộn lắm rồi. Gần đến Giáng sinh, nên nhà hàng nào cũng rộn ràng bữa tiệc tối. Tất cả các con thuyền đều cập bến. Mấy con hải cẩu đi khỏi cầu tàu với cái bụng no tròn cá thu mà du khách vứt cho. Con đường quanh co lên đỉnh đồi bây giờ đen kịt và yên tĩnh, tạo cảm giác như nhà rất gần nhưng thực chất không có ai ở xung quanh.

Anh nhấn mạnh chân ga chiếc Porsche, hạ cửa sổ xuống và cảm nhận làn gió lạnh giá thổi vào mái tóc. Rồi anh lắng nghe tiếng động cơ vang dội khắp đồi, khắp rừng cây khi anh chạy lên đỉnh Howth. Phía dưới anh là thành phố lấp lánh với hàng triệu ngọn đèn, đang quan sát anh lượn khúc quanh co trong rừng cây lên đỉnh đèo giống như con nhện trong bãi cỏ.

Cũng với cảm giác lạnh cóng như suốt ngày hôm nay phải chịu, đột nhiên, anh nghe thấy tiếng còi xe và nhìn qua kính chiếu hậu, anh thấy chiếc xe cảnh sát ngay phía sau lưng, ánh đèn lóa mắt. Anh buông nhẹ chân ga, hi vọng xe sau sẽ vượt qua, nhưng không! Tiếng còi báo động trên xe là dành cho anh. Anh dừng xe, để hai tay vô lăng và nhìn cái bóng quen quen bước ra khỏi chiếc xe cảnh sát. Người đàn ông từ từ đi đến xe Lou, nhìn quanh bóng đêm với vẻ thong thả như đang đi dạo. Nhờ thế, Lou có đủ thời gian để cố nhớ lại tên ông trung sĩ. Anh tắt nhạc, nhìn kỹ người đàn ông qua kính chiếu hậu, cố lục lọi trong bộ nhớ.

Người đàn ông dừng lại ngay cửa xe của Lou, cúi xuống nhìn vào cửa sổ đang mở.

“Anh Suffern”, ông nói không chút ác ý, khiến Lou cảm thấy dễ chịu hơn.

“Trung sĩ O’Reilly”. Anh nhớ cái tên ngay tức khắc và cười với ông trung sĩ.

“Giống nhau nhỉ”, Trung sĩ O’Reilly nhăn mặt. “Tôi cũng đang về nhà đây. Không may cho anh là bắt gặp anh chạy quá tốc độ rồi”.

“Vâng, tôi xin lỗi. Đường vắng quá nên tôi nghĩ không có ai”.

“Đấy, vô số người chủ quan nghĩ thế. Nên mới có chuyện”.

“Và tôi là một trong số đó”, Lou cười, giơ hai tay ra vẻ phòng thủ. “Đây là quãng đường sắp đến nhà tôi. Tin tôi đi. Tôi chỉ vừa mới nhấn ga trước khi ông đuổi kịp mà thôi. Chỉ vì tôi mong về nhà sớm với gia đình, chứ không có ý định gì khác”.

“Tôi có thể nghe tiếng động cơ của anh từ tít dưới đường Sutton Cross”.

“Đêm vắng lặng, yên tĩnh quá mà”.

“Và tiếng động cơ rất ồn ào. Tôi biết. Nhưng anh không bao giờ chịu biết, anh Suffern”.

“Đừng nói là ông lại tha cho tôi đi chỉ với một lời cảnh cáo nữa”, Lou cố gắng tỏ ra thân thiện và hối lỗi, nhưng môi lại mở nụ cười chiến thắng. Cả hai cùng một lúc.

“Tôi nghĩ anh biết tốc độ giới hạn?”.

“Sáu mươi kilomet”.

“Chứ không phải một trăm và…”.

Trung sĩ bất ngờ dừng nói và đứng thẳng người lên, làm Lou không còn nhìn thấy đôi mắt của ông nữa, thay vào đó bây giờ anh chỉ nhìn thấy tới cái móc khóa dây nịt. Không biết viên Trung sĩ đứng thẳng người để làm gì, anh vẫn ngồi yên trong xe, nhìn ra ngoài con đường phía trước, hi vọng anh sẽ không bị ghi thêm điểm phạt nữa trong bằng lái. Mười hai điểm là bị tước bằng lái, trong khi anh đã bị tám điểm rồi. Anh lén nhìn viên Trung sĩ và thấy ông chạm tay vào cái túi bên trái.

“Ông tìm cây viết à?” Lou hỏi, đưa tay vào trong túi của mình định lấy ra.

Viên Trung sĩ nhăn mặt, quay lưng lại với Lou.

“Ông ổn không?”. Lou hỏi với vẻ quan tâm. Anh đưa tay chạm vào nắm cửa xe hơi, định mở cửa ra.

Viên trung sĩ làu bàu điều gì đó không nghe rõ, giọng như đang cảnh cáo. Qua kính chiếu hậu, Lou thấy ông đi từ từ quay trở lại chiếc xe cảnh sát của mình. Dáng đi không bình thường. Có vẻ hơi lệch cái chân trái khi đi. Ông ấy say rượu? Anh thấy viên Trung sĩ mở cửa xe, ngồi vào trong, khởi động máy, quay đầu xe lại và chạy đi. Lou cau mày, nhăn mặt, ngày của anh – ngay cả vào lúc đã tối mịt thế này, cũng xuất hiện thêm những việc kỳ lạ.

Lou lái xe vào nhà với một cảm giác như thường lệ. Tự hào và thỏa mãn. Đối với đa số những người bình thường , kích thước không là vấn đề gì, nhưng Lou xem mọi vật mà anh sở hữu như là thước đo chính con người anh. Anh muốn thứ nào cũng tốt nhất và đối với anh, kích thước cộng với số lượng là những điều quyết định. . Mặc dù trên đỉnh Howth chỉ có vài căn nhà và khá an toàn, nhưng anh vẫn cho xây bức tường rào cao hơn bình thường, với cái cổng điện tử đồ sộ có máy quay an ninh ở cổng ra vào.

Có ánh sáng trong phòng ngủ dành cho trẻ con trong nhà. Tự nhiên Lou thấy lòng mình xuất hiện một cảm giác nhẹ nhàng không giải thích được.

“Anh đã về”, anh nói với ngôi nhà yên tĩnh.

Có tiếng thở hổn hển của người phụ nữ vọng ra từ phòng tivi. Lại là đĩa DVD những bài tập thể dục của Ruth.

Anh nới lỏng cà vạt, mở nút cổ áo, cởi giầy, cảm nhận sự ấm áp tỏa ra từ sàn đá hoa cương xoa dịu bàn chân. Anh bắt đầu phân loại các bức thư để trên bàn ở đại sảnh.

Tâm trí anh từ từ thư giãn. Các câu đối đáp trong vô số cuộc họp và điện thoại trong ngày từ từ nhạt dần. Mặt dù nó vẫn còn ở đó, trong đầu anh, nhưng những giọng nói đã nhẹ nhàng hơn. Mỗi lần cởi một lớp áo – áo khoác máng trên ghế, áo veston để trên bàn, đôi giày vứt dưới sàn, cà vạt trên bàn nhưng tuột một đầu xuống dưới sàn, hộp namecard ở đây, ít tiền lẻ và chìa khóa ở đó – anh cảm thấy tất cả mọi việc trong ngày dần dần biến đi mất.

“Em ơi…”, anh gọi một lần nữa, lớn hơn, nhận ra không có ai – chẳng hạn như vợ - chào đón anh. Có thể cô ấy đang bận hít thở tập thể dục với người phụ nữ trong ti vi.

Anh nghe tiếng “suỵt” từ tầng hai của tòa nhà, tiếp theo là tiếng rọt rẹt của sàn nhà khi vợ anh đi xuống.

Điều đó khiến anh bực mình. Không phải anh bực mình vì tiếng rọt rẹt. Anh biết căn nhà cũ rồi và chẳng làm sao được, nếu nó im lặng mới là có vấn đề. Anh bực mình vì tiếng “suỵt” của vợ mình. Sau một ngày không ngừng nói chuyện, anh đã phải nghe đủ các loại tiếng lóng, tiếng thuyết phục và dò xét, nhưng không có ai gặp anh mà lại nói “suỵt” với anh. Đây là ngôn ngữ của thầy giáo và của người quản lý thư viện nhắc nhở học sinh. Không phải là tiếng những người trưởng thành nói trong nhà họ. Anh có cảm giác bực bội – cảm giác đó xuất hiện trong thời gian gần đây.

“Em mới chỉ đặt Pud nằm xuống giường. Nó khó ngủ hay sao đó, cứ trằn trọc miết”, Ruth lào xào giải thích trên đầu cầu thang. Cái giọng nói nhỏ xíu thì thào đó, mặc dù Lou có thể hiểu được nhưng anh không thích chút nào. Giống như từ “suỵt”, giọng lào xào trong cổ họng chỉ dành cho đám học sinh đang quay cóp nói với nhau trong trường học, hay dành cho đám choai choai lén trốn khỏi nhà. Nó cũng làm anh bực mình.

“Pud” mà cô vừa nói chính là tên ở nhà của Ross, con trai của vợ chồng anh. Thằng bé được một tuổi hơn, mũm mĩm giống như cái bánh sừng bò chưa nướng. Vì thế nên anh đặt cho nó cái tên ở nhà là Pud- giống giống như bánh Pudding, mặc dù tên thánh của thằng bé là Ross.

“Có chuyện gì với thằng bé vậy?”, anh lầm bầm hỏi lý do sao Pud không muốn ngủ, trong khi lục tìm cái gì đó trong mớ thư. Anh mở một số thư, xé bỏ phong bì vứt trên bàn. Một số mẩu giấy anh xé rơi từ bàn xuống sàn nhà.

Ruth đi xuống nhà, trong bộ đồ tập thể dục. Anh không thể phân biệt được những bộ quần áo cô ấy mặc trong những ngày gần đây. Mái tóc dài màu nâu chocolate được cột gọn gàng phía sau như đuôi gà. Cô lê chân hướng về phía anh, đôi dép lê tạo ra tiếng động rin rít chói tai anh, còn tệ hơn máy hút bụi mà trước đây anh ghét nhất.

“Chào anh”, cô cười, gương mặt mệt mỏi biến mất, thoáng một ánh nhìn long lanh đáng yêu đúng như hình ảnh cô ngày mới cưới trước đây. Và cũng nhanh như vậy, ánh nhìn long lanh đáng yêu ấy biến mất, khiến anh tự hỏi không biết có phải chính anh đã tưởng tượng ra nó không, hay đó quả thực là một ánh nhìn mới vừa rồi của cô. Gương mặt của người phụ nữ mà anh phải thấy mỗi ngày lại bước đến hôn lên môi anh.

“Một ngày tốt đẹp chứ?”, cô hỏi.

“Bận tối mày tối mặt”.

“Nhưng tốt chứ?”.

Nội dung của lá thư cuốn hút anh. Sau một hồi chăm chú đọc, anh cảm nhận được ánh nhìn dữ dội đang đăm đắm hướng vào mình.

“Hả?”, anh ngước lên.

“Em mới hỏi ngày hôm nay tốt hả?”.

“Vâng, anh nghe rồi, và anh đã trả lời là bận tối mày tối mặt”.

“Vâng, nhưng sau đó em lại hỏi, ‘ nhưng tốt hả?’. Ngày nào anh cũng bận rộn, nhưng cũng không phải ngày nào cũng tốt. Em hi vọng ngày hôm nay tốt!”, cô nói với giọng căng thẳng như sắp cãi cọ đến nơi.

“Nghe giọng em không giống như em muốn ngày hôm nay tốt”, anh đáp lại, mắt nhìn xuống, đọc phần còn lại của lá thư.

“Giọng em cũng giống như câu hỏi đầu tiên thôi”, cô nói.

“Ruth, anh đang đọc thư!”.

“Em thấy rồi”, cô lầm bầm, chồm người nhặt mấy cái bì thư đã xé rỗng ruột đang rơi vương vãi trên sàn và trên bàn.

“Hôm nay ở nhà có chuyện gì không?”, anh hỏi, tiếp tục mở một phong bì khác. Tờ giấy bay nhẹ xuống đất.

“Thằng bé vẫn quậy tưng bừng. Em mới vừa dọn dẹp nhà cửa trước khi anh về, dọn hoài…”, cô vừa nói vừa cúi xuống nhặt một cục giấy vo tròn. “Hôm nay chị Marcia có gọi tìm anh mấy lần. Nhưng khi em tìm được cái điện thoại thì Pud lại vứt ống nghe đi đâu mất tiêu, tìm hồi lâu mới được. Chị ấy muốn anh quyết định chọn địa điểm nào để tổ chức tiệc cho bố. Chị ấy thích ý tưởng dựng bạt ngoài trời ở đây, nhưng anh Quentin dĩ nhiên là không thích. Anh ấy muốn làm ở câu lạc bộ du thuyền. Em nghĩ bố anh chẳng thích chỗ nào trong hai địa điểm đó cả. Chỉ vì mọi người làm ào ào, mọi việc tiến triển nhanh quá, ông không kịp có ý kiến gì, nên đành tỏ ra vẻ như thích một trong hai nơi đó. Mẹ thì không tham gia vụ này. Vậy anh định nói với chị ấy ra sao đây?”.

Im lặng.

Cô kiên nhẫn nhìn anh đọc trang cuối lá thư và chờ câu trả lời. Khi anh vừa xếp nó lại để trên bàn thì đồng thời anh cũng chụp lấy một phong thư khác.

“Anh yêu?”.

“Hả…?”

“Em hỏi anh vụ chị Marcia”, cô nói qua hai hàm răng nghiến chặt và tiếp tục nhặt những mảnh giấy mới rơi xuống sàn.

“À, đúng rồi!”, anh mở một phong bì thư mới. “Chị ấy vừa…”, anh ngưng nửa chừng câu nói, lại chìm trong nội dung của lá thư.

“Sao cơ?”, cô hỏi lớn.

Anh ngước lên và nhìn chằm chằm vào cô, ngơ ngác như thể phát hiện ra cô đang có mặt ở đây.

“Chị ấy có gọi về vụ bữa tiệc”. Anh tạo cho mình một khuôn mặt mới thay thế vẻ ngơ ngác vừa rồi.

“Em biết”.

“Làm sao em biết?”, anh lại đọc tiếp.

“Bởi vì chị ấy… Thôi, chẳng có gì”. Cô tiếp tục “Chị ấy rất quan tâm đến bữa tiệc, phải không? Thật là thú vị khi nhìn chị ấy bắt tay vào việc sau một năm dài chuẩn bị. Chị ấy nói rất nhiều về thức ăn và âm nhạc…”, giọng cô nhạt dần.

Im lặng.

“Sao cơ?”.

“Chị Marcia”, cô nói, chớp chớp đôi mắt mệt mỏi. “Chúng ta đang nói về chị Marcia, nhưng anh bận nên…”, cô bắt đầu đi xuống nhà bếp.

“Ồ, vậy à! Anh đã giành lấy việc tổ chức bữa tiệc khỏi tay chị ấy. Alison sẽ tổ chức bữa tiệc”.

Ruth hỏi vặn. “Alison?”.

“Vâng, thư ký mới của anh. Em gặp cô ấy chưa nhỉ?”.

“Chưa”. Cô bước gần tới anh. “Anh yêu, chị Marcia thật sự rất thích được tự tay tổ chức bữa tiệc”.

“Và bây giờ là Alison”, anh cười. “Không còn là chị Marcia đâu!”, anh cười lớn.

Ruth cũng cười, nụ cười ra vẻ như đang cố chịu đựng câu nói đùa, như muốn bóp cổ ngay tức khắc cái người đàn ông trước mặt cô, người đàn ông đã cướp lấy việc tổ chức buổi tiệc ra khỏi tay của chị Marcia và giao nó cho một người phụ nữ khác – trong khi người phụ nữ này chẳng biết tí gì về ông cụ sắp mừng thọ bảy mươi cũng như những người ông yêu và những người yêu ông.

Cô hít vào một hơi dài, buông lỏng hai vai khi thở ra. Bắt đầu nỗ lực lại. “Bữa tối của anh đã sẵn sàng”. Cô bắt đầu đi xuống bếp. “Chỉ mất một phút để hâm nóng lại. Em có mua bánh táo mà anh thích”.

“Anh ăn rồi”, anh nói, xếp lá thư lại và xé nó ra thành từng mảnh nhỏ. Một vài miếng giấy vụn rơi xuống dưới sàn. Không hiểu tiếng của miếng giấy rơi xuống sàn đá cẩm thạch hay câu trả lời của chồng làm cô đứng sững như trời trồng.

‘Anh sẽ nhặt mấy cái này”, anh nói với vẻ bực tức.

Cô từ từ quay lại, hỏi với giọng mềm mỏng: “Anh ăn ở đâu?”.

“Shanahans. Thịt bò nướng. Anh no quá!”, anh xoa xoa bụng.

“Với ai?”.

“Mấy người làm chung”.

“Ai?”.

“Chuyện gì, em đang điều tra hả?”.

“Không, chỉ là vợ hỏi chồng ăn tối với ai thôi?”.

“Một vài đồng nghiệp trong văn phòng. Em không biết họ đâu”.

“Em ước phải chi anh nói cho em biết trước về buổi ăn tối đó!”.

“Đó đâu phải bữa tiệc mang tính cộng đồng. Đâu có ai có vợ đi cùng đâu!”.

“Em không có ý đó. Em chỉ muốn anh nói cho em biết trước, để em khỏi phải nấu bữa tối cho anh”.

“Ruth, anh xin lỗi vì em đã mất công nấu và mua cái bánh táo chết tiệt đó”, anh cáu tiết.

“Suỵt”, cô nhắm mắt lại, hy vọng giọng lớn tiếng của anh không đánh thức đứa bé.

“”Không! Anh không im!”, anh nói oang oang. “Được chưa?”, anh đi vào phòng khách, để lại đôi giày giữa hành lang và những mảnh bao thư đã xé rơi vương vãi khắp chiếc bàn nơi đại sảnh.

Ruth lại hít một hơi dài, quay đi khỏi đống lộn xộn ấy và đi về hướng ngược lại với anh.

Lát sau, Lou vào và thấy vợ đang ngồi bên chiếc bàn trong bếp, thưởng thức món salad. Cái bánh để bên cạnh chuẩn bị ăn. Cô vừa nhai, vừa xem một điệu múa trên màn hình plasma lớn treo trên tường.

“Anh tưởng em ăn với con rồi”, anh nói sau một hồi nhìn sững cô.

“Em đã ăn với con rồi”, cô ngồm ngoàm nhai những thứ đầy trong miệng, trả lời.

“Vậy sao em ăn nữa?”, anh nhìn đồng hồ đeo tay của mình. “Bây giờ là mười một giờ rồi, ăn trễ thế không tốt đâu”.

“Anh cũng ăn giờ này mà”, cô cau mày.

“Nhưng anh không phải là người phàn nàn mình lên cân, mập quá rồi sau đó lại ăn đến hai bữa tối với một cái bánh táo”, anh cười.

Cô nuốt thức ăn vào, vẻ mặt như nuốt một cục đá xuống cổ họng. Thật ra, anh không để ý lời nói của mình, cũng không chủ ý làm tổn thương cô. Anh không bao giờ cố ý làm tổn thương cô; nhưng rồi anh lại làm tổn thương cô vì những câu nói vô tình đó. Sự im lặng hồi lâu đủ sức làm cho Ruth nguôi ngoai cơn giận, để rồi ăn tiếp.

Lou ngồi xuống với cô. Bên ngoài cửa sổ là một màu đen kịt phủ kín tấm kính cửa sổ, như đang khao khát được vào bên trong. Xa xa bên kia vịnh là hàng triệu ánh đèn lung linh của thành phố, những ngọn đèn Giáng sinh đu đưa giữa bầu trời tối đen.

“Hôm nay là một ngày rất lạ lùng”, cuối cùng Lou cũng mở lời.

“Là sao?”.

“Anh không biết”, anh thở dài. “Thấy ngồ ngộ. Anh cảm thấy buồn cười lắm!”.

“Em thì ngày nào cũng giống như ngày nào”, Ruth nhếch môi.

“Hẳn anh đã vướng vào một thứ gì đó. Anh cảm thấy… Một thứ gì đó không diễn tả được”.

Cô nhìn lên trán anh. “Anh đâu có sốt!”.

“Không à?”, anh nhìn cô ngạc nhiên. “Vậy mà anh cảm thấy rất nóng”. Anh lắc đầu: “Kỳ lạ thế nhỉ!”.

Ruth cau mày nhìn anh dò xét. Cô không quen với chuyện một người như anh mà lại nói gì đó không rõ ràng.

“Bắt đầu một ngày tốt đẹp”. Anh lắc tròn rượu trong ly. Rồi anh gặp một người tên là Gabe bên ngoài văn phòng. Một người vô gia cư tên là Gabe bên ngoài văn phòng. Một người vô gia cư – mà anh không biết có phải vô gia cư không nữa – anh ta nói có chỗ ở, nhưng anh ta lại ngồi xin ăn trên đường”.

Ngay lúc đó, chiếc máy báo hiệu tiếng khóc của em bé bắt đầu phát ra tiếng khóc nhè nhẹ của Pud. Chỉ là tiếng khóc nhè nhẹ của trẻ con trong lúc ngủ. Nhưng Ruth lập tức bỏ dao nĩa xuống, đẩy thức ăn qua một bên, chăm chú nghe và lẩm nhẩm cầu nguyện cho bé đừng khóc nữa.

Lou tiếp tục nói, chẳng chú ý gì. “Anh mua cho anh ta một tách cà phê và nói vài chuyện…”.

“Anh tử tế thế!”, Ruth nói. Bản năng người mẹ trong cô đã trỗi dậy và âm thanh duy nhất cô có thể nghe thấy bây giờ là con. Tiếng khóc nhè nhẹ buồn ngủ của bé giờ đã trở nên dữ dội.

“Anh ta khiến anh nghĩ đến…”, Lou nói giọng bối rối. “… Anh ta giống hệt anh và bọn anh có cuộc nói chuyện rất thú vị về những đôi giày”. Anh cười, nhớ lại. “Anh ta có thể nhớ chính xác từng đôi giày bước vào tòa nhà, vì thế anh nhận anh ta vào làm việc với mình. À, không phải với anh, anh kêu Harry___”.

“Anh yêu”, cô cắt ngang, “Anh có nghe tiếng gì không?”.

Anh nhìn cô, bực mình vì cô đã cắt ngang. Sau đó, anh ngẩng đầu lên ráng nghe, để rồi cuối cùng, tiếng khóc cũng chịu xuyên vào tâm trí anh.

“Tốt thôi, tiếp tục nghe tiếng khóc đó đi…”, anh thở dài, chà chà sống mũi. “Nhưng nhớ là rõ ràng anh đã kể cho em nghe về ngày hôm nay đấy nhé, bởi vì lúc nào em cũng nói anh không nói gì”, anh lẩm bẩm.

“Anh nói vậy là sao?”, cô lên giọng. “Con trai anh đang khóc kìa. Em phải ngồi đây suốt đêm, trong khi con khóc thét lên, để nghe anh kể chuyện về một người vô gia cư thích quan sát mấy đôi giày à? Có khi nào anh tự đi xem coi con muốn gì, cần gì không? Anh nghĩ sao?”.

“Được rồi, anh sẽ làm”, anh nói với vẻ giận dữ, mặc dù không rời khỏi ghế.

“Không, để đấy em làm”. Cô đứng dậy. “Em muốn anh làm một cách tự giác kìa! Anh không cần làm chỉ vì em nhắc, Lou. Anh phải thật tâm muốn làm mới được!”.

“Hình như bây giờ em không muốn làm một mình”, anh cằn nhằn.

Đi nửa đường từ bàn ăn ra đến cửa bếp, cô dừng lại. “Anh có biết là anh chưa bao giờ tự tay chăm sóc Ross một ngày nào không?”.

“Em làm gì mà nghiêm trọng đến vậy, lôi cả tên thật của con ra gọi. Có đến nỗi thế không?”.

Câu nói ấy như giọt nước cuối cùng làm tràn ly, khiến tất cả tuôn tràn ra không ngăn lại được.

“Anh chưa bao giờ thay tã cho con! Anh chưa bao giờ cho con ăn!”.

“Chứ ai kiếm tiền nuôi con?”, anh phản đối.

Tiếng khóc của thằng bé vọng qua máy báo hiệu mỗi lúc một lớn hơn.

“Anh chưa bao giờ pha một bình sữa, cho con ăn một bữa, thay cái áo cho con hay chơi với con. Anh cũng chưa bao giờ ở một mình với con. Cứ mỗi năm phút là em phải chạy vào trông con cho anh gửi email hay trả lời điện thoại. Con có mặt ở trên đời này hơn một năm rồi Lou. Hơn một năm rồi:.

“Thôi nào”. Anh đưa tay vuốt ngược mái tóc và giữ tay mình trên đầu với bàn tay siết chặt lại, dấu hiệu của sự giận dữ. “Anh đang kể cho em nghe về ngày hôm nay của anh, thứ mà lúc nào em cũng đòi nghe, muốn nghe. Vậy mà bây giờ em lại quay sang công kích anh?”.

“Phải rồi. Anh lúc nào cũng bận rộn nói về mình đến nỗi không nghe con khóc…”, cô nói với giọng mệt mỏi, biết rằng mọi chuyện rồi cũng sẽ lại đâu vào đó như những lần tranh cãi trước đây. Chẳng giải quyết được gì cả.

Lou nhìn xung quanh phòng, đưa tay chỉ ngôi nhà. “Em nghĩ là anh ngồi ở văn phòng chỉ tay năm ngón à? Không, anh làm việc cật lực, cố gắng chiến đấu để em và con có mọi thứ như vầy, để anh có thể kiếm đủ tiền lo cho Ross. Vì thế anh xin lỗi nếu anh không thể đút cho con ăn mỗi sáng như em muốn!”.

“Anh chả chiến đấu gì cả, Lou. Tự anh thích làm hai thứ cùng một lúc, việc này cứ chồng lên việc khác. Đó là sự khác biệt của anh. Anh tự chọn thế mà!”.

“Anh không thể ở hai nơi cùng một lúc, Ruth! Nếu em cần người phụ chăm sóc thằng bé, anh đã bảo với em rồi, em cứ nói. Sẽ có ngay một bảo mẫu bất cứ lúc nào em muốn!”.

Anh biết anh đang làm mình lún sâu vào một cuộc tranh cãi lớn. Khi thấy Pud khóc mỗi lúc một lớn hơn trên màn hình máy giám sát, anh đã chuẩn bị sẵn cho sự công kích không thể tránh được từ vợ mình. Để tránh cuộc tranh cãi nảy lửa, anh nói thêm vào, “Và cô ta sẽ chăm sóc chu đáo cho thằng bé để chúng ta không phải ngủ với tiếng khóc của thằng bé như thế này nữa”.

Nhưng không có cuộc tranh cãi nào xảy ra. Ruth nhún vai, thay đổi hoàn toàn thái độ, từ bỏ cuộc chiến và bỏ đi chăm sóc con.

Lou lấy cái remote, hướng nó về phía tivi như cây súng chĩa vào mục tiêu. Anh bấm nút tắt tivi một cách giận dữ. Người phụ nữ đang nhảy nhót trên màn hình bị thu lại thành vòng tròn nhỏ trước khi biết mất hoàn toàn.

Anh với lấy đĩa bánh táo trên bàn, bốc một miếng cho vào miệng, tự hỏi sao cứ về nhà là có chuyện. Rồi nó sẽ kết thúc như nhiều đêm khác: Anh đi ngủ phần anh, Ruth đi ngủ phần cô ấy, hay giả vờ như thế. Vài giờ sau, anh sẽ tỉnh dậy, đi tắm và đi làm.

Anh thở dài. Trong tiếng thở hắt ra, anh nhận thấy qua máy báo tiếng khóc, thằng bé đã nín, chỉ còn một tiếng gì đó rung rung khe khẽ. Khi bước tới để tắt màn hinh, anh chợt nghe tiếng động gì đó khác khác, khiến anh tò mò đưa tay nắm lấy volume. Vừa vặn lớn lên, trái tim anh bỗng quặn thắt lại khi nhận ra chính là tiếng khóc nức nở nghèn nghẹn, cố nén lại trong cổ họng của Ruth, giờ đây đang tràn ngập khắp phòng ăn.