Một Giọt Từ Sự Đọa Đầy

Một Giọt Từ Sự Đọa Đày

(Trích tác phẩm: SILENTIUM)

1.

Trên núi, trong ngôi nhà trong rừng, tôi chuẩn bị để nhịn ăn và giữ im lặng. Buổi tối tám giờ tôi ăn một bữa tối nhẹ. Sự tiêu hóa kết thúc vào mười hai giờ đêm. Và bắt đầu thời gian nhịn ăn. Sẽ cả ngày hôm sau, đến bốn giờ chiều ngày thứ ba. Tổng cộng bốn mươi giờ đồng hồ.

Bohme nói: Adam sống trên thiên đường bốn mươi ngày. Izrael vất vưởng bốn mươi năm. Giêsu ở sa mạc bốn mươi ngày, đức Kitô nằm trong mộ bốn mươi giờ. Bởi vậy tôi chọn bốn mươi tiếng đồng hồ. Tôi không phải người theo đạo. Tôi cần cái toàn bộ. Nhưng tôi biết, con người làm đúng nếu nhìn nhận bằng tôn giáo, bởi giữa tất cả các tri thức của con người, phần lớn sự thông thái chân thực nằm trong tôn giáo.

Trong bốn mươi giờ, tôi sẽ không thốt lên đến nửa lời. Tôi dạo chơi thầm lặng, không làm công việc chân tay, đúng hơn tôi ngồi trong bóng râm và đọc, thiền, và nếu cảm thấy cần, tôi cầu nguyện. Chốc chốc cần làm dịu cơn cồn cào của dạ dày bằng nước pha lẫn một chút chanh. Buổi sáng và buổi tối cần phải rửa ráy từ đầu tới chân. Cần tẩy rửa sạch toàn bộ ruột trong một ngày của nó. Tất cả chỉ có vậy.

Tôi không có ý định chuộc lỗi. Tôi không muốn trừng phạt mình vì một cái gì. Không có bất cứ sự sỉ nhục nào. Không có chút chủ nghĩa tình cảm nào. Một cái nhìn vào trong sâu sắc hơn tôi cũng không khao khát. Đánh thức địa ngục, người ta gọi là sự vô thức mới, Thầy của tôi đã nói. Cái có trong bóng tối, hãy cứ ở lại trong bóng tối. Một bàn tay quyền lực đã phủ lên nó, không ai chạm tới mà không bị trừng phạt. Thầy của tôi kể, ngài từng muốn thanh toán địa ngục của mình. Nhưng mới chỉ có ý định thôi, ngài đã rơi vào sự khủng hoảng đến mức suýt nữa không cứu vãn nổi trí óc của mình.

Tôi quyết định giữ im lặng và nhịn ăn, vì thật ra tôi đã tìm thấy ý nghĩa của một năm khó khăn nhất trong đời, và giờ đây tôi muốn đối diện với nhận thức đó. Làm điều này cần im lặng, cô độc, nhịn ăn, thanh tẩy, đây là sự kiểm tra tự thân, làm chậm lại nhịp độ sống, nếu có thể, bắt nó dừng lại, và như vậy mới có thể tạo ra khả năng để nhận thức một cách hoàn toàn.

Đơn độc và nhịn ăn là một trạng thái phép thuật. Nói chung người ta thường không biết điều này, Những kẻ rụt rè và tâm hồn nhỏ nhoi lảo đảo chịu đựng một ngày duy nhất nhịn ăn (theo nghĩa) tôn giáo, như chịu đựng một hình phạt, và đầu óc không ngừng nghĩ đến ăn. Trong tù, tuyệt thực hoàn toàn hoặc chỉ có nước và bánh mì là một sự hành hạ. Cho dù gốc của luật là đưa ra một cơ hội để các tù nhân khi nhịn ăn biết nhận thức một cách rõ ràng hơn.

Và hai mươi tư tiếng đồng hồ không đủ cho trạng thái của tuyệt thực phát triển. Không đủ, để các bộ phận cơ thể luôn trong trạng thái tiêu hóa trở nên tỉnh táo và nhạy cảm hơn. Tôi nói rồi, tôi tuyệt đối không mê tín và cũng không theo đạo. Tôi chỉ chấp nhận cái mà trí óc có thể nhìn thấy trong thanh thiên bạch nhật. Tôi lựa chọn sự giam cầm, vì tôi biết, cái mà tôi muốn hiểu, tôi chỉ có thể tiếp cận trong một trạng thái phép thuật. Trong sự nhạy cảm thanh tẩy tăng dần bởi cô độc và nhịn ăn.

Xưa kia tôi nhiều lần nhịn ăn, đôi khi không vì bắt buộc, và tôi vẫn nhớ rất rõ những khoảnh khắc đột nhiên sáng lóe như chớp từ sự bình thản. Giờ đây tôi cần đến những khoảnh khắc đó. Trạng thái hoàn toàn tỉnh táo không bao giờ đủ. Dinh dưỡng chỉ thỏa mãn được một nửa, còn nửa kia đánh thức cảm giác thiếu. Sự khao khát những hồi hộp mới hơn, là mặt bên kia của sự no đủ. Từ thức ăn, từ tri thức, con người nếu thiếu đoạn cuối và sự dừng lại, càng ăn nhiều càng ham muốn nữa, nữa, nhiều nữa.

Ngoài ra tôi từng ở trọng một giai đoạn đổi lốt. Con người rữa oải, chán chường và ngu muội, nhưng từ bên trong một lớp da cứng cáp đã tự trồi lên từ lớp da cứng bọc ngoài. Con người tưởng đấy là Ta. Hóa ra, chỉ là mặt nạ, như tất cả những mặt nạ trước. Lớp da mới giờ đây lại trở nên nhạy cảm. Dấu hiệu để nhận ra là sự ngây ngất trở thành trạng thái thường nhật. Không phải thấy mà như thể thấy. Không phải hiện thực mà là phép lạ. Không phải common sense (thông thường) mà là chủ nghĩa nồng nhiệt (enthuziazmus). Sự héo hắt trôi đi. Tươi tỉnh. Chắc chắn có phép thuật. Ở những tầng thấp hơn sự nhẹ nhàng, tự do và không điều kiện ngự trị.

Püripaisz müriodermatikosz - Linh hồn là Đứa Trẻ có một Vạn lớp da. Cần lột một vạn lớp da, để đạt tới bản thân. Mọi sự lột xác sẽ bé nhỏ hơn, lửa sẽ lớn hơn. Vật lí, hóa học, sinh học, tâm lí học, triết học và tôn giáo, đều là vỏ. Áo giáp, mai, vỏ, mặt nạ, kho, trại giam, lí thuyết, học thuyết, thế giới quan. Tất cả đều là sự giam cầm ngắn. Sự què quặt. Làm tắt đi hoạt động trí óc. Mọi hoàn cảnh được cho là đã kết thúc là một tình huống mê tín dị đoan. Hậu quả của nó là sự cứng nhắc, mê tín, mù lòa, run sợ, các giới hạn, các điều kiện, sự tăm tối.

Phá vỡ. Vứt đi. Nhưng, nếu mi không cầu sự giúp đỡ của các Quyền Lực, mi sẽ không chịu nổi. Nguy hiểm, không nên, gần như bị cấm. Tôi ghét, cứ liên tục đổi lốt nghiệp của mình. Chuyển hóa. Nhưng điều này chỉ có thể theo hướng đi lên. Không có con đường khác. Đờisống là để người ta hiến dâng nó vào những việc lớn. Ngoài ra, đời sống không có chút ý nghĩa nào khác.

Đã một năm, từ lúc tôi tìm thấy ý nghĩa của sự khủng hoảng không thể tưởng tượng nổi của tôi. Cách đây năm năm, nó bắt đầu đúng vào mùa xuân. Đấy là toàn bộ nỗi tức giận hiện tại. Sợ chết là trạng thái thường xuyên, như một kiểu rối loạn tâm trạng, dai dẳng, bám riết, một sự điên rồ săn đuổi, tôi vô ích tự nhủ rằng tôi không sợ, tôi biết, nên quyết định, tôi sợ, một cách trẻ con và mất trí, một cách hờn dỗi và ấu trí, hèn nhát và co rúm, răng đánh lập cập vào nhau và run rẩy, vỡ mộng và ngộ nhận, ngu xuẩn, bất lịch sự, vô học, và nói thẳng ra là tôi sợ.

Kỉ luật tự thân lập tức biến mất. Điều đáng sợ nhất là tôi nhìn thấy tất cả mọi khoảnh khắc và tôi hiểu. Tôi sợ, tôi bảo rồi. Tôi sợ một cách bất lực. Tôi bị điên rồi? Bị xé xác, bị cào cấu, bị bóp chết, bị ngạt. Tôi đã nhìn thấy, và cái tôi nhìn thấy càng làm tôi giật mình hơn. Trốn. Trốn đi nơi nào mà tôi không sợ.

Con đường ngầm trong mỏ sắt ban đầu thật tốt, nhưng rồi ở đấy tôi cũng sợ. Trong hầm đá tôi cũng sợ. Tôi khóc to vì nỗi sợhãi. Tôi biết, mình thật thảm hại, thật nực cười, ngu xuẩn và bệnh tật, nhưng tri thức này còn kinh khủng hơn, khiến tôi khóc nhiều hơn và vì thế tôi càng sợhơn. Tôi không dám cởi quần áo ra và nằm vào giường. Tôi không dám ra khỏi nhà, nhưng nếu đã đi, tôi không dám quay trở lại. Tôi không dám ăn, nhưng tôi cũng không dám không ăn, Tôi đi ngủ sớm, bởi tôi sợ, ngủ ngồi, thức tỉnh nhiều lần, bởi tôi sợ, và trời còn tối khi tôi thức dậy, vì tôi sợ.

Nguyên nhân của nỗi sợ hãi của tôi không nhiều hơn bất cứ ai khác, ở đó và lúc đó, như cả chục triệu người khác. Nhưng lập luận như thế là sự vụng về. Lúc đó đang chiến tranh, nguy hiểm cho đời sống là thường xuyên. Sự đe dọa từ bên ngoài. Sự đánh mất cảm giác an toàn. Ở tôi cũng đúng như ở người khác. Và cũng thật ngu xuẩn đặt giả thiết, sự đe dọa bên ngoài đã tạo ra nỗi sợ hãi. Hoàn cảnh sống nguy hiểm chỉ để che giấu ý nghĩa thực của hoàn cảnh.

Cảm giác an toàn mất. Đúng. Bị bỏ rơi. Sau đó một năm, đầu thời kì tỉnh ngộ, tôi cũng đọc Sách của Job, như nhiều người lúc ấy, những kẻ sống sót và thử đi tìm chìa khóa của sự thử thách. Năm của Job.

Hoàn cảnh của tất cả chúng tôi như nhau. Cái xảy ra với tôi cúng không khác. Không. Chỉ là. Tôi cho rằng đấy là những gì đã thật sự xảy ra. Tôi chắc chắn điều này. Những người khác không nhận ra. Bởi vậy họ quên, không nhanh, nhưng quên hoàn toàn, và sống tiếp, như thể chưa từng có gì xảy ra. Tôi nói ra điều này không phải vì coi thường họ, dù họ đáng để coi thường, chỉ không phải từ tôi. Đời sống của chúng ta khó khăn đến nỗi - Bazsilius tuyên bố - chúng ta lao xuống bụi, nhưng không thể thành nạn nhân vì những kẻ săn đuổi chúng ta cũng mang cùng một tên gọi, như chúng ta.

Tôi nhớ đến khuôn mặt trên tàu điện, lúc tôi gần nghẹt thở vì sợ, những xác chết phủ bằng giấy báo nằm trên vỉa hè, một giọng nói ngu xuẩn và trừu tượng, hơi kiêu căng bảo: như thế này là tốt. Tôi sợ hãi nhìn hắn. Hắn gật đầu. Như thế này là tốt. Tôi càng sợ hơn nữa. Tôi ghen tị, chẳng lẽ hắn không sợ? Không. Bởi vì hắn không biết cái gì đã xảy ra. Tôi biết và run rẩy. Người ta không dám kéo lại gần họ sự khủng khiếp đã xảy ra. Bởi vậy họ không sợ. Họ quên hết: đã không xảy ra cái gì. Giờ đây tôi mới hiểu tại sao tôi cần phải sợ. Đúng là tôi đã bị bỏ rơi. Đã bị cho đi. Đúng, bị cho đi. Một cách công khai và vĩnh viễn. Đây là nỗi đọa đày. Tôi đã bị đánh mất.

2.

Văn bản chính xác của cái năm đen tối ấy, năm năm sau tôi tìm thấy từ các nhà thần học. Tôi cần thừa nhận điều này và vài từ ngữ như vậy nếu muốn chính xác, và chẳng có lí do gì để tôi không như thế. Từ các nhà thần học, và, không phải vì biết đâu có thể tìm thấy ở chỗ khác nhưng tôi đã không tìm, mà duy nhất vì, chỉ có thể tìm thấy ở đấy.

Ở Keresztes Szent János (San ]uan de la Cruz), Ở Böhme, phần lớn và trước tiên, chứ không phải ở ngành tâm lí học. Tôi không phải là người theo đạo. Nhưng một cách đặc biệt, tất cả các kinh nghiệm lớn có tính chất quyết định trong đời tôi đều mang tính tôn giáo. Điều này cũng thế. Tôi đã tìm ra tên của trạng thái ấy, nhận ra văn bản chính xác của nó và gìn giữ, đúng, đây là nơi cách đây năm năm tôi đã từng qua, là điều này, ở miền ấy, nơi ấy.

Tất nhiên câu hỏi cũng do tôi tự đặt, và người khác cũng có quyền đặt câu hỏi là tại sao tôi không đi tìm ngành tâm lí học, hay đến với khoa học, và tại sao tên gọi, văn bản, sự giải thích và ý nghĩa của trạng thái ấy tôi không tìm ở một nơi đáng tin cậy. Nguyên nhân chủ yếu như sau, tâm lí học nói chung không biết gì về địa lí và nếu có biết về những trạng thái tương tự đều cho rằng chúng không bình thường. Chứng loạn thần kinh, tâm lí học nói. Tôi biết, không liên quan gì đến chứng loạn thần kinh, nhưng tôi hỏi lại: Được, vậy không bình thường với cái gì, và cái gì là cái bình thường, khỏe mạnh? Vềđiều này tâm lí học im như thóc.

Tên, ý nghĩa, và địa lí của khung cảnh (trạng thái) ấy tôi tìm thấy từ các nhà thần học. Keresztes Szent János gọi là Noche escura del alma - Đêm đen của linh hồn. Đề tài này ngài đã viết trong một quyển sách lớn. Cũng như nhiều lần, tôi bắt buộc phải cho rằng, trong nhiều trường hợp quyết định, khoa học không biết gì cả. Đơn giản là không hề biết đến. Vềnhững khung cảnh bên trong, khoa học chưa hề nghe thấy và cũng không hề biết đến. Không sẵn lòng lắm nhưng tôi cũng cần thổ lộ rằng tâm lí học cũng thế. Cứ như thể, cái tâm lí học quan tâm và cái quan trọng đối với nó không phải là hiện thực mà là các lí thuyết riêng của nó.

Giữa các nhà thần học có cả một đội quân những người không bao giờ thử xây dựng các lí thuyết, đúng hơn, cái họ đã trải qua, họ không nhìn từ bên ngoài, không giải quyết, không tẩy xóa, mà họ nếm trải những khung cảnh đã đi qua, ghi nhận, trải nghiệm và đôi khi đặt tên.

Tôi đã đến được với cái tên ấy: đêm đen của linh hồn. Tôi lập tức nhận ra ngay, chính nó. Tôi đã ở đó, đã đi qua, suốt cả một năm, không phải một thời gian dài, bởi theo San Juan và Rulman, Merswin và Seuse, có thể trải qua hết nửa đời người ở đó. Và điều này trong một phương diện nào đấy là sự vay mượn đầu tiên của nỗi đau khổ ở địa ngục. Một giọt từ sự đọa đày.

Bohme nói những điều sau đây: tất cả các linh hồn giữ trong nó hình ảnh của Thực Thể Vĩ Đại (hình ảnh cổ), hoặc cũng như vậy giữ tri thức: linh hồn là bản sao của Thực Thể Vĩ Đại. Đây là dấu ấn sự sống của mọi thực thể. Đây là chữ kí, là dấu ấn của linh hồn.

Hình ảnh này có thể trong sạch và lúc đó linh hồn tươi tình. Thực Thể Vĩ Đại trong nó trong suốt, linh hồn cũng trong suốt, như biển, như bầu trời, ánh sáng pha lê, óng ánh và rạng ngời. Những từ ngữ như vậy được sử dụng. Thiên đàng. Hình ảnh Thực Thể Vĩ Đại giống như tia nắng sưởi ấm và làm tái sinh của mặt trời. Nếu mặt trời không tỏa nắng, tối đen.

Nhưng ngay từ thời kì đầu của những bình minh, hình ảnh này đã bị nhiễu trong con người. Mờ mịt. Có thể bị mất. Lúc đó linh hồn cũng mất. Tôi nói, như Bohme đã viết. Linh hồn sống trong và sống từ phép mầu của hình ảnh Thực Thể Vĩ Đại.

Không gì - Bohme viết - trên thế gian không gì có thể tiếp xúc hoặc giết chết linh hồn, chỉ hình ảnh này, trí tưởng tượng này (imaginácio), lửa không, gươm không, chỉ phép thuật này, đây là thuốc độc chết người, bởi ngay từ những buổi ban mai ban đầu tất cả đều sinh ra từ hình ảnh Cổ này, và vị trí của nó còn lại vĩnh viễn.

Đúng vậy, hình ảnh cổ đã bị rối loạn và phai mờ. Và hậu quả của điều này không chỉ là mặt trời không chiếu sáng và sưởi ấm nữa, con người sống trong sự tăm tối. Hậu quả còn là: ý thức của con người rằng, nó là bản sao của Thực Thể Vĩ Đại, đã bị lung lay. Nó không nhìn thấy, nó được tạo dựng từ hình ảnh này. Cái trạng thái hỗn loạn và mờ mịt Bohme gọi là turba. Turba là sự rối loạn của linh hồn, khi trong trung tâm của trí tưởng tượng không còn hình ảnh của Thực Thể Vĩ Đại nữa. Khi ánh sáng bị mất và linh hồn tối đi.

Upanisad gọi trạng thái này 1à abhimana, sự rối loạn theo một kiểu điên rồ. Đây là turba. Trí tường tượng đen. Có thể đặt tên là địa ngục. Hoặc sự tăm tối bên ngoài. Kein Fremder verzehrt euch, sondern eure eigene Turba - không phải cái gì xa lạ bên ngoài tác động vào con người mà là sự rối loạn như một trạng thái điên rồ tự thân. Ein jeder hat seine eigen Holle, es ist sonst nichts, das ihn ergreift, als sein eigen Gift - Địa ngục riêng của tất cả mọi người, tồn tại và không gì có thể tiếp xúc nổi ngoài chính chất độc của riêng bản thân nó.

Turba là sự khuấy động và thức tỉnh vô đáy và xoáy cuộn của sự giận dữ, là sự tuôn trào cội nguồn của địa ngục. Là cơn giận dữ của Thượng Đế. Orge theou, như Thánh Pál nói. Turba là một từ cổ. Giống như từ phúc lạc. Chỉ không trong nghĩa mang đến phúc lạc mà mang lai sự đọa đày.

Sự đọa đày là khi linh hồn làm thức tỉnh trí tưởng tượng âm phủ và tự xé bản thân mình ra trong đó. Không, không phải kẻ khác xé nó. Không phải quỷ. Mà chính tự trí tưởng tượng (imaginacio) riêng của nó. Trên đời này không có bất kì cái gì động chạm được đến linh hồn, cho dù duy nhất chỉ một ngón tay, hay một ngọn lửa, thanh kiếm, chỉ duy nhất trí tưởng tượng chạm được đến linh hồn mà thôi.

Turba - sự rối loạn. Đêm đen của linh hồn. Sự rối loạn như bị mất trí, sự tăm tối, địa ngục, sự khuấy trộn dòng xoáy của âm phủ, linh hồn tự cào cấu mình trong nỗi đau đớn của nó, cơn giận của Thượng Đế, ngọn lửa của các vực thẳm. Sự chịu đựng cay đắng và vô vọng.

Nỗi sợ hãi, nỗi sợ hãi, nỗi sợ hãi. Trí tưởng tượng: mi không tìm thấy gì khác, ngoài chính bản thân mi, thế là mi ăn thịt chính bản thân. Sự tham lam, sự xúc phạm, sự sỉ nhục, sự ghen tị, thuốc độc, sự căm thù, sự dối trá và nỗi sợ hãi, nỗi sợ hãi, nỗi sợ hãi. Thùng chứa những nỗi khủng khiếp lật nhào và những khủng khiếp tối tăm cứ thế trút xuống, trút xuống hố sâu.

Vẫn còn tốt nhất là tôi cháy. Vì ít nhất còn hơi nóng. Vậy mà tôi vẫn luôn rét cóng. Bởi vì lửa lạnh âm hai trăm bảy mươi hai độ. Suốt trong cả một năm tối tăm đó tôi biết có bàn tay của Thượng Đế. Trong sự giận giữ của ngài, Das enveckte Grimm. Khi lửa bùng cháy trong nước.

Tôi nhận ra. Đây là nó. Trong suốt một năm trời tôi vỡ đầu nghĩ cách làm thế nào để đi trốn. Trốn được thì tốt. Trốn đi đâu đấy mà người ta tìm không ra. Ai? Tất nhiên, giá lúc đó tôi biết đặt câu hỏi như thế. Trốn đi. Đường ngầm hầm sắt, sâu tám mươi mét trong núi. Hầm đá. Không đủ an toàn. Biết đâu. Biết đâu bom rơi vào đường ngầm, hầm vỡ, chết ngạt, hay chết đói. Biết đâu. Tôi run rẩy. Không có nơi an toàn? Không thể đi trốn.

Tôi tích góp một cách mất trí, chủ yếu là thực phẩm, giấu dưới các giá, đằng sau các cuốn sách, đường, hoa quả đóng chai, đồ hộp, tôi cất giấu bột và mật ong. Tôi tích lũy xà phòng và kem cạo râu. Những miếng giẻ. Giấy báo. Bút. Mực. Tiền. Bánh mì khô. Tôi ăn ít, gần như nhịn đói. Xây một cái kho và trốn vào đó. Trốn. Đi đâu?

Tôi trầm ngâm, nếu ở Borneo bắn nhau, tôi lo cho cái đầu của mình. Rõ ràng không phải họ bắn tôi. Cũng như không phải họ rải bom lên đầu tôi. Nhưng tôi nhìn thấy toàn bộ sự tấn công được dàn dựng để chống lại mình. Nếu thấy trên phố một xác chết, tôi tin rằng kẻ nằm xuống tiếp theo sẽ là mình. Hèn nhát, tôi nói. Tôi biết mình là như thế, nhưng tôi không hề nghĩ đến sự xấu hổ.

Tôi cầu nguyện một cách quằn quại, cùng lúc tôi cũng biết ông Trời không bao giờ đến với sự quằn quại, không bao giờ mở lòng và sẽ không bao giờ. Trời không cho sự bình yên, cái Trời cho là sức mạnh để chịu đựng sự khủng hoảng. Trời không trải bàn ăn ra sẵn mà cho sức mạnh để tôi tự đi kiếm bánh mì. Tôi biết.

Nhưng turba là trạng thái mạnh hơn tri thức. Bời vì tri thức cũng phục vụ cho sự rối loạn điên rồ. Turba - sự rối loạn, khi con người sống trong sự giận giữ như ngọn lửa bùng lên của Thượng Đế. Ý thức của con người trong mọi trường hợp đều do chất lượng của trí tưởng tượng quyết định. Không có ngoại lệ.

Ai sống trong trí tưởng tượng đen, ý thức kẻ đó đen. Lửa của sự đen tối, như Bohme nói, Finsterfeuer. Địa ngục. Sự đọa đày. Không thể tiêu diệt. Không thể trốn vào cái hư vô. Cần. Cần làm đến cùng. Vô ích mi chết, đồ ngu, cái chết không phải là hầm đá cũng chẳng phải là kho sống. Mi sẽ không thể thoát khỏi trí tưởng tượng của chính mi.

Không, không phải quỷ cào cấu, không phải bom đạn và cái đói, bản thân mi là thuốc độc của dòng xoáy, vũng bùn bạc nhược, lao xuống, lao xuống, chỉ có sự sợ hãi và sự sợ hãi, chỉ có bóng tối và sự run rẩy và sự sợ hãi.

Đêm đen của linh hồn. Giờ đây tôi đã hiểu. Cơn đau thắt. Những lời cầu nguyện không thấu. Sự nhiễu loạn, sự rồ dại, sự sợ hãi, chủ yếu là nỗi sợ hãi và sợ hãi.

San Juan de la Cruz tuyên bố: linh hồn bước qua ngưỡng của đêm đen khi Thượng Đế hướng về phía nó, nâng nó lên khỏi hàng ngũ của những kẻ bắt đầu. Giờ đây tôi đã hiểu, tại sao lúc đó trong cả một năm trời tôi nói đây là bàn tay của Thượng Đế. Sự tiếp xúc không dễ chịu. Tuyệt đối không.

Cùng một lúc cả hố phân khủng khiếp và vỡ tung lao xuống vực thẳm đã mở của đời tôi, sự đê tiện, sự hèn nhát, sự bủn xỉn, sự khốn nạn, sự keo kiệt, sự ghen tị, sự bạc nhược của tôi cùng các tội lỗi, vâng, các tội lỗi của tôi, những tội lỗi kiêu căng và khoa trương, những đê tiện lớn nhỏ bị quên đi một cách xấc xược, tất cả sự rữa nát này rơi xuống. Đấy là sự đọa đày.

Giờ đây tôi đã hiểu. Bàn tay của Thượng Đế. Dòng xoáy cơn điên của Thượng Đế. Tan ra trong ý thức thảm hại của nó, San Juan viết, như thể bị thú dữ nuốt chửng. Thượng Đế chối từ, bởi vậy nó rơi xuống vực sâu. Đêm đen. Mi dẫn ta xuống vực thẳm nơi nước ngập phủ quanh ta. Jeremiás nói, con người ngập mặt xuống đất bụi. Linh hồn "Cảm thấy sự thảm hại đến mức nó hấp hối trong đó". Tôi đã biết. Tóm lại tôi biết tất cả. Nhưng tôi không hiểu.

Tôi đã biết sự tăm tối, sự hỗn loạn và điên rồ là cơn giận của Thượng Đế và là tội lỗi. Nhưng tôi đã không hiểu, rằng bàn tay, mà sự tiếp xúc với nó thật khủng khiếp, như San Juan viết, nâng tôi lên khỏi hàng ngũ những kẻ bắt đầu. Tôi đã không hiểu, như Thánh Pal nói: hou de epleonasen hé hamartia, huperisseusen hé charis - nơi tội lỗi quá nặng nề, ở đó ân sủng tràn ngập.

Tôi không là người theo đạo. Nhưng, đặc biệt, chỉ nhận thức mang tính tôn giáo của các sự vật mới đủ sức diễn tả. Thầy của tôi dạy rằng, không bao giờ được thỏa mãn với cái tiêu cực: tôi đi tìm sự thể hiện tích cực. Nếu chưa thấy, tìm tiếp. Ý nghĩa chân chính của mọi sự tối tăm là ánh sáng. Ý nghĩa chân chính của mọi đau khổ là niềm vui. Sự đọa đày có vì phúc lạc.

Từ trước tới nay tôi mới chỉ hiểu những năm tháng tăm tối một cách tiêu cực. Ý nghĩa đích thực của nó giờ đây tôi mới tìm thấy. Đấy là sự thần bí của tội lỗi và địa ngục và sự đọa đày. Cần phải bước qua nó, như đi qua cái chết. Khốn khổ cho kẻ nào chạy trốn trước bí ẩn khủng khiếp của bóng tối. Mi cần phải khoác lên người mi. Bởi sự vĩnh hằng không phải là bóng tối và sự đọa đày. Không phải là cái tiêu cực. Vĩnh hằng là phúc lạc.

Nơi tội lỗi quá nặng nề, ở đó tràn ngập ân sủng.

3.

Trong ngôi nhà trên núi tôi lựa chọn phương pháp này bởi vì trong bầu không khí đối thoại của cô đơn, tuyệt đối không có chút gì nhân tạo, trên con đường đơn giản nhất có thể, trong bốn mươi giờ tôi không nói và không ăn, và như vậy trước nhất tôi có thể khóa trái mọi tư tưởng cố ý và chuẩn bị trước, và tôi có thể trực tiếp đắm mình vào những gì nổi lên trong tôi.

Tôi nói, trong tôi, nhưng tôi không hiểu như vậy, cái nổi lên và cái tôi hiểu không phải ở trong tôi? Thế thì nó ở đâu? Ở một nơi phi xác định, nhưng trong hiện thực. The divine is only real- Coventry Patmore tuyên bố.

Thượng Đế là hiện thực duy nhất. Cái mà tôi hiểu, có Thượng Đế trong đó. Cô đơn đưa ra khả năng tôi có thể với tới Ngài. Tại sao? Bởi cô đơn mang tính đối thoại. Tôi không một mình. Ngài ở bên cạnh tôi bốn mươi tiếng đồng hồ. Đây là huyền bí của sự im lặng thần bí, là heszükhia, như các giáo phái trên núi Athosz đã nói.

Sự đày đọa? Không. Chỉ một giọt thôi. Giọt duy nhất đầu độc toàn bộ một năm, và nuốt chửng và đốt cháy và cào xé tan tành một năm khó khăn nhất của số phận vốn không nhẹ nhõm gì của tôi. Nhưng giờ đây nó đã hết nặng nề. Tôi đã không hiểu. Từ lúc hiểu ra, tôi cho rằng Thầy của tôi đã đúng. Bóng tối đã thành sự sáng sủa, đau đớn là niềm vui, sự đọa đày là phúc lạc.

Nơi tội lỗi quá nặng nề, ở đó tràn ngập ân sủng.

Trong cái năm tăm tối tôi đã đánh mất toàn bộ của cải trần thế của mình. Mất toàn bộ những hoa quả đóng chai, đồ hộp cất giấu, toàn bộ đường, kem cạo râu, các loại giẻ, giấy và mực. Vô ích tôi nhét chúng sau các cuốn sách, dưới các giá, cả giá lẫn sách đều mất. Tôi đứng ngoài đường ngập tuyết, khóc rưng rức vì đau đớn và sợ hãi, giống như Job, và tôi gọi Thượng Đế, và tôi lăn ra tuyết bởi tôi cảm thấy Ngài không nghe thấy. Nhưng đấy là cái mà tôi nhanh chóng có thể hiểu ra. Tôi trở thành kẻ ăn mày. Giống Job. Tôi đã hiểu ra, rằng trở thành ăn mày cũng tốt.

Cơn giải phẫu đau đớn. Tôi đã mất hết, tôi nói. Tôi quên cả biết cười và căm thù kẻ nào cười. Vết thương. Vếtthương sâu hoắm. Khi, tôi trữ bột và bánh mì, mất sạch. Tôi muốn được cứu vớt và tôi đã bị đánh mất. Thế giới của tư hữu đã bị tiêu diệt. Nhưng tôi mau chóng hiểu ra rằng chỉ sau sự tiêu diệt của thế giới tư hữu, con người mới bước vào thế giới của sự sống. Giống như Job.

Nếu người ta để yên cho con người, trong năm năm, một lần nữa nó lại xây nhà, lại bắt đầu lại từ đầu. Hoa quả đóng chai, mật ong và kem cạo râu. Làm một tuổi trẻ giàu có thật khó! Tôi chắc không bao giờ tự biết từ bỏ. Ô! Từ bỏ! Từ bỏ tất cả.

Không, ví dụ vẫn duy trì sự u uất, thuốc lá, hoặc rượu. Hoặc các loại đồ hộp. Một cái gì để có thể trốn vào đấy, như hầm sắt, một cái gì có thể để dành, một cái gì để sợ, một cái gì bảo vệ, một cái gì khách quan, tất yếu, và cản trở sự từ bỏ hoàn toàn. Không giữ lại. Đến niềm vui cũng không. Từ bỏ cả sự hiến dâng và cả sự từ bỏ. Như Job.

Tràn ngập ân sủng. Tôi gọi ân sủng là cái mà tôi tương đối nhanh chóng và dễ dàng hiểu ra. Trở thành kẻ ăn mày. Tôi vẫn còn rớm máu, nhưng tôi biết, thế là tốt. Thế giới tư hữu nằm trong đổ nát. Tôi biết, nếu người ta để tôi yên trong năm năm, tôi sẽ không xây nhà mói, để bắt đầu lại từ đầu. Một kẻ nào đó đã cạo sạch tư hữu khỏi tôi. Da tôi cũng trượt theo, nhưng không sao, giờ đây tôi cố gắng không bao giờ gắn bó với cái gì hết, như tôi đã làm với kem cạo râu. Khó khăn trở thành kẻ ăn mày nhưng thế là tốt. Thế giới của sự sống cao hơn thế giới của tư hữu.

Giờ đây trong căn nhà trên núi tôi cũng hiểu một điều, cái gì là sự từ giã ý thức tội lỗi. Một lo âu tăm tối. Một riêng tư từ ý thức tội lỗi. Tôi đã hiểu, các thần linh mời chào tội lỗi, để họ trở thành các con trẻ. Cần phải từ bỏ cả tội lỗi. Từ bỏ nỗi lo âu tăm tối, nỗi lo lắng và từ bỏ cả ngày mai nữa.

Không có cái gì là của tôi. Và bản thân tôi là của tôi ít nhất. Trong sự vun vén của cải, trong lo âu và trong sự sợ hãi, trong các kế hoạch được dựng lên bởi lợi ích ẩn giấu, cái tinh thần hoảng loạn nằm ở đấy. Tràn ngập ân sủng.

Trong thế giới của tư hữu, con người cũng không thể là nó. Thuần túy là sự bảo vệ, sự tấn công, và quyền lợi và chó giữ cổng trong cái cổng riêng của nó, và nếu hoa quả đóng chai bị lấy đi, người ta sẽ rống lên, như tôi đã lăn ra tuyết vì ngôi nhà bị phá vỡ tan tành của mình. Một sự sống có hiệu quả chỉ có thể sau sự thanh toán hoàn toàn với sở hữu. Hiện thực bắt đầu từ đây.

Thánh Pál nói: Trái tim chưa chuyển hóa- Kardia ametanoétosz. Một trái tim chưa chuyển hóa nằm trong nỗi lo lắng xà phòng và tăm tối, và ân sủng không thể mở cho nó. Nó sống trong turba. Một sự rối loạn theo kiểu điên rồ.

Hình ảnh cổ của Thực Thể Vĩ Đại bị rối loạn. Nó bắt đầu tin nó là xà phòng, là đồ hộp, là hoa quả đóng chai và các loại giẻ rách. Không minh bạch. Hình ảnh hiện thực không thông qua chính nó. Đây là trí tưởng tượng đen.

Nỗi lo âu, lo âu. Đây là turba. Sự ghen tị, chất độc, sự ghen tuông, sự keo kiệt, sự chui lủi, cơn giận dữ của Thượng Đế, kho, tàng trữ một cách mất trí và cứu vớt cái không thể cứu vớt, và xây nhà, và sủa trong cổng, cần cắt đi toàn bộ. Tất nhiên con người dễ dàng giẫm lên. Tôi sẽ không bao giờ tự mình làm nổi. Nhưng nó đã xảy ra.

Tôi không theo đạo, nhưng thiếu tôn giáo không thể hiểu nổi một cách hoàn toàn cái năm đen tối ấy. Thiếu tôn giáo là một sự khủng khiếp vô nghĩa, một tai họa thế nào đó ngớ ngẩn, ngẫu nhiên. Không đủ. Tiêu cực. Không đúng. Bằng tôn giáo? Đột nhiên tích cực và có ý nghĩa hẳn. Còn hơn thế. Đây là hiện thực. Tôi chỉ có thể bình thản trong điều này.

4.

Người nào nhịn ăn và đến với cô độc, có khả năng, không chỉ muốn chắp vá lại chính bản thân mình. Tôi mơ ước một bầu không khí hòa hợp toàn bộ. Lúc đó sự nguy hiểm sẽ luôn luôn là điều mà Thầy của tôi chưa bao giờ nói về nó đủ, chưa bao giờ đi quá giới hạn. Không tiếp xúc với bất kì cái gì bị cấm. Kẻ nào ngoạm vô giới hạn bánh mì của trời, kẻ đó đi thẳng xuống địa ngục.

Trong tri thức tất cả mọi người đều có thể dự phần một cách có đo lường mức độ phúc lạc. Mức độ phúc lạc phù hợp với sự tăng lên của việc thực hiện. Mức độ của thực hiện chỉ có nghĩa ngần này, thực chất của tôi ở mức độ nào. Nếu tôi hoàn toàn thực chất, tôi có phúc lạc.

Ô! Trình bày và nhấn mạnh và hào nhoáng, thậm chí nói sự thật, nếu nó xứng và có thể tâng bốc, vẫn còn có thể, có thể trước đám đông, nói về nó, bằng sự khiêm tốn cần thiết, để tác dụng lớn hơn nữa, đây là sự lừa đảo ẩn sâu trong bản chất Tôi, giống như bạch tuộc trong một góc đá tối nhất dưới biển, nó sống ở đó, nó đấy, trong bản chất Tôi, trong hành vi và gần như trong mọi lời nói, cái tôi nói ra và viết ra, đấy là sự lừa đảo (svihakság), đây là sự khuếch trương bệnh tật, sự thái quá bẩn thỉu.

Lỗi lầm tính cách. Sự nông nổi. Hứa nhưng không giữ lời. Rút bản thân mình khỏi sự động chạm. Trốn cái khó chịu. Không dám đứng vào vị trí. Nhưng lại không biết một cách thận trọng về mọi điều. Cái phi-hiện thực, sự giễu cợt, cái mặt nạ, sự hoành tráng và ba hoa, quyền lực của nó mái lớn làm sao, nó quay cuồng và phục dịch cho sự dối trá bằng một kĩ thuật tinh xảo, khéo, léo và tốt đẹp một cách biến hóa, nhằm đánh lừa tất cả mọi người, và gần như thành công, không gây nghi ngờ, dù chỉ đôi khi đối với một vài người trong sạch nhất.

Tất nhiên nơi nào tôi lừa đảo, nơi đó không phải là tôi, và tôi cũng không thể là đích thực. Mặt nạ, rỗng tuếch, vô nghĩa, không là gì, phi -tồn tại. Mọi điểm tội lỗi đều là vị trí xâm nhập dành cho các quyền lực địa ngục. Con người ở dây phi cá thể. Và bởi vậy địa ngục thể hiện nội dung của nó. Phi đích thực chỉ có nghĩa ngần này: không có. Sự lừa đảo là một phi-đích thực tiêu biểu. Dối trá và giả vờ, nhưng che giấu một cách thiên thần tất cả những gì vô lại, đê tiện và bẩn thỉu, và sau rốt kệch cỡm.

Kẻ lừa đảo ẩn mình cần một bộ máy không ngờ để đánh lừa. Trốn. Trốn kĩ. Cần sử dụng - lợi dụng toàn bộ tâm lí học để có thể trốn kĩ hơn. Tất cả tri thức về hành vi chỉ khiến con người trong sự trốn tránh trở nên khéo léo hơn, nhanh nhạy hơn, con người học từ đây những hiện tượng linh hồn, trí thông minh của nó trở nên tinh tế hơn từ đây, để biết trốn tránh trước khi lộ tẩy.

"Nếu sự dối trá nói thật, còn tồi tệ hơn sự thật nói dối". Cái giọng điệu giả dối này đã không còn hành hạ tai tôi, chỉ khi còn lại một mình, trong đối thoại của cô đơn, tôi kiếm tìm nguyên nhấn của câu này, nhưng tôi không tìm thấy. Nhưng giờ đây tôi đã tóm được họng của hắn. Tên lừa đảo, đã học một cách tuyệt vời, cần trốn như thế nào, luôn cần tìm một xó nửa vời nhất, đánh lạc hướng, nhìn xiên, giả bộ không nhận ra, và nhất là ẩn nấp, và giữa chừng duy trì sự danh giá vờ vịt. cần ăn cắp nhận thức, và tuyên bố, tuyên bố và nói rõ nhiều về việc cần lập lại vị trí và nhìn thẳng.

Năm đen tối là sự phá sản của sự lừa đảo. Là một ví dụ tốt, rằng giá của mọi bước tiến về phía trước là sự đau khổ. Không cái xấu nào lớn hơn sự đau khổ, một thần linh đã nói, nhưng cũng không hạnh phúc nào lớn hơn, việc hồi tưởng lại những đau khổ. Con người chỉ như vậy mới đích thực. Mức độ của đích thực phù hợp với mức độ của phúc lạc.

Tôi đã uống từ sự giận dữ của Thượng Đế. Năm của Job. Đêm đen của linh hồn. Turba. Trí tưởng tượng đen. Đốt rác. Cái chết thần bí. Có thể sâu hoắm, để cần thiết một cuộc giải phẫu như thế. Hết? Chưa hết. Vẫn còn. Nhưng tôi đã nhận ra nơi lẩn trốn của nó. Molios đã nói: Đời sống trôi qua trong sự kiềm chế bản thân lớn hơn mọi phép mầu của các thần linh.

Tôi đã đánh lừa tất cả mọi người, đạt đến mức đánh lừa ngay cả bản thân mình, mặc dù tôi tương đối đa nghi, nhất là đối với bản thân, và như vậy tôi là một nhà tâm lí không đến nỗi tồi. Nhưng điều này lại đi quá giới hạn của tâm lí học. Bởi rốt cuộc tâm lí học không hề biết đến cái cao siêu.

Nếu tôi nói, turba hay abhimana, hoặc đêm đen của linh hồn, tâm lí học sẽ há hốc mồm. Cho dù tất cả mọi người đều ở trong đó. Tất cả mọi người đều nghĩ do bom và đạn, và mau chóng quên đi. Mau chóng và khóa sổ. Đáng khóc cho sự khóa sổ này. Họ không hiểu rằng, đêm đen của linh hồn có thể là cái chết từ con người. Đối với họ đêm đen chỉ thuần túy là hoàn cảnh bên ngoài.

Đêm đen chạm đến con người khi bàn tay của Thượng Đế chìa ra phía nó để nâng nó lên. Sự tiếp xúc này thật khủng khiếp. Con người rên rỉ, thổi phì phì, nhe răng ra, run lẩy bẩy và sợ, sợ tái người, khi nó ngày càng lún sâu hơn vào sự nhiễu nhương, rối loạn. Đây là bước không thể tránh khỏi, không thể không dính vào, không thể mặc cả của sự chuyển đổi.

Tất cả các linh hồn không chịu nổi vòng quay của bánh xe luân hồi, muốn phá vỡ, đều phải đi qua bước này. Đây là metanoia. Sự chuyển hóa. Sự giải thoát. Nếu tôi đích thực một cách hoàn toàn, tôi hưởng phúc lạc. Bước đầu tiên là đêm đen của linh hồn. Nhà tâm lí học há hốc mồm vì điều này. San Juan de la Cruz viết chính xác như vậy.

Trong một trăm năm Hölderlin, Schumann, Baudelaire, Nietzsche, Golgon, Van Gogh, đều vấp phải bước này. Họ rơi vào đêm đen. Turba nuốt chửng họ và họ phát điên. Phát điên giờ đây không còn hợp lí nữa. Giờ khắc của lịch sử phúc lạc đã trôi qua. Strindberg đã trải qua đúng cơn điên này trong thời kì địa ngục của mình, từ đêm đen già dặn bước ra. Đấy là con người đầu tiên của thời đại chúng ta đã đạt đến mức độ chuyển hóa ở một mức độ cao hơn.

Từ đó đến nay lịch sử phúc lạc vẫn tiếp tục. Có vẻ như sự trải qua đếm đen của linh hồn trở thành bắt buộc đối với tất cả mọi người. Metanoia - sự ăn năn, sự chuyển hóa biến thành nhu cầu đời sống và là mệnh lệnh. Chúng ta đang ở thời kì của Antikristus - phản Chúa. Chúng ta không thể đứng đúng vị trí nếu từ mười vạn lớp da ta không lột đi ít nhất là năm lớp.

Linh hồn là đứa trẻ của Lửa có Một Vạn Lớp Da. Püripaisz müriodermatikosz. Tốt nhất luôn luôn sống trong trạng thái lột xác, Nghĩa là sáng ra tội không nhận ra mình, đến tối lại một lần nữa tôi đổi thay mới lại, mới hoàn toàn. Luôn luôn mentanoia. Hóa thân và thay đổi hình dạng. Nếu mỗi ngày tôi có thể loại trừ được một sự giả dối, hi vọng sau một nghìn năm tôi được chuẩn bị xong.

Đã hết bốn mươi tiếng đồng hồ. Tôi đã nhìn thấy những người tuyệt thực tình nguyện, sau khi nhịn ăn họ trắng ra một cách tuyệt vời. Không phải da họ trắng hơn, không phải tóc hoặc giọng nói, cử chỉ hoặc mắt của họ. Họ trở nên trong suốt hơn. Họ cử động chậm rãi hơn, nhìn bình thản hơn, giọng họ trong sáng hơn, khẽ khàng hơn, xa xăm và trực tiếp hơn. Khối thịt đậm đặc trở nên minh bạch hơn. Điều này tôi gọi là trắng ra.

Tôi nhìn vào gương, tò mò, thấy một làn da nâu đỏ, mớ tóc vàng hoa râm, mắt xanh.

Không chút dấu vết của sự đau khổ, và khuôn mặt đúng là trắng ra. Dạ đày tôi không réo. Tôi không cảm thấy mình lả đi. Một trạng thái bay bổng dễ chịu. Sự nhạy cảm, như cái cách gió lùa vào mặt tôi, như cái cách tôi nghe thấy tiếng lạo xạo của lá.