Một Linh Hồn, Nhiều Thể Xác

Chương 12. David: Tâm linh

Lúc nhỏ tôi thường theo cha tôi đi đến điện thờ vào sáng Chủ Nhật, quan sát những ông lão đu đưa, lắc qua lắc lại[20] khi họ đọc kinh cầu nguyện. Cha tôi bảo tôi rằng nghi thức này lập đi lập lại cả ngày lẫn đêm, sáng trưa chiều tối. Tôi không hiểu ngôn ngữ của lời cầu nguyện, tiếng Hê-brơ[21], căn bản là tôi không thể hiểu nguyên nhân để họ cầu nguyện. Tôi nghĩ là chẳng có ý nghĩa gì hết. Tôi cho rằng dù nhiều năm trôi qua đi nữa lời cầu nguyện cũng không thể có ý nghĩa gì, và lúc đó việc mà đu đưa, lắc qua lắc lại cũng không thể là bài tập thể dục.

Sau khi điều trị Catherine tôi mới vỡ ra. Những ông lão đó đặt để thân thể họ vào một tình trạng thay đổi cũng giống như tôi đặt bệnh nhân vào tình trạng thôi miên. Tôi không nghĩ nội dung của lời cầu nguyện quan trọng, mà nghi thức cầu nguyện mới là quan trọng –

giống như nhiều nghi thức tôn giáo, bất kể tôn giáo nào – đều giúp họ có nhiều năng lực tâm linh hơn. Dù người này là đạo Do Thái, đạo Thiên Chúa, hay đạo Hồi, đối tượng chỉ là một: được đến gần hơn với đấng Tối Thượng, và bằng cách cầu nguyện, sẽ trở nên gần hơn với chính bản chất tâm linh trong sáng.

Với tôi, có tâm linh nghĩa là có lòng thương cảm, yêu thương, chăm sóc. Nó có nghĩa là dang rộng đôi tay ra cho mọi người với cả tấm lòng từ ái mà không mong được đền đáp. Nó có nghĩa là thừa nhận điều gì đó lớn lao hơn chính bản thân, một sức mạnh tồn tại trong một cõi xa lạ mà chúng ta phải cố gắng khám phá. Nó có nghĩa là biết được còn nhiều bài học cao hơn để học hỏi, và sau khi chúng ta đã học xong những bài học đó, chúng ta biết rằng vẫn có nhiều bài học cao hơn nữa. Khả năng tạo ra tâm linh là trong từng người chúng ta, và chúng ta phải khai thác nó.

Tôi đã từng thấy nhiều người có đạo, phạm phải những hành động bạo lực và còn kích động người khác tạo ra chiến tranh. Họ nói rằng những người mà không cùng tôn giáo với họ là kẻ thù của họ, vì vậy họ phải tấn công và giết chết. Những người này không hề học hỏi bài học có sẵn mà chỉ biết có một vũ trụ, một linh hồn. Theo tôi, khuynh hướng này là hoàn toàn không có tâm linh, không hề có ý nghĩa mà tôn giáo tán thành. Thật ra, điều đó đánh dấu sự khác biệt giữa tôn giáo và tâm linh. Bạn không cần có tôn giáo để có tâm linh, có thể bạn là một người vô thần mà vẫn có lòng từ ái và thương cảm. Bạn có thể làm việc tự nguyện mà không phải vì Chúa yêu cầu bạn làm, nhưng bởi vì việc làm này khiến bạn cảm thấy vui vẻ, và bạn nghĩ đó là cách mà con người nên hành động hướng đến với nhau, đó là cách để tiến hóa đến cõi cao

hơn.

Khái niệm về Thần Thánh trong tôi là tình yêu thương, năng lực trí tuệ nằm trong từng tế bào của cơ thể chúng ta. Tôi không nhìn Người như một tiêu chuẩn sáo rỗng của một người đàn ông với hàm râu quai nón, ngồi trên đám mây phán xét loài người. Trong thuật ngữ phân tâm học, đây là sự hiện hình, nhân tính hóa của Thần Thánh. Câu hỏi quan trọng liên quan đến tâm linh thì không phải là bạn đang hướng đến Chúa Trời nào, mà có phải thật sự bạn đang hướng đến chính linh hồn mình? Có phải bạn đang sống với một đời sống tâm linh? Có phải bạn là người tốt trên trái đất này, nhận niềm vui nơi bạn đang tồn tại, không gây đau khổ, chỉ làm việc tốt cho người khác?

Đây là thực chất cuộc đời, rất cần thiết cho chúng ta trên hành trình tiến lên trước, và dường như nó không hề rắc rối. Nhưng rất nhiều người trong chúng ta vẫn chưa thấu triệt những bài học tâm linh này. Chúng ta quá ích kỷ, thực dụng, mà thiếu lòng từ ái và sự đồng cảm. Ham muốn làm việc tốt được xếp vào sự ham muốn hưởng thụ vất chất. Và khi lòng tốt và sự ích kỷ vật lộn trong tâm trí, chúng ta trở nên bối rối, bất an.

Đó là tình trạng mà David đang lâm vào, như bạn sẽ nhìn thấy.

Gia đình David thuộc dòng dõi quý tộc New England cũ. Từ Boston bằng mọi cách, anh ta đến gặp tôi. Anh ta đã nghe về việc tôi đang làm, và CD của tôi đã giúp anh thư giãn dù anh chưa có cuộc thử nghiệm nào trở về quá khứ. Ngoài ra, anh đã thử phép trị liệu tâm lý thông thường nhưng nó không giúp anh được nhiều.

Tôi đã chuẩn bị ở lại một tuần, chúng ta có thể làm được điều gì đó trong khoảng thời gian này?

Chúng ta cứ thử xem.

Tôi trả lời nhưng lại để ý đến vết cắt hoàn hảo trên quần và cái nhãn hiệu Polo trên áo anh ta.

Tôi sẽ lập cho anh một thời khóa biểu ba buổi. Tuy nhiên chúng ta không thể thực hiện nếu anh không kể rõ lý do anh đến đây.

Tôi thật ngạc nhiên vì câu hỏi có vẻ như đánh đố anh ta. Cuối cùng rồi anh ta mới trả lời.

– Tôi không biết chắc. Tôi không … tôi không hạnh phúc.

Nghề nghiệp? Cá nhân?

Cả hai … cũng không phải.

Cái nào?

Điểm chính là tôi không nên bị mất hạnh phúc.

Không hạnh phúc thì không phải vấn đề “nên”. Đó là tình trạng của tâm trí.

Dạ phải. Dĩ nhiên như vậy. Chỉ khi tôi nghĩ về cuộc sống riêng mà thường xa hơn cuộc sống tôi ao ước thì tôi không thể nhìn thấy một điểm nào là không vui.

Nghề nghiệp của anh?

Luật sư. Tôi làm cho công ty của cha tôi, và làm rất tốt. Có cổ phần đã hai năm, nhưng tôi không nói đến việc ưu đãi vì bà con thân thuộc.

Khi con cái làm việc cho cha mẹ vẫn thường có sự bất đồng.

Anh có thấy khó chịu khi làm việc cho cha anh?

Không hề.

Anh ta nhấn mạnh, ngắt câu bằng một cái vỗ tay nhẹ.

Cha để tôi tự lập. Ông nuôi dạy tôi trở thành một con người của riêng tôi, mẹ tôi cũng vậy. Ông không bao giờ phê bình tôi, và hiếm khi gặp tôi trong văn phòng. Tôi cho rằng tôi dành thời gian cho ông vì thân tình nhiều hơn trong công việc.

Khi nhà tâm thần học bắt đầu tìm hiểu nguyên nhân vấn đề của người bệnh, trước tiên họ thường tìm hiểu về gia đình. Ở đây có vài động cơ vô thức trong công việc mà David không nhận ra? Tôi thăm dò xa hơn.

Mẹ anh còn sống không? Anh ta mỉm cười.

Vẫn còn sống, và hoạt động tích cực. Bà đang trên tàu của đoàn nhạc kịch, múa ba lê, viện bảo tàng nghệ thuật. Mẹ tôi là một bà chủ lớn.

Anh ta đưa tay lên như đoán trước được câu hỏi của tôi.

Lúc nhỏ tôi được mẹ chăm sóc rất chu đáo, cả anh chị em tôi đều được chăm sóc. Chúng tôi rất gắn bó với nhau.

Anh nói là anh gặp cha anh rất thân tình?

Dĩ nhiên, mẹ tôi cũng vậy. Hôn nhân của họ bền vững đã bốn mươi năm rồi.

Anh gặp họ thường xuyên?

Có lẽ mỗi tuần một lần. Thường thì một tháng ba lần.

Anh đã lập gia đình? Một cái vỗ tay nhẹ khác.

Đúng vậy. Với thiên thần Leslie.

Có phải anh ta mỉa mai?

Cô ta cũng là luật sư?

Ồ không, nàng là diễn viên. Tôi gặp nàng vào năm thứ hai của đại học luật Harvard. Vào một dịp đi xem kịch tôi bị choáng váng vì Perdita, rồi tôi đi vào sau sân khấu rủ nàng đi chơi. Đó là cơ hội may mắn vĩnh viễn khi nàng đồng ý, rồi sau đó lại đồng ý khi tôi hỏi cưới nàng cách đây 5 năm.

Cha mẹ anh chấp nhận?

Con cháu gia đình quý tộc ở Boston kết hôn với một diễn viên hèn kém? Lúc đầu tôi không biết ba mẹ cảm thấy như thế nào? Tôi nói rồi, ba mẹ để tôi tự chọn cuộc đời mình. Nhưng bây giờ họ rất yêu quý nàng.

Có con chưa?

Chưa. Nhưng 5 tháng nữa thì khác. Siêu âm nói là con trai. Nó ở đây. Có người nối dõi rồi! Dòng họ có người tiếp nối rồi!

Anh ta kể cho tôi nghe bằng một niềm vui khôn tả.

Bây giờ thì anh nhoài người về phía trước, và biểu lộ buồn thảm.

– Bác sĩ Weiss, đó chỉ là một vấn đề. Tôi yêu thương ba mẹ, tôi có một tuổi thơ tuyệt

vời, có một người vợ đặc biệt, được học hành đàng hoàng, cuộc sống đầy đủ sung túc. Chúng tôi có đủ tiền đề phòng mọi tai họa, hoặc chúng tôi có thể đi đến bất cứ nơi nào trên hành tinh. Tôi thật sự là một người chẳng phải lo toan gì hết. Tuy nhiên khi tôi suy nghĩ về những điều này, và thậm chí tôi biết rõ chúng đang hiện hữu, vẫn có một vấn đề gút mắc cơ bản: người đàn ông mà tôi vừa miêu tả không phải là người sống trong da thịt tôi.

Điều cuối cùng được kèm theo bằng tiếng nức nở và cái nhìn hết sức đau khổ khiến tôi thật sự nghĩ rằng mình đang đối mặt với một người khác.

Anh có thể nói cụ thể hơn? Anh ta cố hết sức hồi phục.

Giá mà tôi có thể. Nếu tôi cố gắng tìm từ ngữ mà tôi cảm thấy ra sao thì nó giống như là van xin. Một lời than van nhỏ mọn của một người quá yêu bản thân mình.

Không quan trọng là nó như thế nào, rõ ràng là lời than van không hề nhỏ nhoi. Anh đang đau đớn.

Anh ta nhìn tôi biết ơn và thở nhẹ nhõm.

Được rồi. Nó như thế này: tôi không biết tại sao tôi được đặt để trên trái đất này. Tôi cảm thấy như thể mình đang trượt trong một cái ao đóng băng gọi là cuộc đời, và cái

đó nằm sâu dưới nước cả trăm bộ[22]. Tôi biết rằng tôi nên bơi trong đó, rằng nó sẽ tốt nếu tôi trải nghiệm nó, nhưng tôi không biết làm thế nào để phá tảng băng đó. Tôi bối rối về nơi tôi đang sống trên thế giới này. Đúng là tôi rất vui khi làm việc với cha tôi, nhưng điều đó chỉ là một sự xác định của tôi: con của cha tôi. Tôi còn hơn nữa. Tôi còn một xác định khác nữa: người chồng tốt và sắp trở thành người cha tốt.

Anh ta cứ nói, lời nói tuôn thành âm thanh lớn đến sững sờ trong văn phòng tôi.

– Chúa ơi! Tôi hoàn toàn vô hình. Cuộc sống chỉ vèo qua tôi như cơn gió.

Tôi biết anh ta cần những lời giải sâu sắc. Hơn là sự rên rỉ, lời than van của anh ta liên quan đến sự tồn tại, một lời kêu van vì một sự xác định rõ mà anh ta không thể khám phá.

Có lẽ anh ta đang tìm kiếm không đúng chỗ.

***

David kể rằng khi anh nghe CD của tôi tại nhà, anh ta thấy rất thư giãn và chìm vào giấc ngủ. Chẳng có gì sai cả, đơn giản là người đó đi quá sâu. Vì vậy “đợt thực hành” trước của anh đã khiến việc đưa anh vào trạng thái thôi miên dễ dàng hơn tại văn phòng tôi. Chỉ trong vài phút anh đã đi vào trạng thái thật sâu. Anh nói chầm chậm như đang cố nhìn kỹ vào cuộc đời từ bên ngoài:

Đó là thế kỷ 12. Tôi là nữ tu, Sơ Eugenie, đang làm việc trong bệnh viện ở ngoại ô Paris. Anh nhún vai.

Một nơi đầy chết chóc, lạnh lẽo, tối tăm. Cuộc sống của tôi quá cực nhọc. Người bệnh nằm đầy trong phòng, tôi biết còn nhiều người đứng ngoài chờ người nằm trong đây chết để có chỗ nằm. Thân thể họ bị giộp phồng đầy nước vàng. Mùi hôi bốc lên kinh khủng. Ngay thời tiết lạnh như vậy mà người bệnh nghèo nàn này vẫn bị sốt rất cao. Họ toát mồ hôi và rên rỉ. Nhìn họ đau đớn khủng khiếp.

Tôi không hề ngại gì khi làm việc ở đó. Một đứa bé gái 11 tuổi, mồ côi, đôi mắt lấp lánh với cơn sốt, đôi môi khô rang, khuôn mặt nhăn nheo như con khỉ. Chúng tôi biết con bé sắp chết mà tôi chẳng thể làm gì giúp nó. Tuy nhiên tâm trí con bé rất sáng suốt, nó có thể làm trò cười, nhiều bệnh nhân khác rất thích nó. Tôi yêu quý con bé nhất. Tôi đem nước đến và lau trán cho nó – tôi làm việc này với mọi người – với sự chăm sóc đặc biệt.

Vào ngày con bé chết, nó nhìn tôi và nói “Sơ đến trong đời con và đem cho con sự yên ổn. Sơ đã cho con hạnh phúc”. Hạnh phúc! Ông có thể tưởng tượng được không? Một đứa con gái tội nghiệp, trong sự đau đớn cực độ về thể xác, nói rằng đã hạnh phúc vì có tôi. Tôi không biết rõ lý do, nhưng tôi tăng đôi nỗ lực của mình đối với mọi bệnh nhân, hy vọng tôi có thể đem cho họ niềm hạnh phúc tương tự, hoặc ít ra cũng đem cho họ sự yên lành. Và nó có hiệu quả! Tôi biết sự hiện diện của mình để dỗ dành họ, và nối kết linh hồn của chúng tôi lại với nhau, tuy vậy không có ai nối kết mạnh mẽ với tôi bằng cô bé mồ côi đó.

Khi nói khuôn mặt anh phản ánh nội tâm an lành và giọng nói rất nhẹ nhàng, kính sợ, huyền diệu.

Rốt cuộc rồi tôi cũng không chống nổi bệnh tật. Cơn đau nhức buốt, tuy thân thể tôi khốn khổ nhưng tâm trí và linh hồn tôi rất sáng suốt. Tôi biết rằng tôi đã sống rất hữu ích cho mọi người, và đó là kế hoạch mà Thượng đế dành cho tôi. Khi tôi chết linh

hồn bay cao hướng đến Thượng đế, người đã cứu rỗi tôi. Tôi được bao phủ trong ánh sáng vàng rực,

cảm thấy có sức sống mới trong ân huệ của Người. Nhiều thiên thần đến dẫn tôi đi, chào đón tôi bằng những tràng pháo tay và những bài hát trên thiên đường. Sống trên trái đất, tôi đã đánh liều mạng sống để giúp người khác mà không hề có ý nghĩ lợi ích vật chất. Đây là phần thưởng của tôi trên thiên đàng, có giá trị nhiều hơn kho báu của vua chúa, quý giá hơn những viên ngọc bích.

Họ giúp tôi kiến thức, và đổi lại tôi cho họ tình yêu thương vô tận. Qua họ tôi hiểu rằng giúp đỡ người khác là điều thiện cao quý nhất, và ông có thể tưởng tượng ra niềm vui của tôi khi họ nói rằng tôi đã đạt được điều đó. Chiều dài của cuộc đời không quan trọng. Con số của ngày giờ năm tháng sống trên trái đất là vô nghĩa. Quan trọng là chất lượng sống trong những năm tháng đó, chất lượng được đo lường trong hành động nhân từ và trí tuệ đạt được. “Vài người làm việc tốt một ngày còn hơn người khác làm trong một trăm năm”. Đây là lời nhắn của họ. “Mỗi linh hồn, mỗi con người đều quý giá. Với sự giúp đỡ của mỗi một người, mỗi một cuộc sống được cứu giúp, đó là giá trị không thể đo đếm được”. Mỗi linh hồn mà tôi chăm sóc trong bệnh viện, thuộc vào những thể xác đã chết trước tôi, gởi lời cầu chúc và tình yêu đến cho tôi, hòa lẫn vào niềm vui của tôi.

David ngừng lại một chút rồi tiếp:

Một sinh vật tuyệt đẹp đáng ngạc nhiên khác với các thiên thần, dường như được làm từ ánh sáng, tuy vậy nó có hình thái con người rõ ràng, mặc một cái áo choàng màu tím, mang giày vàng. Giọng nói của nó – không thể phân biệt là nam hay nữ – có một quyền lực của trí tuệ siêu phàm.

Khi tôi đưa anh trở về hiện tại, anh vẫn trong tình trạng quyền lực của cảnh tượng, vẫn còn tràn đầy kính sợ và tâm được khai sáng[23], anh nói với tôi:

Chúng ta có thể gọi đó là Sinh Vật Nguồn. Vì những bài học mà các thiên thần dạy tôi là họ đã học từ sinh vật đó. ‘Nếu bạn cần sự giúp đỡ, bạn có thể cầu khẩn thông qua thiền định và cầu nguyện, bạn cần lúc nào thì nó sẽ hiện thân lúc đó’, Nguồn này chỉ dẫn tôi trực tiếp. ‘Mở rộng lòng nhân ái, tìm điều cao đẹp hơn mà không có động cơ ích kỷ, không có bất cứ bóng dáng nào của tiêu cực hay gây hại, có thể cầu khẩn một năng lực hiện thân đầy quyền năng để hoàn thành mục đích. Đây là quyền của chúng ta như những thực thể tâm linh. Đây là bản chất của tâm linh. Đây là lời cầu khẩn phước lành’.

Anh lắc đầu, băn khoăn và nói:

Trong đời tôi chưa bao giờ có ý nghĩ như vậy. Tôi là người ngoại đạo. Không hề tin có Chúa và không có ý tưởng mập mờ nào trong tôi về Nguồn. Ý tưởng mà tôi đã từng là nữ tu có vẻ vô lý.

Đó chính là một kiếp mà anh đã từng sống. Chắc chắn là một kiếp rất quan trọng vì anh đến đó rất nhanh và nó lại rất sống động.

Anh đồng ý.

Nó không thể là ảo tưởng. Nó quá tách biệt với mọi thứ mà tôi tưởng tượng trong quá khứ.

Vì vậy mà anh nghĩ là thật? Anh nắm tay lại.

Tôi không thể đi xa quá. Nhưng tôi có thể nói với ông như vậy, bác sĩ Weiss. Đó là sự trải nghiệm cảm động kinh ngạc nhất mà tôi có thể nhớ.

Có lẽ Sơ Eugenie là một con người trong da thịt anh. Có lẽ bà ta là một David mà anh đang tìm kiếm.

Anh nghĩ ngợi giây lát.

– Chúng ta sẽ gặp lại, phải không?

Buổi điều trị đã xong. Anh đứng dậy và vỗ nhẹ tay.

– Cái gì sẽ đến?

Hai ngày sau anh trở lại và nói với tôi rằng cái kiếp sống đó cứ ám ảnh từ lúc anh ta rời khỏi văn phòng tôi. Anh có cảm giác mình đã trải qua một buổi lễ hiển linh. Bây giờ anh tò mò về cái tiếp, và gần như ném mình xuống ghế.

Vài phút sau anh quay trở về khoảng thời gian 140 năm trước trong cuộc nội chiến của Mỹ. Kiếp này anh ở ngoài cảnh tượng dù anh nhìn thấy nó rõ ràng. Anh là một thanh niên trong phe Liên Minh, lính bộ binh, suốt ngày đi tuần tra hoặc chiến đấu. Anh kể:

– Hết trận đánh này tới trận đánh khác. Mỗi trận đánh càng tệ hơn. Tôi sợ kết bạn vì

tôi chắc rằng họ sẽ chết hoặc bị thương. Điều đó xảy ra cho mọi người: bị cắt xẻo hoặc bị giết. Chúng tôi chiến đấu với những người không phải là kẻ thù, mà là anh em với chúng tôi. Lý do duy nhất mà chúng tôi bắn họ là họ không bắn trước. Tôi cố gắng hết khả năng cứu đồng đội mình, giúp họ tìm nơi trú ngụ, thức ăn, nước uống. Tôi cũng giúp kẻ thù như vậy nếu có thể.

Anh cụp mắt xuống như thể cố tránh nhìn vào đó.

Thật là vô nghĩa và đau buồn. Không thể nói là vinh quang từ chiến bại. Anh em giết anh em hoài. Liên quan đến cái gì? Một khoảng đất? Một con suối? Một tư tưởng?

Bỗng nhiên anh có vẻ buồn và già đi.

Tôi cũng không sống sót sau chiến tranh. Tôi bỏ chỗ núp sau thân cây và để bị giết bằng cách đi bộ vào trận chiến. Tôi không có động lực nào để chiến đấu hoặc còn bụng dạ nào để giết chóc nữa. Đó là một loại tự sát.

Anh cam chịu thở dài.

Chiến tranh, bệnh dịch, động đất – tất cả là tai họa của thiên nhiên hoặc của con người. Tai ương giết chết hàng trăm hoặc hàng trăm ngàn – thì cái giá phải trả không thể kể xiết.

Giọng nói anh trở nên tự tin hơn.

Điều gì mà có vẻ không thể tránh khỏi thì không hẳn là thật. Nó có thể dịu bớt bằng ý thức riêng của chúng ta, bằng tư tưởng và ý định của tập thể. Điều gì mà có vẻ tránh được thì đòi hỏi ý chí để ngăn ngừa nó.

Anh đang nói về việc giữ mạng sống bằng cách ngăn chặn bạo lực, nhưng anh ám chỉ tai họa thiên nhiên có thể được ngăn ngừa do sử dụng ý chí của con người? Tôi cũng không chắc lắm. Khi David quay trở về hiện tại anh cũng không biết rõ. Có lẽ chuyến đi sắp tới sẽ giải thích rõ hơn.

Vào ngày đó trước khi anh ra về, anh có một cái nhìn thoáng về cảnh tượng trong kiếp quá khứ ở nhiều thế kỷ trước tại Trung Quốc,

anh không biết năm nào. Ngay khi anh đến kiếp sống đó, thân thể anh bắt đầu run rẩy, và tôi hỏi liệu anh có muốn trở về, anh nói nhanh:

Ồ không, tôi không sợ cũng không bệnh hoạn gì. Tôi đang quan sát. Tôi là đứa bé trai 11 tuổi. Tôi bị run rẩy vì đất đang run. Đó là cơn động đất. Gia đình tôi rất giàu, họ xây một căn nhà rất chắc chắn, nhưng nó cũng không chịu nổi sức đẩy của thiên nhiên. Các bức tường đang nứt, tôi nghe tiếng thét của cha mẹ, của anh chị em tôi. Hoảng loạn, tôi nhảy đến giúp họ nhưng quá trễ. Đứa em gái bé bỏng của tôi đang hấp hối, tôi ôm nó trong lòng cho đến khi nó chết. Tôi chạy qua phòng khác. cũng chẳng có gì đỡ hơn, các bức tường đổ sụp và tôi chết theo cả nhà.

Hầu như ngay khi David bước vào kiếp sống đó, anh liền rời bỏ. Đơn giản là anh đến đó vì những bài học đã mời gọi anh. Anh lại quan sát nó khi anh trở về hiện tại.

Cuộc sống tuy ngắn ngủi nhưng hạnh phúc. Những tòa nhà không có độ bền chắc không thể chống đỡ sự chấn động. Vào thời điểm đó không thể tránh được tai họa, hồi đó không thể tránh vì mức độ hiểu biết hay nhận thức bị hạn chế. Còn bây giờ chúng ta có kiến thức nhưng con người vẫn chết. Thật đáng giận. Chúng ta vẫn xây dựng những công trình không vững chắc trong những khu vực nguy hiểm mà không có kế hoạch hay sự chuẩn bị chu đáo. Tôi không nói về các nước thứ ba. Tôi đang nói đến nước Mỹ! Không phải thiếu tiền làm chúng ta ngưng trệ mà thiếu giá trị đặt trên con người. Chúng ta thà hy sinh con người hơn là phải tốn tiền. Độ an toàn đơn giản có thể tránh được đau đớn, thương tật và thậm chí mạng sống. Mỗi cuộc sống đều quan trọng, đặc biệt, và như vậy hàng ngàn người hy sinh thường là vì sự tham lam.

Một tiếng thở dài khác.

– Khi nào chúng ta sẽ học hỏi?

Tôi không có câu trả lời, nhưng tôi đã nghĩ đến điều này nhiều năm rồi. Có lẽ rồi tất cả chúng ta sẽ giác ngộ như David. Có lẽ rồi đây, chúng ta nhận ra rằng khi một người chết đi, đó là phần riêng trong quá trình của sự chết.

Mọi đời sống và linh hồn đều có liên quan.

Khi David quay lại cho đợt trị liệu cuối, chúng tôi đến thăm thêm hai kiếp quá khứ. Một lần nữa, chủ đề trong những chuyến trở về đợt trước tự biểu hiện, và anh có thể kể về nó rành mạch: có một giá trị tối thượng trong việc giúp đỡ người khác vì mỗi cuộc sống, mỗi biểu hiện về mặt thể chất trong chuyến du hành của linh hồn, là một sự vô giá.

Kiếp quá khứ đầu tiên trong buổi trị liệu này, anh là một bác sĩ vào thời đại hoàng đế La Mã. Trong những điều hiện ra với anh có một sự bùng nổ của bệnh dịch. Anh thấy

mình đang băng bó chân người bệnh, không phải vì họ bị thương mà nhờ băng bó này tránh bọ chét lây dịch từ chuột lan bệnh ghê tởm đến người. Anh cảnh báo mọi người tránh xa chuột, đặc biệt những con chuột chết, bọ chét sẽ rời khỏi xác chuột, và càng cố giữ thân thể được sạch sẽ ở nhà càng tốt. Anh đã cứu rất nhiều người, nhưng bệnh dịch lan ra nhiều khu vực nơi mà anh chưa kịp cảnh báo hoặc là họ không nghe theo lời khuyên của anh. Thật kỳ diệu, bản thân anh không bị bệnh dịch tấn công, nhưng anh sống để chiến đấu với bệnh tật như là một người thầy thuốc được tôn trọng và sùng kính.

Kiếp kế tiếp được liên kết mạnh mẽ với cả hai kiếp tại La Mã và Pháp khi anh là một nữ tu chăm sóc nạn nhân bệnh đậu mùa. Hơn một lần anh đã ở tại thời Trung Cổ, vào một thời kỳ xa xưa nào đó, và lần nữa bệnh dịch lan tràn khắp nơi, ảnh hưởng hầu hết Châu Âu. Anh làm việc điên cuồng, chăm sóc số bệnh nhân quá nhiều trong thành phố nơi anh sống, có thể là ở London, anh không chắc lắm, tuy nhiên nỗ lực của anh không đủ chống lại cơn đại dịch. Hơn phân nửa cư dân thành phố chết, và luôn cả người nhà của anh. Kiệt sức vì chống đỡ, anh trở nên tuyệt vọng và đau đớn, lòng tràn ngập tội lỗi, ân hận vì thất bại nhiều lần. Anh có thể nhìn thấy xa hơn trong kiếp đó. Anh kể rằng anh còn sống thêm mười năm nữa, nhưng chưa bao giờ anh thật sự tha thứ cho mình. Tôi hỏi:

Tại sao anh lại quá gắt gao với bản thân mình? Trong cuộc sống luôn có nhiều vấn đề anh không thể thực hiện được.

Từ trong tiềm thức, linh hồn bay bổng trên thân thể của kiếp sống thời Trung Cổ, anh nói:

– Bởi vì tôi quên việc băng bó. Họ có thể tránh đám bọ chét.

Tôi hết sức ngạc nhiên. Anh đã mang những ký ức trong một kiếp xa xưa vào kiếp sống thời Trung Cổ! Đó là một tín hiệu nối kết lại những kiếp quá khứ của anh mới gần gũi làm sao, và tất cả kiếp quá khứ ở lại trong chúng ta như thế nào khi chúng ta tiến hóa. Vài người trong thời Trung Cổ có kiến thức về La Mã, biết về những con bọ chét lây dịch từ chuột lan ra thành bệnh, nhưng anh cảm thấy lẽ ra mình thu thập điều mà anh đã biết ở thành Rome rồi ít ra cũng ngăn chặn nhiều cái chết, có lẽ cũng cứu được gia đình mình.

Anh lại nói, vẫn trong thân thể thời Trung Cổ.

– Tôi sẽ giữ lời hứa với ông. Trong tất cả những lần đầu thai tới tôi sẽ bảo vệ và cứu

giúp nhiều người theo sự cố gắng hết sức của tôi. Tôi biết không có cái chết, rằng chúng ta bất tử, nhưng tôi sẽ làm tất cả mọi điều để giảm cơn đau cho nạn nhân và những người sống sót, sẽ làm mọi điều để những bài học của linh hồn tiến hóa không bị cản trở.

Tôi nghĩ anh đã giữ đúng lời trong mọi kiếp chỉ trừ kiếp này. Cái gì có thể thay đổi ký ức giờ đây đang thôi thúc? Có thể anh tìm thấy cốt lõi thật sự của mình là người chữa bệnh?

Cả hai chúng tôi đều yên lặng. Tôi hơi thoáng băn khoăn liệu sự hiện diện của David có phải là một báo hiệu của nạn dịch khác – điều đó có vẻ là mô hình của anh – và rồi bỏ qua tư tưởng này vì nó quá kỳ cục. Thời gian vẫn còn đủ trong buổi điều trị này để có thể khám phá nhiều kiếp khác. Tôi hỏi David muốn đi về quá khứ hay tương lai. Nỗi buồn biến mất, anh reo lên:

– Ồ, tương lai!

Anh đưa tôi nhẹ nhàng đi đến một kiếp hơn một trăm năm sau. Trong kiếp đó cái con người da trắng lịch lãm theo đạo Tin Lành ngồi trước mặt tôi là một giáo sĩ đạo Do Thái!

Tên tôi là Ephraim. Tôi đang đi dự hội nghị với Thiên Chúa giáo, Tin Lành, Hindu, Phật giáo, Hồi giáo, các bộ trưởng, và các thầy thuốc. Chúng tôi gặp gỡ thường xuyên, hai ba lần một tuần, để tu thiền và cầu nguyện, tạo ra một năng lực hài hòa để chống thù ghét và căn bệnh bạo lực thường thấy ở những con người ngu xuẩn trên thế giới. Con số người tham gia rất khiêm tốn, không quá năm mươi, nhưng sức mạnh của chúng tôi vô song. Mục đích của chúng tôi là làm dung hòa năng lượng tai họa của trái đất đã bị tháo tuôn ra một cách thiếu hiểu biết bởi những con người không quan tâm hoặc không biết về những định luật của tâm linh. Năng lượng này tạo ra động đất, bão tố, lũ lụt, bệnh dịch. Chúng tôi đã từng nghĩ rằng đây là những sự kiện ngẫu nhiên. Bây giờ thì chúng tôi tin là chúng được sản sinh ra – hoặc ít nhất là bị ảnh hưởng – bởi những tư tưởng và ý định của loài người. Chúng tôi có thể ngăn chặn chúng! Nhóm chúng tôi đi khắp nơi để dạy mọi người phương pháp cầu nguyện rõ ràng và thiền định xác thực mà chúng tôi sử dụng. Chúng tôi có hàng ngàn đệ tử. Tháng sau là hội nghị toàn cầu lần thứ mười lăm gồm hơn hai mươi lăm ngàn tín đồ đã tin theo chúng tôi. Họ sẽ đem lời dạy của chúng tôi về đất nước họ trên khắp toàn cầu. Hội nghị này vượt ra khỏi ranh giới tâm sinh lý để đạt được nền hòa bình, hòa hợp, và cảm thông cho tất cả con người và sinh vật sống trên thế giới và cho cả chính bản thân của hành tinh này.

Đôi mắt anh lấp lánh.

Nó có hiệu quả! Chúng tôi có thể đo lường ảnh hưởng tích cực trên khí hậu trái đất. Đây là lần đầu trong nhiều thế kỷ mà trái đất đang hưởng thụ khí hậu mát mẻ. Mùa hè và mùa đông đã bớt khắc nghiệt hơn. Tỷ lệ bệnh ung thư đã giảm hẳn.

Trong một lần trở về quá khứ David đã nói bóng gió về khả năng tư tưởng ảnh hưởng lên hiện tượng thiên nhiên. Lần này đến tương lai, anh đã thông suốt khái niệm đó và xem việc giảng dạy là công việc trong cuộc đời mình. Anh thổ lộ với một giọng nói đầy kính sợ:

Tôi đã học được cách dạy người khác phương pháp cầu khẩn những sinh linh có tầm nhận thức cao hơn, bằng cách giao tiếp với một trái tim trong sáng và từ ái, bằng cách tìm kiếm điều tốt đẹp cao hơn trong tâm linh, chúng tôi có thể năn nỉ họ trợ giúp. Họ đã sẵn lòng giúp đỡ. Thế giới bây giờ là một nơi tốt đẹp hơn rất nhiều so với một trăm năm trước.

Hình ảnh tuyệt vời mà David mang về làm tôi suy ngẫm. Cho dù kết quả trong công việc của Ephraim sẽ được nhận ra, một tương lai thật sự trên trái đất vẫn chưa rõ ràng. Có nhiều tương lai mở ra cho chúng ta, vài nơi bạo động, vài nơi hòa bình, và cũng có nhiều con đường đi đến đó. Chắc chắn nhiều yếu tố khác vượt ngoài hội nghị và những lời dạy của anh sẽ xác định tương lai nào sẽ trở thành hiện thực. Tuy nhiên, cảm giác của riêng tôi thì cho rằng những bậc thầy sẽ đóng vai trò quyết định, và chúng ta sẽ khôn ngoan lắng nghe họ như David. Tôi đã học hỏi được qua nhiều cuộc hành trình đi đến tương lai sẽ cách đây hàng thế kỷ, dân số trên thế giới sẽ giảm sút đáng kể. Làm sao điều này bị ảnh hưởng, bất kể là do chiến tranh, bệnh tật, độc tố, những mưu mô sai lầm, sự thay đổi trục trái đất, giảm tỷ lệ sinh đẻ, lựa chọn có ý thức, hoặc trong nhiều cách chưa được biết, vẫn còn chưa xác định. Tôi không biết nhiệm vụ của Ephraim cuối cùng rồi sẽ thành công hay không. Liệu sự thúc đẩy bạo lực, tư lợi, tham lam, và thù hận có quá nhiều quyền năng hơn không.

Bây giờ David đang quan sát cuộc sống của Ephraim từ một viễn cảnh cao hơn, xa rời hơn. Dường như anh biết tôi đang nghĩ gì.

Dân số sắp tới sẽ giảm sút do những sự kiện đau buồn theo cách tác động bất ngờ, hoặc có thể tự nhiên nó sẽ từ từ và nhẹ nhàng hơn, đều được quyết định bởi tư tưởng và hành động của con người. Tất cả chúng ta tự chọn cuộc sống sắp đến. Tôi có sự lựa chọn tốt và hữu ích, người khác cũng lựa chọn đúng đắn. Nhưng tôi băn khoăn liệu có

đủ người trong chúng ta đều có sự lựa chọn tốt.

Tôi ao ước giá mà tôi có thời gian cùng với David khám phá nhiều vấn đề xa hơn, nhưng anh phải về nhà vì vợ anh mang thai và vì công việc kinh doanh. Tôi dặn anh giữ liên lạc với tôi, và cho tôi biết ba lần điều trị có hiệu quả như thế nào. Tuy nhiên tôi lo ngại anh sẽ bị cám dỗ lại bởi môi trường sống đầy đủ sung túc.

Điều đó không xảy ra. Kiến thức về những kiếp sống quá khứ và tương lai đã giúp anh xác định vai trò của mình trong hiện tại. Anh rời công việc ở công ty của cha mình và trở lại Harvard học về luật môi trường. Anh cảm thấy mình phải chống lại những tác động tai hại trong hành nghề kinh doanh – nhiều loại mà công ty cũ của anh đã bênh vực – để anh có thể sửa đổi tương lai tốt đẹp hơn. Anh đặc biệt quan tâm đến vấn đề cảnh báo toàn cầu, sự tích lũy bất cẩn độc tố trường thọ do quá trình sản xuất công nghệ. Hậu quả của sự thiếu hiểu biết về vấn đề tuyệt chủng toàn bộ động vật và thực vật là rất đáng lo ngại. Vì vắng mặt chúng, sự cân bằng thiên nhiên sẽ bị ảnh hưởng. Cuối cùng thì David cũng trải nghiệm về ý nghĩa và mục đích trong cuộc đời; anh đã bình phục. Anh đã hết rối trí, và anh đã được sắp đặt với số phận của mình.

Như câu chuyện của David đã đưa ra, tâm linh không chiếm ngự đơn độc trong tâm trí, đúng hơn là, toàn bộ trong một con người, trong những chủ đích và hành động của một cuộc đời sống tốt đẹp. Bạn không thể chỉ nghĩ rằng “Kể từ giờ trở đi tôi sẽ có tâm linh”. Bạn phải cảm thấy nó như kết quả của hành động. Chúng ta sống trong một cộng đồng của linh hồn, và chúng ta phải biểu hiện những việc làm tốt đẹp trong cộng đồng đó. Cuộc sống xem xét nội tâm tự nó vẫn không đủ. Khi chúng ta bắt kịp những linh hồn trợ giúp theo con đường tâm linh của họ, chúng ta đạt đến một mức độ cao hơn của sự tiến hóa. Những kiếp quá khứ và tương lai của David chứng minh lòng tận tụy vị tha này đối với việc phụng sự yêu thương giữa những người bạn của anh. Anh càng cho đi nhiều thì anh càng nhận được nhiều. Như cuộc sống của anh, đời sống hướng đến tâm linh sẽ mang chúng ta lại gần với với bản chất thánh thiện của chính chúng ta.