Ngày Mai (Demain)

Chương 25: Trong thung lũng của các linh hồn

Nghịch cảnh, như một cơn gió dữ, ngăn chúng ta tới nơi

chúng ta muốn đến, tước đoạt của chúng ta và để mặc

chúng ta đối diện với con người thật của chúng ta, chứ

không phải con người mà chúng ta hằng nghĩ

Arthunr GOLDEN

24 tháng Mười hai 2010

Jamaica Plain (ngoại ô Boston)

20 giờ 59

Phòng bệnh ngập trong thứ ánh sáng trắng. Trong lúc chờ ghép tim, Nick Fitch chìm trong hôn mê. Kể từ giờ, mạng sống của vị doanh nhân chỉ còn phụ thuộc vào máy thở nhân tạo cắm điện bên cạnh giường. Kate nheo mắt, kiểm tra mớ dây truyền, các hằng số và tiến triển ổn định của điện tim đồ. Rồi cô nghiêng người đặt một nụ hôn phớt lên môi người tình.

Hẹn anh lát nữa nhé. Anh đừng lo. Em sẽ phụ trách từ đầu chí cuối.

Cô nhắm mắt lại để lấy thêm năng lượng, rồi hít vào thật sâu, cởi chiếc áo blu trắng và rời khỏi phòng.

Nhất định không được nao núng. Làm theo đúng kế hoạch.

Cô đi thang máy xuống tầng trệt, chào các đồng nghiệp hiếm hoi gặp trong hành lang dẫn tới khoa Cấp cứu.

Đừng phí phạm thời gian nữa.

Đúng như cô trông đợi, bệnh viện đang yên tĩnh. Ngoại trừ những vết thương do dao chuyên dùng để ăn hàu gây ra, buổi tối Giáng sinh luôn kém náo nhiệt hơn tối giao thừa 31 tháng Mười hai. Ngay đến phòng nghỉ, dù được trang hoàng cẩn thận, vẫn có vẻ hơi uể oải.

Kate lấy từ trong ngăn tủ ra áo măng tô, túi xách và điện thoại di động. Cuộc gọi đầu tiên dành cho chồng cô. Cô vừa tiếp tục bước đi vừa nói chuyện với anh, ngược hành lang dài trong mờ dẫn tới bãi đỗ xe, sắm trọn vai người vợ kiểu mẫu, hoàn toàn đón trước được từng phản ứng của Matt.

- Chào anh yêu. Em đang rời khỏi bệnh viện đây, nhưng xe của em vẫn chết gí trong bãi đỗ xe! cô nói dối. Anh vẫn có lý như thường lệ: đúng là em nên đổi chiếc xe cà khổ này thôi.

- Anh đã bảo em cả nghìn lần rồi… Matthew nhận xét.

- Nhưng em gắn bó với chiếc Mazda hai cửa cũ kỹ này lắm! Anh cũng biết đây là chiếc xe đầu tiên em có thể tậu cho mình từ thời sinh viên còn gì!

- Cưng à, hồi đó là thập niên 1990, mà lúc em mua nó đã là xe qua sử dụng rồi mà…

- Em sẽ thử bắt tàu điện ngầm.

- Em đùa hay sao? Giờ này ở khu đó nguy hiểm lắm. Để anh đi mô tô tới đón em.

- Không, trời đang lạnh lắm, vừa mưa vừa tuyết nữa chứ, đi mô tô không an toàn đâu Matt!

Cô thừa biết anh sẽ cố nài. Cô để mặc anh đóng vai người đàn ông luôn dang rộng cánh tay chở che trước khi “nhượng bộ” anh.

- Đồng ý, nhưng anh phải cẩn thận đấy nhé! Em chờ anh, cô nói trong lúc bước qua cánh cửa đóng mở tự động.

Cô tắt máy rồi bước ra bãi đổ xe.

Cái lạnh châm chích trên mặt, nhưng cô không cảm thấy lạnh.

***

21 giờ 03

Sameer Naraheyem xoay chìa khóa điện chiếc xe tải-bồn rồi rời khỏi nhà máy bột All Wheat nằm ở phía Tây khu công nghiệp Jamaica Plain.

Ông đang thực hiện chuyến giao hàng cuối cùng trước khi về nhà gặp vợ, Sajani. Ngày làm việc thật dài và chật vật. Thường thì Sameer không phải làm việc vào buổi tối Giáng sinh, nhưng ông chủ đã bất ngờ gọi điện cho ông vào đầu buổi sáng để yêu cầu ông thay chân một tài xế vắng mặt. Mặc dù ông cùng vợ đã dự định dành cả ngày để tụ họp gia đình, Sameer vẫn không dám từ chối “lời đề nghị” của ông chủ. Với cơn khủng hoảng kinh tế và chuyện bầu bí của Sajani, giờ không phải lúc mạo hiểm đánh mất việc làm.

Mặc dù vậy, đây đúng là chuyện cực chẳng đã…

Ông nhìn đồng hồ trên bảng điều khiển.

Mình không nên kề cà nữa!

Ông phải giao chuyến hàng bột này tới một nhà máy tại Quincy, phía Nam Boston, trước 22 giờ.

Sameer gạt nhẹ cần tăng tốc, chớm chạm mức tốc độ giới hạn.

Ông không hình dung nổi rằng, chỉ vài phút nữa thôi, ông sẽ lái chiếc xe tải này cán chết một người…

***

21 giờ 05

Kate tiến bước giữa các ô của bãi đỗ xe ngoài trời để tới chỗ xe mình. Khi tới trước chỗ đỗ số 66, cô sững sờ khi thấy nó trống không. Chiếc xe hai chỗ của cô đã bị đánh cắp!

Không thể thế được!

Cô đã đỗ chiếc xe ở chỗ quen thuộc khi đến bệnh viện vào đầu giờ chiều, cô chắc chắn điều đó!

Cô cảm thấy cơn giận xâm chiếm và ngập ngừng không biết làm gì tiếp theo. Cô phải gọi cho lão sát thủ để hạ lệnh cho lão trước khi Matt rời khỏi nhà. Nhưng kế hoạch của cô cũng chỉ thành công nếu cô là người đầu tiên có mặt tại hiện trường vụ “tai nạn”.

Cô muốn bằng mọi giá giám sát thời điểm bên cấp cứu xuất hiện và khéo léo tận dụng việc bên đó thiếu nhân lực vào dịp Giáng sinh. Đầu tiên, cô tính sẽ đóng vai trò kép, vừa là bác sĩ vừa là vợ của nạn nhân. Cô sẽ đòi giữ xác Matthew “dưới sự trông nom” đến tận bệnh viện, khẩn trương thực hiện chụp X quang mạch hẳn sẽ chứng nhận tình trạng chết não của anh, chính cô sẽ lo toan để tim anh được duy trì nhân tạo ở trạng thái hoạt động, rồi sẽ nhanh chóng giải quyết những vấn đề về đồng ý hiến tạng. Sáng hôm đó, cô đã quên kiểm tra xem trong ví của chồng có tấm thẻ hiến tạng mà cô đã thuyết phục anh lấy từ ba năm trước hay không. Cô biết rằng đội ngũ nhân viên y tế sẽ hỏi chính cô và yêu cầu cô đưa ra một quyết định: chồng cô duy trì mối quan hệ xa cách với bố mẹ đang sống tại Florida và không có họ hàng thân thuộc nào khác tại Boston.

Kế hoạch của cô sẽ thành công với điều kiện mọi sự diễn ra cực nhanh. Một khi nguyên tắc trích mẫu bệnh phẩm được ghi, phòng thí nghiệm sẽ tiến hành một bản tổng kết huyết thanh học và lập tình trạng các cơ quan nội tạng nhờ phim chụp. Chừng ấy cuộc kiểm tra sẽ hướng họ về phía những người nhận tiềm năng và tương thích. Nick sẽ xuất hiện trên danh sách ưu tiên, “danh sách đỏ” và sẽ được xác định ngay lập tức. Từ hai tháng nay, cô vẫn theo dõi bảng phân công ê kíp trực, và vì không thể tự mình phẫu thuật cho Nick, cô đã đảm bảo bác sĩ phẫu thuật tim trực đêm nay là một trong những người tay nghề xuất sắc nhất bệnh viện.

Từ không biết bao lâu nay, cô đã lên kế hoạch mọi thứ.

Trừ có điều chiếc xe của cô đã bị đánh cắp khỏi cái bãi đỗ xe khốn kiếp này…

Đừng có mất bình tĩnh.

Kate chưa tính tới khó khăn này, nhưng cô phải giữ bình tĩnh. Như trong lúc chơi cờ vậy. Cô nhớ lại câu nói của Tartacover, một bậc thầy chơi cờ. Chiến thuật nằm ở chỗ biết điều cần làm khi có việc gì đó cần làm. Chiến lược nằm ở chỗ biết điều cần làm khi không có việc gì để làm.

Cô chạy tới chòi gác của nhân viên bảo vệ phụ trách trông giữ bãi đỗ xe rồi thông báo xe mình bị mất trộm.

- Không thể thế được, cô à. Tôi nhận ca từ giờ trưa. Tôi thuộc làu chiếc xe hai chỗ của cô ấy chứ, và tôi có thể đảm bảo rằng nó chưa ra khỏi khuôn viên bệnh viện này.

- Thế nhưng ông có thể thấy rõ là nó không còn đậu ở đó nữa!

- Vậy thì chỉ có thể là cô đã đỗ xe ở chỗ khác thôi! Chuyện đó ngày nào chẳng xảy ra. Tuần trước bác sĩ Stern cũng nghĩ chiếc Porsche của mình bị trộm trong khi ông ấy đi làm bằng taxi!

- Nhưng rốt cuộc, tôi đâu có điên!

- Tôi không nói là cô điên, bác sĩ ạ. Để tôi thử nhìn qua các tầng hầm xem sao, ông ra vừa khẳng định vừa chỉ các màn hình máy quay giám sát.

Thế đấy…

Kate vừa quay bước thì nhân viên bảo vệ gọi giật cô lại.

- Xe của cô ở đây này. Tầng hầm thứ 3, ô 125! ông ta vừa thông báo vừa chỉ màn hình, gương mặt rạng ngời nụ cười chiến thắng, vẻ như muốn nói: Cái đám bác sĩ này, dở hơi cả lũ…

Kate bỏ qua thang máy rồi lao vào cầu thang bộ dẫn xuống bãi đỗ xe ngầm.

Tay bảo vệ ngu ngốc kia nói đúng. Chiếc Mazda hai chỗ đỗ ở tầng hầm sâu nhất. Làm sao có chuyện này được? Cô có một chỗ đậu riêng ở bãi đỗ ngoài trời. Cô chưa từng đậu xe ở đây. Ai đó đã di chuyển xe của cô, đó là điều chắc chắn. Nhưng nhằm mục đích gì? Điều này có liên quan đến chùm chìa khóa cô đánh mất hồi đầu tuần không? Hàng loạt câu hỏi chen chúc trong đầu cô, nhưng cô chọn cách lờ chúng đi.

Cô nhìn điện thoại: “hệ thống chưa sẵn sàng”. Cũng bình thường thôi, cô đang ở tầng hầm mà.

Cô mở cửa xe, mở chìa khóa điện rồi rời khỏi bãi đỗ ngầm. Lên tới mặt đất rồi, cô phóng tới lối ra. Trước khi lái ra đường, cô gọi một cuộc ngắn cho Oleg Tarassov để bật đèn xanh cho lão ta hành động.

Khi ra đến đường, cô nhìn thấy trong gương chiếu hậu một chiếc xe tải bồn đang rẽ nơi góc đại lộ, ngược chiều với xe cô.

***

Khu công nghiệp cũ thuộc Windham

21 giờ 08

Phòng đông lạnh chìm trong bóng tối.

Romuald phung phí thêm một que diêm nữa lấy từ hộp diêm cậu đã lấy cắp được của tay sát thủ khi lão ra đòn với cậu. Cậu ngây thơ nghĩ rằng thứ này có thể giúp ích cho mình, nhưng trong căn phòng kho đông lạnh này chẳng có gì thể đốt. Những kệ gỗ ván xếp trong kho quá ẩm ướt nên không thể bắt lửa.

Que diêm cháy lên, tạo thành một luồng sáng yếu ớt chỉ lấp lóa được vài giây.

Rồi căn phòng lại chìm trong bóng tối dày đặc.

Cái lạnh chí tử bao quanh cậu nhóc, chụp lấy cổ họng cậu, khiến khuôn mặt cậu đông cứng, khiến mũi và tai cậu tê liệt. Một luồng khí lạnh băng quất vào hai tay cậu, luồn lách khắp cơ thể cậu rồi thấm vào tận xương tủy. Một kẻ thù vô hình mà cậu không thể chiến đấu chống lại.

Sau khi thoạt tiên đã tăng nhanh, nhịp tim của cậu lúc này lại chậm đi. Những đợt run và nỗi sợ kèm với một cơn mệt khủng khiếp. Cậu cảm thấy sức lực dần dần rời bỏ mình. Cậu kiệt sức. Để khỏi rơi vào trạng thái ngủ lịm, cậu tự đặt ra cho mình mục tiêu, cứ chừng mười phút lại đánh một que diêm và cậu bấu víu vào nghi lễ này. Hai bàn chân và cẳng chân cậu cứng đờ, như bị chuột rút. Trong giờ Sinh, cậu đã học được rằng, để khắc phục hiện tượng giảm nhiệt, máu thường rời các đầu mút cơ thể để bảo toàn hai bộ phận quan trọng nhất là tim và não.

Tâm trí cậu đã rối tinh, gần như mất nhận thức. Có lẽ cậu không thể mở miệng ra hay thốt nên lời nữa, rồi suy nghĩ cũng chậm lại. Phế quản tắc nghẹn nhưng thậm chí cậu không còn sức mà ho nữa. Chỉ còn chút ít sức lực để tiếp tục thở.

Trong mọi cơn ác mộng chưa khi nào cậu lại nghĩ cái lạnh có thể dữ dội đến thế. Và lão diễn viên đóng thế đã nhìn nhận đúng: điều khủng khiếp nhất chính là ý thức được rằng sẽ chẳng ai đến cứu mày hết. Biết rằng mày sẽ chết một mình, trong bóng tối, bị một nỗi đau kinh hoàng cuốn theo.

***

Boston, Beacon Hill

21 giờ 09

Chưa đầy một phút sau khi tắt máy, Oleg Tarassov nhìn thấy Matthew Shapiro đang xuống bậc thềm. Lão người Nga đội mũ bảo hiểm và xỏ găng, mắt không rời khỏi thầy giáo trẻ. Lão quan sát anh ngồi lên mô tô và con mắt nhà nghề của lão nhận ra ngay mẫu xe: một chiếc Triumph Tiger Club sản xuất cuối những năm 1950, được đại tu tài tình với đèn pha tròn, yên thấp và những bộ phận bằng thép crôm sáng loáng.

Lão để cho Shapiro xuất phát trước một lúc, rồi vít ga chiếc Harley bám theo.

***

21 giờ 11

Vội đi đón vợ, Matthew điều khiển chiếc xe chạy xuyên qua thành phố. Một khu phố anh đã thuộc làu như lòng bàn tay, một hành trình anh đã đi hàng trăm lần. Phố Charles, phố Beacon, phố Arlington… Bất chấp làn mưa lất phất lẫn với tuyết, chiếc xe mô tô cổ của anh vẫn bám đường. Đến Columbus, con đường rộng thênh thang nối trung tâm South End, Roxbury và phía Đông Jamaica Plain, anh còn tăng tốc hơn nữa. Ánh đèn trang trí chồng lên ánh đèn bạc công sở và các cửa hàng cửa hiệu. Những thiên thần ánh bạc treo trên các cột đèn đường, những tràng sao lấp lánh rực rỡ và những hình dạ quang kỳ lạ quấn quanh những thân cây tạo nên một bầu không khí vị lai.

Khi tới gần các khu phố ngoại vi, đèn đuốc xuất hiện mỗi lúc một thưa đi. Matthew cảm thấy chiếc mô tô của mình đảo bánh trong lúc phóng vụt qua ngã đường hồi chuyển nằm trên đầu ga Jackson Square. Anh dễ dàng điều chỉnh nó, rồi anh vòng qua ga để tiến vào “sườn treo”, đoạn đường dốc đổ bê tông nối phố Rope với đại lộ Conoly, con phố có bệnh viện của Kate. Về mặt lý thuyết, đoạn đường tắt này cấm mô tô, nhưng anh chưa bao giờ nhìn thấy cảnh sát nào lập biên bản tại nơi này. Tuy thế, anh vẫn chạy xe cẩn thận vì mặt đường chênh vênh. Ngay trước khi tiến vào khúc cua gấp, anh nhìn thấy trong gương chiếu hậu một người điều khiển mô tô khác đang đi hơi quá gần mình, vắt vẻo trên một chiếc Harley to đùng đã độ.

Ánh đèn pha khiến anh lóa mắt.

Chẳng muốn đua làm gì, anh nghĩ bụng rồi giảm tốc độ và đi sát vào bên phải để nhường đường. Chiếc mô tô kia chuyển làn vượt lên, nhưng vào phút cuối lại tạt mạnh vào. Bánh trước của chiếc Harley va mạnh vào bánh sau của chiếc Triumph và khiến nó mất thăng bằng. Bất ngờ với cú sốc, Matthew mất lái.

Trong phản xạ cuối cùng, anh ngoặt tay lái rồi khóa bánh sau để chiếc mô tô nằm nghiêng ra, trượt trên mặt đường ướt sũng rồi tới nằm gọn dưới thanh chắn ngang bằng kim loại. Bị hất khỏi chiếc Triumph, Matthew lăn trên mặt đất. Chiếc mũ bảo hiểm của anh đập xuống mặt đường và một trong hai cẳng chân của anh va theo chiều ngang vào cây cọc chống thanh chắn ngang trước khi nằm bất động. Mất chừng mười giây anh mới hiểu được bản thân đang gặp phải chuyện gì. Vẫn nằm trên mặt đường, anh tìm cách đứng dậy, nhưng đã thét lên vì đau. Hẳn là chân phải của anh đã gãy. Anh vịn vào thanh chắn ngang, cởi bỏ mũ bảo hiểm, Nhấc mũ ra khỏi đầu rồi, Matthew nhìn thấy người điều khiển chiếc Chopper đang lao đến chỗ mình, cầm theo một chiếc gậy bóng chày.

Gã đàn ông ấy đã vung gậy lên, chuẩn bị đập vỡ sọ anh…

***

Hai ngòi của một khẩu súng điện Taser chích vào sau gáy của lão người Nga, phát ra một luồng điện khiến lão đờ ra. Lão đổ gục xuống như bị sét đánh.

Mặc quần áo đen, áo khoác da, Emma tranh thủ lúc tay đâm thuê chém mướn tê liệt để tước vũ khí của hắn.

- Anh có sao không? cô hỏi trong lúc chạy vội về phía Matthew.

Anh nhìn người phụ nữ đội mũ trùm sẫm màu vừa đột ngột xuất hiện và cứu mạng anh.

- Nhưng… đang xảy ra chuyện gì vậy?

- Chính là vợ anh! Emma hét lên. Cô ta tìm cách giết anh đấy!

- Gì kia? Cô nói mê sảng gì thế! Cô là ai?

Emma không kịp trả lời.

Hai luồng đèn pha tròn trĩnh và sáng rực xuyên thủng màn đêm. Chiếc Mazda hai chỗ của Kate đỗ lại cạnh chiếc Harley Davidson. Nữ bác sĩ ngoại khoa ra khỏi xe rồi lạnh lùng quan sát và đánh giá tình hình.

Chẳng điều gì diễn ra như dự kiến.

- Em yêu! Matthew gọi.

Kate thậm chí còn không nhìn anh. Cô chỉ tự hỏi người phụ nữ trông như Miêu Nữ vừa phá hỏng kế hoạch của mình là ai.

Giải quyết lần lượt từng vấn đề một.

Cô cúi nhìn Tarassov và nhận ra hai vệt chích của súng điện Taser cắm trên gáy lão. Hệ thống thần kinh tê liệt, lão sát thủ nằm sóng soài trên mặt đường, khó khăn lắm mới tỉnh lại được. Lục túi trong áo khoác của Oleg, cô thấy thứ mình tìm kiếm: một khẩu Glock 17 chất liệu polymer đã nạp đạn. Kate lên cò khẩu súng tự động rồi nhắm thẳng hướng Emma mà bắn, để buộc cô phải bỏ chạy. Tay chĩa thẳng, vuông góc với cơ thể, những ngón tay quặp trên cò súng, Kate tiến về phía chồng.

Mình vẫn có thể cứu Nick. Một viên đạn vào đầu Matthew sẽ giết chết anh ta, nhưng sẽ bảo toàn được quả tim.

- Kate, em làm gì vậy, em yêu? Em đang…

- Im đi! Cô hét lên. Đừng gọi tôi là em yêu! Anh không quen tôi. Anh không biết gì về tôi cả. KHÔNG GÌ HẾT!

Mình sẽ ngồi tù chung thân, nhưng Nick sẽ sống…

Gương mặt của bác sĩ ngoại khoa xinh đẹp đã biến đổi. Nó đã mất đi nét quyến rũ và vẻ đẹp để chỉ còn là một chiếc mặt nạ sứ, trắng xóa và lạnh lẽo. Chỉ có đôi mắt là rực lửa, bùng cháy một ngọn lửa căm giận. Như một người máy, cô ta tiếp tục tiến về phía chồng.

- Tôi muốn giải thích với anh, Matt ạ, nhưng anh sẽ không thể hiểu được đâu.

Emma co mình trên vệ đường đối diện. Nheo mắt lại, cô nhìn thấy lão diễn viên đóng thế đang cố gắng đứng dậy mà không thể. Chính vào lúc đó cô nhận ra bao đựng súng có khuy bấm đeo ở mắt cá chân Tarassov. Đầu cô lóe lên một ý tưởng. Cô bò lại chỗ lão rồi giật lấy khẩu Smith & Wesson 36 từ bao đựng. Cô nắm tay quanh báng súng rồi dang thẳng cánh tay để nhằm vào Kate.

Không còn thời gian để tự vấn.

Nòng khẩu Glock do Kate cầm trong tay đang chĩa thẳng vào đầu chồng cô ta, Emma thì chĩa súng về phía cô bác sĩ ngoại khoa. Hai người phụ nữ đều đang sẵn sàng nổ súng.

Emma cầu nguyện để không run tay.

Cô là người đầu tiên nhấn cò.

***

Lĩnh đạn vào ngực, Kate ngã ngửa về phía sau. Cơ thể cô ta lăn qua thanh chắn ngang rồi rơi xuống sườn treo dốc đứng.

***

Một khoảng lặng dài, gần như vô thực, tiếp sau tiếng súng.

Bị hất văng xuống mặt đường bởi sức giật của phát súng, Emma nằm đó run rẩy, choáng váng, không nói nên lời mất một lúc.

Oleg Tarassov đã khó nhọc đứng dậy được và hiểu rằng mình nên rời khỏi đây. Vẫn để đầu trần, lão ngồi lên chiếc Harley, vít ga rồi tháo chạy theo hướng ngược lại khi tới.

Được khoảng năm chục mét, tại ngã rẽ, chiếc xe tải chở bột do Sameer Narahayem lái đã tông trực diện vào lão.

***

Emma đã hoàn hồn. Cô nhìn thấy Matthew, cách đó vài mét, bơ phờ, choáng nặng. Nhưng vẫn sống.

Romuald!

Cô chạy tới tận phần còn lại của chiếc mô tô rồi giật thiết bị GPS được cố định bằng một mảng khóa dán lồng thêm một giác mút to. Rồi cô quay bước và leo lên xe của Kate.

***

Ngồi bên trong khoang lái, cô cởi mũ trùm ra rồi tra cứu hệ thống định vị. Đúng như cô hy vọng, thiết bị vẫn lưu trữ trong bộ nhớ những hành trình gần nhất mà tay sát thủ đã thực hiện. Cô khởi động thiết bị rồi rời khỏi “sườn treo” trong tiếng lốp miết xuống mặt đường.

Boston vắng tanh. Cô tới phía Bắc đường quốc lộ 93 rồi chạy trên xa lộ bất chấp mọi quy định an toàn và cẩn trọng. Cô mặc kệ các biển giới hạn tốc độ, những tổ tuần tra, mặc kệ hiểm nguy. Chẳng điều gì quan trọng nữa, ngoài trừ Romuald.

Miễn sao cậu ấy không gặp phải chuyện gì…

Cô tiếp tục lái không hề đạp phanh suốt nửa giờ nữa rồi rời khỏi xa lộ ở đoạn Windham, vùng giáp ranh giữa Massachusetts và New Hampshire. Cô để thiết bị GPS dẫn đường, đi theo những tuyến đường gom cho tới khi gặp phải hàng rào của một khu công nghiệp cũ.

Bây giờ tính sao đây?

Emma nhìn màn hình chỉ dẫn: vạch mốc cho thấy điểm đến không còn xa, nhưng không thể lái ô tô mà tiếp cận được. Cô để đèn pha bật sáng rồi xuống xe. Phần này của con đường đã hoàn toàn chìm trong bóng tối. Cô không nhìn thấy gì nhiều, ngoại trừ một hàng rào cao ngất sừng sững trước mặt. Cô quyết định tay không leo qua hàng rào dây thép gai. Khi sang đến bên kia hàng rào mắt cáo, một đầu dây thép, sắc nhọn như một lưỡi dao, đã rạch một vết dài ít nhất năm xăng ti mét trên cẳng tay cô.

Cơn đau khiến cô lảo đảo. Cô cảm thấy máu chảy bên dưới áo len và áo khoác, nhưng không buồn ái ngại cho bản thân. Cô buông tay rồi ngã lăn xuống đất. Rồi cô đứng dậy, chạy để leo lên đỉnh một sườn dốc nơi cô có thể nhìn rõ thành phố ma. Những nhà máy cũ và những cái kho cải dụng trải dài đến hút tầm mắt. Nơi này thật siêu thực. Một cảnh trí phim kinh dị thực sự. Một vài toa tàu han gỉ nằm dọc đoạn đường sắt cũ. Gió gào rít khiến những bộ khung kim loại kêu kèn kẹt. Đằng sau mỗi căn lán là những cái bóng méo mó chực lao vụt ra. Một thung lũng của những bóng ma hẳn phải trải rộng trên năm hoặc sáu héc ta.

Làm thế nào tìm thấy được Romuald trong mê cung tôn và sắt vụn này?

- Romuald! Romuald! cô gọi không ngừng, nhưng gió và tuyết mang tiếng thét gọi của cô vào hư không.

Cô đưa mắt tìm một dấu hiệu hoặc một chi tiết có thể giúp cô định hướng, nhưng tầm nhìn chỉ được chừng ba mét.

Gạt những bông tuyết vương trên mặt, dùng điện thoại di động để soi đường như đèn pin, cô chạy đến hụt hơi, đối diện với gió, ngược về phía Đông Bắc của khu công nghiệp. Chắc chắn Tarassov đã tìm nơi xa nhất so với đường cái để đậu tạm ô tô. Bỗng nhiên, một âm thanh khiến cô dừng bước. Cô vừa bước trên sỏi. Cô nín thở soi sáng mặt đất.

Một lối đi dẫn tới một nhà kho lớn.

Cô tiến vài bước tới soi sáng một tấm biển đã gỉ hoen:

KHU LỒ MỔ

HẠT HILLSBOROUGH

Cô tiếp tục chạy tới tòa nhà chính. Đến đây, cô nhận ra vết lốp xe vừa mới bị tuyết phủ lên. Tim cô nhảy thót lên trong lồng ngực. Nơi này vừa có người lai vãng.

Cô dồn hết sực lực đẩy cánh cửa trượt cao ngất dẫn vào tòa nhà rồi khép nó lại đằng sau để gió khỏi lùa.

- Romuald!

Nơi này chìm trong bóng tối, nhưng có tiếng của hệ thống sưởi hoặc điều hòa không khí đang kêu vù vù.

Emma gạt cầu dao và một thứ ánh sáng nhợt nhạt tỏa lan, làm hiện lên một nhà kho gần như trống rỗng với bốn bề tường bằng bê tông thô.

Giữa nhà kho, cô nhận ra chiếc xe tải màu đỏ đun của lão diễn viên đóng thế.

Cô lại gần chiếc xe tải rồi nhìn vào trong.

Không có ai.

Cô tiếc vì không đem theo bên mình khẩu súng nhỏ của lão diễn viên đóng thế.

- Romuald?

Cuối căn phòng chính, một hành lang hình khuỷu tay dẫn tới một dãy các cửa sắt cũ kỹ. Cánh cửa đầu tiên dẫn vào một phòng trống. Những cánh cửa khác đều chốt kỹ. Cô nhắm mắt, nhưng thái độ chán nản ấy kéo dài chưa đến một giây.

Khi bỏ đi, tên sát thủ đã cẩn thận tắt mọi thứ. Chỉ trừ có…

Luồng hơi của máy phát!

Cô quay bước để cố gắng xác định nguồn âm thanh. Tiếng vù vù phát ra từ một phòng lạnh. Cô gõ vào bức vách kim loại.

- Romuald?

Không, không thể được. Không phải trong đó…

- Romuald? Là tôi, Emma đây, cậu nghe tôi nói chứ?

Cô thử mở cửa nhưng không được. Khi cúi xuống, cô nhận ra một bộ phận bằng thép được rập dạng bánh lái. Cô xoay nó hết cỡ và cánh cửa phòng đông lạnh bật mở.

Cô ùa vào bên trong, đối mặt với luồng khí lạnh cóng.

- Romuald!

Nhờ ánh sáng hắt ra từ điện thoại, cô nhìn thấy phần mũ viền lông chiếc áo phao của cậu nhóc giữa bóng tối mịt mùng.

Cô chạy vội về phía cậu. Cậu đang nằm bất động. Cô gom chút sức lực còn lại để kéo cậu ra khỏi căn phòng đông lạnh chết người và đưa cậu trở lại với không khí thoáng đãng. Cô bật điện thoại loa ngoài, gọi 911 và yêu cầu xe cấp cứu khẩn trương tới đón một người bệnh bị giảm nhiệt.

Trong lúc chờ cấp cứu, cô tìm một hơi thở từ cậu nhóc mà không thấy, cô muốn tìm mạch của cậu ta mà căng thẳng quá nên cũng không tìm ra. Da Romuald tái nhợt, phơn phớt xanh, trông như đã chết.

Khốn kiếp!

Cô không có lấy một tấm chăn để ủ ấm cho cậu. Bấy giờ những động tác hồi sức cấp cứu cô học được cách đó vài tháng, trong một kỳ thực tập mà mọi nhân viên của nhà hàng Thống Soái đều phải dự, trở lại trong tâm trí cô. Một kỳ thực tập mà vào thời điểm nó diễn ra, cô từng thấy thật ngớ ngẩn và vô dụng, vì không giây phút nào hình dung được rằng một ngày nào đó nó sẽ trở nên hữu ích. Thật may, những thao tác cô đã thực hành trên một hình nộm lúc này đã trở lại sống động trong tâm trí cô. Cô đặt cậu nhóc nằm thẳng, quỳ gối ngồi bên cạnh lồng ngực cậu nhóc, vén áo len của cậu lên rồi đặt lòng bàn tay phải lên phần xương ức dưới. Cô chồng thêm bàn tay kia lên đó. Hai cánh tay giơ thẳng, cô ấn xuống bằng toàn bộ trọng lượng của mình, ấn sâu hai bàn tay vào ngực Romuald, rồi, đứng dậy trước khi lặp lại chu trình ấn rồi thả để giúp máu trong cơ thể cậu nhóc lưu thông.

Và một và hai và ba! Một và hai và ba!

Cô đếm ba mươi lần ấn, rồi hà hơi thổi ngạt trực tiếp cho cậu nhóc hai lần.

Đừng chết nhé!

Cô điên cuồng lặp lại chu trình xoa bóp tim, cố gắng duy trì nhịp độ đều đặn

Và một và hai và ba…

Mỗi lần ấn xuống lồng ngực, cô mạo hiểm với nguy cơ làm gãy xương sườn cậu nhóc.

Và một và hai và ba…

Thời gian đã ngừng trôi. Emma đang ở một nơi chốn khác. Cô đang theo đuổi một trận chiến. Trận chiến nơi sự sống chống lại cái chết.

Đừng chết, Romuald! Đừng chết!

Một năm sau….

Replay

Nếu đúng là chúng ta chỉ có thể sống một phần của

tất cả những gì tồn tại trong chúng ta, vậy thì

điều gì sẽ xảy ra với phần còn lại?

Pascal MERCIER

Đại học Harvard

Cambridge

19 tháng Mười hai 2011

Giảng đường đang chật ních người nhưng yên ắng.

Những chiếc kim trên mặt khắc độ bằng đồng của chiếc đồng hồ treo tường cổ kính chỉ 14 giờ 55. Bài giảng môn Triết do Matthew Shapiro đứng lớp đang đi tới những phút cuối.

Tiếng chuông vang lên, sinh viên tản về. Matthew thu dọn đồ dùng, mặc áo khoác, quàng khăn rồi rời khỏi giảng đường. Ngay khi ra đến bên ngoài, Matthew liền cuộn một điếu thuốc rồi băng qua Yard.

Khuôn viên trường chìm trong thứ ánh sáng mùa thu mỹ lệ. Từ mười ngày nay, thời tiết đặc biệt ấm áp so với lệ thường và ánh nắng chan hòa tặng cho người dân New England một quãng thời gian cuối thu vừa muộn màng vừa dễ chịu.

- Thầy Shapiro! Cẩn thận!

Matthew ngoảnh về phía giọng nói vừa gọi mình và ngẩng lên nhìn theo linh cảm. Một quả bóng bầu dục đang rơi nhắm thẳng hướng anh.

Anh bắt được quả bóng vừa kịp lúc và ném trả cho thủ quân đang ra hiệu xin lại bóng.

Rồi anh rời khỏi khuôn viên trường đại học qua cánh cổng lớn dẫn ra quảng trường Harvard.

Anh vừa dợm bước trên lối dành cho người đi bộ để ra bến tàu điện ngầm thì một chiếc Chevrolet Camaro cũ kỹ với tiếng động cơ vang rền lao ra góc đường nơi đại lộ Massachusetts giao với phố Peabody. Thầy giáo trẻ giật mình và bước lùi lại phía sau để không bị chiếc xe hai cửa màu đỏ rực tông phải, nó dừng lại ngang tầm anh trong tiếng lốp nghiến sào sạo.

Cửa kính hạ xuống để lộ ra mái tóc màu hung của April Ferguson, người sống chung nhà với anh kể từ ngày vợ anh qua đời.

- Xin chào, anh chàng tóc nâu đẹp trai, em chở anh về nhé?

Tiếng vù vù của động cơ V8 lạc lõng trong không gian sinh thái chỉ hòa hợp với những tính năng của xe đạp và các loại phương tiện sử dụng năng lượng điện.

- Anh muốn về bằng phương tiện giao thông công cộng hơn, anh từ chối. Em lái xe cứ như đang chơi trò chơi điện tử ấy!

- Thôi nào, đừng có tỏ ra sợ sệt thế chứ. Em lái rất chuẩn và anh biết như thế mà!

- Đừng cố nào. Con gái anh đã mất mẹ. Anh muốn tránh cho con bé cái cảnh mồ côi cả bố lẫn mẹ vào lúc bốn tuổi rưỡi.

- Ôi, thôi nào! Anh đừng nói quá lên thế chứ! Đi nào, chàng nhát gan, khẩn trương lên! Em đang gây tắc nghẽn giao thông rồi đây này!

Bị những tiếng còi xe thúc giục, Matthew thở dài rồi nhẫn nhịn ngồi vào chiếc Chevrolet.

Anh vừa kịp gài dây an toàn thì chiếc Camaro đã bất chấp tất cả các quy định an toàn mà thực hiện một cú vòng xe nguy hiểm để phóng như bay về mạn Bắc.

- Boston ở hướng kia cơ mà! Anh vừa cự lại vừa bám vào cửa xe.

- Em chỉ vòng qua Belmont một lát thôi. Cách có mười phút chạy xe. Anh đừng lo cho Emily. Em đã nhờ cô trông trẻ ở lại thêm một tiếng nữa rồi.

- Mà thậm chí không nói qua cho anh biết ư? Anh báo trước, anh…

Cô gái mau chóng sang hai số rồi bất thần tăng tốc khiến Matthew phải ngừng lời. Một khi đã đạt vận tốc ổn định, cô nàng quay sang anh rồi đưa cho anh một kẹp tài liệu đựng cái bức vẽ.

- Anh cứ hình dung là có lẽ em đã tìm được khách hàng cho tranh in bằng bản khắc gỗ của Utamaro, cô nói.

Chiếc Chevrolet đã rời khu phố đại học. Nó đi theo đường tắt chạy dọc Fresh Pond – hồ lớn nhất của Cambridge – trên nhiều cây số trước khi tới Belmont, một khu đô thị ở phía Tây Boston. April nhập một địa chỉ vào thiết bị GPS rồi đi theo chỉ dẫn tới tận một khu phố sang trọng và ấm cúng: một ngôi trường cây cối bao quanh nằm kề một khu vui chơi ngoài trời, một công viên và các sân thể thao. Bất chấp biển báo cấm rõ rành, chiếc Camaro vượt xe buýt chở học sinh rồi đỗ trong một con phố yên tĩnh có nhà cửa hai bên.

- Anh đi cùng em chứ? Cô vừa hỏi vừa lấy lại tập tranh.

Matthew lắc đầu.

- Anh thích ngồi trong xe đợi em hơn.

- Em sẽ cố gắng xong việc thật nhanh, cô hứa trong lúc soi gương chiếu hậu để trang điểm lại.

- Em không sợ làm hơi quá đà sao? anh chọc cô.

- “Em đâu có xấu, em chỉ bị vẽ thành thế này thôi”, cô nũng nịu bắt chước giọng nói và lời đáp của Jessica Rabbit.

Rồi cô duỗi đôi chân dài miên man được quần legging ôm sát để ra khỏi xe.

Còn lại một mình, anh liếc sang phía bên kia con phố. Một bà mẹ cùng hai đứa con đang trang trí vườn nhà nhân dịp lễ. Anh chợt nhận ra rằng chưa đầy một tuần nữa là tới Giáng sinh và ghi nhận này nhấn chìm anh trong một cảm giác lẫn lộn giữa buồn phiền và hoảng loạn. Anh hãi hùng nhìn thấy hiện ra trước mắt ngày giỗ đầu của Kate: cái ngày 24 tháng Chạp năm 2010 bi thảm ấy đã khiến cuộc sống của anh lộn nhào xuống vực thẳm đớn đau và rã rời.

Kể từ khi bị vợ ám sát hụt, cuộc đời anh chỉ còn là một cơn ác mộng. Phản ứng thế nào đây khi biết rằng người phụ nữ đã chung sống cùng ta suốt bốn năm trời, mẹ của con gái ta, lại chỉ kết hôn cùng ta nhằm mục đích sát hại ta? Sát hại ta với mục đích duy nhất là lấy đi quả tim của ta để ghép sang cho người tình của ả nhằm cứu sống hắn. Làm thế nào có thể sống tiếp? Làm thế nào tiếp tục đặt lòng tin vào con người? Làm thế nào dám nghĩ tới chuyện chung sống với phụ nữ thêm lần nữa?

Matthew thở dài. Duy có con gái đã ngăn anh chìm đắm trong điên loạn hoặc tung hê mọi thứ. Khi sự việc vỡ lỡ, ngay sau khi Nick Fitch qua đời, anh đã phải chiến đấu để bảo vệ Emily khỏi sự tò mò của báo giới. Đã từng có thời điểm hết sức khó khăn khi truyền thông quyết không buông tha anh. Các nhà sản xuất đề nghị mua lại câu chuyện của anh với số tiền khổng lồ, Hollywood muốn chuyển thể thảm kịch của đời anh. Để trốn chạy những vị khách không mời này, bấy giờ anh đã nghiêm túc nghĩ đến việc rời bỏ Massachusetts, nhưng anh quá gắn bó với Bostton, với ngôi nhà của anh và các sinh viên. Vài tuần trở lại đây, vụ việc đã bắt đầu lắng xuống. Điều đó không hề giúp anh bớt đau khổ, nhưng ít ra, anh cũng cảm thấy được giải thoát khỏi gánh nặng của một tai tiếng.

Anh dần lấy niềm ham sống qua những điều nhỏ nhặt: một cuộc dạo chơi dưới nắng cùng Emily, một trận bóng đá cùng các sinh viên, một câu đùa đặc biệt duyên dáng của April.

Nhưng khoảng tạm lắng này rất mong manh. Nỗi đau luôn rình rập, sẵn sàng thộp lấy họng anh, nhắc đi nhắc lại cùng những câu hỏi không có lời đáp đó. Làm thế nào có thể chấp nhận rằng những năm tháng tươi đẹp nhất trong đời ta thực ra chỉ là một sự trả giá? Làm thế nào lấy lại tự tin sau khi bị lừa dối như thế? Làm thế nào tìm ra lời lẽ để giải thích tình cảnh này với Emily?

Matthew đang vã mồ hôi và tim anh đang nện thình thịch trong lồng ngực. Anh hạ cửa kính chiếc Camaro xuống, tìm một vỉ thuốc chống trầm cảm trong túi quần jean rồi đặt viên thuốc dưới lưỡi. Viên thuốc tan dần, mang lại cho anh một trợ lực hóa học làm dịu đi nỗi bồn chồn của anh sau khoảng vài phút. Anh nhắm mắt, day day mí rồi hít thở sâu. Để hoàn toàn bình tĩnh lại, anh cần hút thuốc. Anh ra khỏi xe, chốt cửa xe lại rồi tản bộ vài bước trên vỉa hè trước khi châm một điếu thuốc lá rồi rít một hơi dài.

***

Anh thưởng thức điếu thuốc với hai mắt nhắm nghiền, mặt ngước lên đón cơn gió nhẹ cuối thu. Thời tiết ôn hòa. Ánh nắng chiếu xuyên qua những tán cành. Anh đứng bất động như thể vài phút trước khi mở mắt. Ở đầu phố, một đám đông đã tụ lại trước một ngôi nhà. Anh tò mò tiến lại gần ngôi nhà đồng quê điển hình cho phong cách New England: một cơ ngơi rộng rãi trang trí rườm rà bằng gỗ lát, tô điểm bằng phần mái kiểu giáo đường với quá nhiều cửa sổ. Trên bãi cỏ trước nhà, ngưởi ta đang tổ chức một dạng chợ trời.

Matthew hòa mình vào đám đông hiếu kỳ đang săm soi bãi cỏ rộng khoảng một trăm thước vuông. Điều khiển cuộc bán chác là một cô gái tóc nâu xinh đẹp với gương mặt tươi tắn dịu dàng. Bên cạnh cô là một con chó giống Shar-pei màu vàng cát đang mài răng với một khúc xương nhựa.

Giữa đống đồ thập cẩm, Matthew nhìn thấy một chiếc máy tính xách tay: một chiếc MacBook Pro, màn hình mười lăm inch. Không phải phiên bản mới nhất của mẫu này mà là phiên bản trình làng trước đó hoặc trước nữa. Matthew tiến lại gần và xem xét kỹ toàn bộ chiếc máy tính. Phần vỏ nhôm của máy đã được người chủ cũ để lại dấu ấn bằng một tấm đề can nhựa cứng dán sau màn hình. Tấm dán thể hiện một dạng nhân vật kiểu Tim Burton: một nàng Eva cách điệu hóa và gợi cảm dường như đang cầm trong tay một biểu tượng hình quả táo của nhãn hiệu máy tính lừng danh. Bên dưới bức tranh minh họa, ta có thể đọc thấy chữ ký “Emma L.” nhưng không mấy rõ chữ ký đó thuộc về người nghệ sĩ vẽ tranh hay người chủ cũ của chiếc máy tính.

Tại sao lại không nhỉ? Anh vừa nghĩ vừa nhìn nhãn giá. Chiếc Powerbook cũ của anh vừa đi tong hồi cuối hè. Đúng là ở nhà anh có một chiếc máy tính để bàn, nhưng anh cũng cần một chiếc máy tính xách tay mới để dùng riêng. Thế mà từ ba tháng nay, anh cứ không ngừng trì hoãn khoản tiêu pha này.

Mức giá đề xuất cho chiếc máy tính xách tay là 400 đô. Một khoản tiền anh cho là hợp lý.

Anh lại gần người phụ trách bán rồi chỉ cho cô thấy chiếc MacBook.

- Chiếc máy tính kia còn chạy tốt chứ?

- Dĩ nhiên. Đó là máy tính xách tay cũ của tôi. Đã định dạng lại ổ cứng và cài đặt lại hệ điều hành. Giờ nó như mới vậy!

- Tôi không rõ lắm… anh ngập ngừng.

- Anh nghĩ tôi đang cố lừa anh sao? cô chọc anh.

Matthew cười đáp lại. Cô đưa cho anh tấm danh thiếp.

- Nghe này, tôi đề nghị với anh thế này nhé: nếu trong vòng sáu tháng tới, chiếc máy tính này gặp bất cứ trục trặc nào, tôi hứa sẽ bảo hành cho anh. Bạn thân của tôi rành món tin học này lắm.

Matthew nhìn tấm danh thiếp:

Emma Lovenstein.

Quản lý quầy rượu

Nhà hàng Thống Soái, 30 Rockefeller Plaza New York,

NY 10020

- Cô làm việc tại nhà hàng Thống Soái sao?

- Đúng vậy, anh từng dùng bữa tại đó à?

- Trong một cuộc đời khác, anh tránh né, xua đi một kỷ niệm nhắc anh nhớ lại cuộc hôn nhân với Kate.

Chú chó giống Shar-pei tới dụi mõm vào chân anh rồi sủa ăng ẳng mừng rỡ.

- Nó tên Clovis và trông nó có vẻ mến anh! Emma hào hứng nhận xét.

Matt vuốt ve con vật. Mặt trời làm ánh lên những luồng bụi giữa các tán cành.

- Con gái tôi vẫn mơ được nuôi một chú chó nhỏ như thế này, anh mỉm cười.

- Cô bé mấy tuổi rồi?

- Bốn tuổi rưỡi.

Emma gật đầu.

- Cô có con chưa? anh hỏi.

- Chưa.

Anh cảm thấy mình đang hỏi vào chuyện riêng tư bèn dừng ngay lại.

- Vậy ra, cô đang sống ở New York…

- Mà vài tiếng nữa tôi sẽ quay lại đó đây, cô nói rồi nhìn đồng hồ đeo tay. Tôi tới giúp anh trai một tay, nhưng không nên vì thế mà lỡ chuyến bay.

Matthew lưỡng lự thêm vài giây trước khi quyết định.

- Đồng ý, tôi lấy nó, anh khẳng định, tay chỉ chiếc laptop.

Anh lục tìm trong ví. Anh chỉ mang theo người 310 đô. Anh ngại không dám mặc cả, nhưng cô gái đã giúp anh thấy thoải mái.

- Được rồi, tôi để lại cho anh với giá đó!

- Cô thật tử tế, anh nói rồi đưa tiền cho cô.

Từ xa, anh ra hiệu cho April vừa đi đến bãi cỏ. Emma đưa cho anh chiếc laptop cô đã bọc trong hộp bìa đi kèm.

- Vậy nếu chiếc máy tính này không hoạt động, tôi sẽ không ngần ngại gọi cho cô đấy nhé, Matthew kết luận, tay vẫy vẫy tấm danh thiếp.

- Nếu tình cờ anh muốn gọi tôi từ trước, thì anh đừng nghĩ là buộc phải đến khi máy tính hỏng nhé, cô đánh bạo nói.

Anh mỉm cười để che giấu nỗi ngạc nhiên, rồi lại chỗ April.

Họ ra xe. Matthew nằn nì để được lái xe rồi họ quay về Boston, kẹt cứng trong đám tắc đường. Không một giây nào anh ngừng nghĩ tới cô gái mang tên Emma Lovenstein đó.

***

Boston

Khu Beacon Hill

20 giờ

Matthew viền lại chăn cho Emily và tắt hết đèn, chỉ để lại ngọn đèn ngủ treo nơi đầu giường. Trước khi khép hờ cánh cửa, anh hôn con gái lần cuối, hứa với con rằng April sẽ ghé qua chúc con bé ngủ ngon.

Rồi anh xuống cầu thang dẫn tới phòng khách. Tầng trệt của căn nhà chìm trong thứ ánh sáng dìu dịu. Anh nghiêng người qua cửa sổ và ngắm nhìn hồi lâu những tràng hoa điện treo trên hàng rào công viên đang nhấp nháy. Rồi anh bước vào bếp, lấy ra một lốc bia vàng. Anh khui một chai rồi đang định lấy thêm một viên thuốc chống trầm cảm khác.

- Này, anh chàng bảnh trai, cẩn thận với hỗn hợp đó nhé, nó có thể gây nguy hiểm đấy! April gọi anh.

Vắt vẻo trên đôi giày cao đến chóng mặt, cô chưng ra với một vẻ tự nhiên khiến người ta phải bối rối một tổng thể kỳ quặc nhưng thanh lịch, theo xu hướng bái vật giáo. Cô búi tóc, dùng phấn nền màu ngọc trai tôn bật màu son đỏ như máu.

- Anh không muốn cùng đi với em sao? Em tới Gun Shot, quán rượu mới khai trương gần kè đấy. Món thủ lợn rán của họ quả là ngon hết chỗ chê. Còn cocktail mojito thì không lời nào tả hết. Thời điểm này quán đang là nơi quy tụ những cô nàng xinh đẹp nhất thành phố đấy.

- Vậy là, em đang đề nghị anh bỏ mặc đứa con gái mới được bốn tuổi của anh để đi uống mojito trong một quán bar dành cho những nàng les quỷ quyệt hay sao?

April bực bội chỉnh lại chiếc vòng ống khắc những đường lượn màu tía đeo nơi cổ tay.

- Trước hết, Gun Shot không phải quán bar dành cho dân les, cô nổi cáu. Vả lại, em nói nghiêm túc đấy Matt, anh cần phải ra ngoài, gặp gỡ mọi người, cố gắng chinh phục phụ nữ, làm tình trở lại.

- Nhưng em nghĩ thế nào mà lại muốn anh yêu trở lại nhỉ? Vợ anh…

- Em không tìm cách phủ nhận chấn thương tâm lý mà anh từng biết đến với Kate, Matt ạ, nhưng nếu muốn vượt qua thử thách này thì phải tiến lên, anh phải phấn chấn lên, phải tự cho mình ít ra là một cơ may để tìm lại niềm vui sống.

- Anh vẫn chưa sẵn sàng, anh khẳng định.

- Thôi được rồi, em không cố nài nữa, cô đầu hàng, cài cúc áo cardigan rồi đóng sập cửa lại đằng sau.

Còn lại một mình, Matthew lục tìm trong tủ lạnh rồi lấy ra một hộp các tông phủ giá. Anh bỏ chiếc bánh pizza vào lò, đặt hẹn giờ rồi quay về trường kỷ. Anh cần được ở một mình. Anh không tìm ai hiểu mình, không tìm ai an ủi mình. Anh chỉ muốn rũ bỏ khổ đau, cùng những người bạn đồng hành duy nhất là viên thuốc trung thành và chai bia Corona thân thiết.

Tuy nhiên, ngay khi nhắm mắt, hình ảnh cô gái ở buổi “tổng thanh lý dọn nhà” lại hiện lên trong tâm trí anh, rõ ràng đến kinh ngạc. Mái tóc lượn sóng của cô, ánh mắt tươi cười của cô, những nốt tàn nhang của cô, nụ cười tinh nghịch của cô, giọng nói láu lỉnh khi cô bảo anh:

Nếu tình cờ anh muốn gọi tôi từ trước, thì anh đừng nghĩ là buộc phải đợi đến khi máy tính hỏng nhé.

Bỗng nhiên, anh nhìn ra lẽ hiển nhiên: anh rất muốn gặp lại cô gái ấy.

Anh đứng dậy rồi ngồi cạnh quầy bếp bằng gỗ nơi anh để chiếc ví bên trong có tấm danh thiếp của cô:

Emma Lovenstein… Liệu mình có nên gọi cho cô ấy ngay bây giờ để mời cô ấy đi ăn nhà hàng không nhỉ?

Anh ngập ngừng giây lát. Hẳn là cô đang trên chuyến bay trở về New York, nhưng dẫu sao anh vẫn có thể để lại tin nhắn cho cô.

Anh bấm những con số đầu tiên trong số điện thoại của cô rồi ngừng phắt lại. Hai bàn tay anh run lên.

Tiếp tục thì có ích gì? anh tự hỏi, luôn bị tấn công bởi cùng những nghi ngại ấy. Không cần nhọc công huyễn hoặc bản thân làm gì. Anh không còn tin vào chuyện đôi lứa, vào sự đồng cảm, vào những cảm xúc được sẻ chia. Anh cảm thấy nỗi căm giận dâng lên trong người.

Bốn năm trời…

Anh đã sống bốn năm cùng một người đàn bà xa lạ, một kẻ tội phạm, một ả đàn bà hung ác đã thao túng anh như một con rối.

Một giờ trước khi ả dự kiến sát hại anh, anh vẫn còn đang nấu những món ả ưa thích! Anh không phải là nạn nhân của Kate, anh là một gã khờ đáng thương, một kẻ ngây ngô tội nghiệp đã ngu ngốc tự rúc đầu vào rọ. Anh không chỉ xứng đáng với những gì gặp phải, mà còn phải gánh lấy nỗi đau nảy sinh từ đó cho đến khi từ giã cõi đời!

Điên dại, anh ném điện thoại vào tường, nuốt chửng mấy viên thuốc cùng một ngụm rượu lớn rồi quay lại nằm dài trên trường kỷ.

***

New York

Ngày hôm sau

21 tháng Mười hai 2011

- Này!

Ngồi trên một băng ghế của công viên Washington Square, Emma vẫy tay ra hiệu cho Romuald. Chàng trai tới gặp cô, ôm hôn rồi chìa cho cô một túi giấy bồi.

- Tôi đã ghé tiệm Mamoun’s mua viên bột đậu rán đây. Chị nếm thử đi, ngon lắm đấy!

Cậu ngồi cạnh cô rồi họ mở sandwich ra ăn.

Trong vòng một năm, Romuald đã thay đổi hoàn toàn. Cậu nhóc người Pháp tròn xoay đã trở thành một anh chàng đẹp trai, ga lăng, sinh viên năm nhất của đại học New York. Sau chuyến phiêu lưu khó tin họ đã cùng nhau trải qua, Emma và cậu đã được nối kết chặt chẽ và gặp nhau nhiều lần mỗi tuần. Emma đã giúp Romuald trong việc ổn định tại Manhattan và hết sức chăm chút đến việc học của cậu.

- Cậu vẫn tiếp tục suy nghĩ về định hướng ngành học đấy chứ? cô hỏi trong lúc nhai bánh pita. Chuyện hôm kia cậu nói với tôi chỉ là một trò đùa thôi đúng không?

- Không hề, tôi muốn trở thành bác sĩ tâm lý mà. Hoặc cảnh sát.

- Cậu á?

- Đúng vậy, tôi nghĩ là con người nhất định đáng quan tâm hơn máy tính. Những câu chuyện tình của họ, nhưng xung năng trả thù và bạo lực…

Cô mỉm cười đồng tình với cậu.

- Ngon tuyệt, món bánh sandwich của cậu ấy, cô nói, miệng vẫn nhồm nhoàm.

- Tôi cứ nghĩ chị sẽ mang rượu vang cơ đấy, cậu đùa. Bánh này mà chiêu với một ly bourgogne thì bá cháy!

Cô nháy mắt với cậu. Cậu tiếp lời:

- Chị quay tôi thế là đủ rồi đấy! Chuyến đi tới Boston của chị thế nào?

- Không chính xác như tôi hy vọng, cô gái nhăn mặt.

- Chị đã gặp lại Matthew chứ?

- Phải rồi, anh ấy đúng là có đến buổi bán hàng thanh lý dọn nhà và cũng đã mua chiếc laptop của tôi. Tôi xúc động lắm, thật kỳ lạ khi gặp lại anh ấy sau ngần ấy thời gian.

- Vậy hai người đã nói chuyện với nhau!

- Ngắn ngủi thôi.

- Anh ấy không nhận ra chị à?

- Không, nhưng như thế lại tốt hơn! Đã một năm trôi qua, ngày đó anh ấy lại chỉ nhìn thấy tôi có vài phút, tôi lại còn đội mũ trùm nữa.

- Chị có để lại cho anh ấy địa chỉ liên lạc không?

- Có chứ, nhưng chưa thấy anh ấy gọi.

- Anh ấy sẽ gọi thôi, Romuald nói chắc.

- Tôi không nghĩ thế, cô đáp. Vả chăng, có lẽ như vậy lại tốt hơn.

- Nhưng sao chị không kể cho anh ấy nghe sự thật?

- Không thể như thế được, cậu thừa biết còn gì. Thoạt tiên là bởi sự thật khó tin, vả lại…

- Gì kia?

- Cậu có hình dung được cảnh cậu yêu người phụ nữ đã giết mẹ của con gái cậu không?

- Nhưng chị cũng đã cứu mạng anh ấy, Emma à!

Cô gái nhún vai và quay mặt đi để Romuald không nhận thấy rằng mắt cô rực sáng.

Nỗi bối rối của cô không kéo dài. Cô đã quay sang hỏi cậu bạn về chuyện tình cảm của cậu. Mỗi ngày Romuald đều có bước tiến mới trong công cuộc chinh phục Erika Stewart, nữ sinh viên Triết của Harvard, hơn cậu ba tuổi. Cậu gặp cô tại hội chợ nông sản trên quảng trường Union một tháng trước và đã đem lòng yêu cô say đắm. Ban đầu, cô sinh viên không để ý gì đến cậu: cô không đời nào chấp nhận hẹn hò với một chàng trai kém tuổi. Romuald đã tìm ra địa chỉ của cô, và theo lời khuyên của Emma, đã bắt đầu viết cho cô mỗi ngày một bức thư. Một bức thư “đích thực”, viết bằng bút lông trên giấy chiffon. Bởi nghệ thuật quyến rũ qua thư không phải thế mạnh của chàng trai trẻ, Emma, giống như Cyrano de Bergerac, thường xuyên cầm bút viết thay cho cậu. Và chiến thuật chinh phục “kiểu cổ điển” này đã mang lại kết quả. Erika không chỉ bị cuốn vào cuộc chơi, mà cô còn vừa nhận lời mời của Romuald: bữa tối tại nhà hàng Thống Soái vào thứ Bảy tuần tới.

- Cậu cũng biết đấy, để đặt bàn trong nhà hàng này phải đợi khoảng ba tháng, Emma lưu ý với cậu bằng giọng nghiêm trọng.

- Phải, tôi biết, cậu đáp với vẻ bực bội. Nhưng tôi cứ nghĩ là…

- Dĩ nhiên tôi sẽ giúp cậu có được bàn! Một bàn vị trí đẹp bên cửa sổ nhìn ra tòa Empire State!

Cậu nồng nhiệt cảm ơn cô rồi cô tiễn cậu, đi bộ tới khuôn viên trường đại học.

***

Boston

13 giờ

Matthew kết thúc buổi chạy thể dục khi đã hụt cả hơi.

Anh đã chạy hơn một giờ, chạy trọn vẹn một vòng quanh khu vực sông Charles, chạy dấn lên tòa nhà trụ sở MIT trước khi quay trở lại Công viên Thành phố.

Hai tay chống lên đầu gối, lưng cúi, anh cố gắng thở đều trước khi dạo bước xuyên qua bãi cỏ của Boston Common.

Hai cẳng chân run run và bụng quặn lại, anh không thể kìm nhịp tim trong lồng ngực. Anh đang gặp phải chuyện gì thế này?

Chuyện này chẳng có gì liên quan tới việc gắng sức cả. Từ lúc anh thức dậy tới giờ, một cảm giác mới mẻ tràn ngập trong anh; một cảm giác ngây ngất và bất ngờ đã xâm chiếm anh. Bất kể anh làm gì, đi đâu, Emma Lovenstein vẫn không rời khỏi suy nghĩ của anh. Không thể chạy trốn khỏi cô. Không thể thoát khỏi cô. Và sự hiện diện này biến anh thành một con người khác. Một người đàn ông được giải thoát khỏi lớp vỏ bọc và rốt cuộc đã có thể lao về phía ngày mai. Điều hiển nhiên hiện ra trước mắt anh…

Anh đang ngồi trên một băng ghế, quan sát bầu trời màu xanh ánh kim loại, những tia phản chiếu của nắng trên mặt hồ, và ngẩng mặt hứng làn gió nhẹ.

Xung quanh anh, lũ trẻ đang chơi đùa.

Cuộc sống lại về quanh đây.

***

Sau khi tạm biệt Romuald, Emma bắt một chiếc taxi để quay về nhà hàng Thống Soái rồi dành đầu giờ chiều cùng ê kíp điểm lại danh sách rượu vang sẽ gợi ý cho khách hàng trong các bữa tối Giáng sinh và Năm mới.

Lúc 15 giờ, điện thoại của cô rung lên trong túi. Cô kín đáo kiểm tra.

Từ: Matthew Shapiro

Tới: Emma Lovenstenin

Chủ đề: Fair-play

Emma thân mến,

Tôi đang viết cho cô từ máy tính cũ của cô. Nó hoạt động rất tốt. Vì muốn tìm một cái cớ để liên lạc với cô, quả thực tôi đã nghĩ tới chuyện phá hỏng nó, nhưng tôi đã thôi ngay ý định nói dối đó vì muốn chơi trung thực. Vậy thì thế này, tôi có một lời đề nghị dành cho cô, Emma ạ.

Tôi biết một nhà hàng nhỏ chuyên đồ Ý trong khu East Village – nhà hàng Số 5 – phía Nam công viên Tompkins Square. Nhà hàng do Vittorio Bartlotti cùng vợ anh ấy điều hành, cả hai đều là bạn thời niên thiếu với tôi. Mỗi lần tới New York, tôi đều ghé qua chỗ họ ăn tối.

Đối với một người quản lý rượu dày dặn kinh nghiệm, tôi không biết thực đơn các loại rượu vang của họ đáng giá ngần nào, nhưng nếu cô thích món cơm viên chiên arancini kiểu Bolagna, món mì dẹt lasagna bỏ lò, món mì tươi tagliatelle nấu ra gu và món bánh cannoli kiểu Sicile, vậy thì địa chỉ ẩm thực này hẳn sẽ khiến cô hài lòng. Cô nhận lời tới đó dùng bữa tối nay với tôi chứ? Lúc 20 giờ?

Matt.

Emma cảm thấy tim mình nảy tưng tưng trong lồng ngực. Cô lập tức hồi âm:

Tôi rất vui, Matthew ạ.

Vậy hẹn gặp anh tối nay.

P.S: Tôi mê mì dẹt lasagna và bánh giòn gạo chiên arancini lắm… Và cả bánh tiramisu nữa!

***

- A lô, đầu đất hả?

- Tôi đang trong giờ học, Emma… Romuald thì thào.

- Cậu phải giúp tôi. Cậu truy cập website của Akahiko Imamura nhé.

- Nhà tạo mẫu tóc ấy hả? Lại nữa sao?

- Đúng thế, tôi cần một cuộc hẹn trong hai giờ nữa.

- Nhưng tôi đã chọn giải pháp án binh bất động và thôi không hack…

- Hoặc là thế hoặc là cậu vĩnh biệt bàn đặt tại Thống Soái để ăn tối cùng Erika nhé.

***

Bị cuốn theo cảm giác khoan khoái dễ chịu, Emma rời khỏi Rocketfeller Plaza rồi ngược lên đại lộ số 5 tới tận cửa hàng Bergdorf Goodman.

Cô có cảm giác như một nữ diễn viên đang quay lượt hai, nhưng lần này, cô hy vọng có thể thay đổi đoạn kết phim. Lờ những nữ nhân viên bán hàng đi, cô lang thang dạo bước giữa những gian hàng của cửa hàng lớn nhất New York. Ngay cả khi thời trang đó có phần thay đổi kể từ năm ngoái, cô vẫn tìm được thứ muốn tìm: một chiếc áo măng tô dài hoẵng non kết hợp vải lụa được tôn lên bằng những hình ảnh vẽ ghim vàng và bạc, cùng một đôi giày cao gót da trăn với những ánh phản chiếu màu tím và đôi gót cao chót vót.

Một khi đã mua sắm xong xuôi, cô rời khỏi cửa hàng, rồi vì trời đang đẹp, cô đi bộ tới salon chăm sóc tóc của Akahiko Imamura.

Sau hai giờ, cô đã có chính xác cùng kiểu tóc với hồi năm ngoái: tóc được bới lên thành một búi xoắn khiến gương mặt cô rạng rỡ, làm nổi bật đôi mắt sáng và vẻ nữ tính của cô.

Cô vẫy một chiếc taxi tới khu East Village. Ngồi trong xe, cô nhận thấy hai tay mình run run. Cô lấy túi đồ trang điểm ra rồi hoàn thiện vẻ ngoài của mình bằng chút phấn hồng phớt, một lớp phấn phủ vàng rực nơi mí mắt và son môi màu xà cừ.

Trong khi tài xế dừng lại trước nhà hàng Số 5, nỗi nghi ngại và lo lắng lại xuất hiện. Và nếu như cả lần này nữa, Matthew cũng không có ở đó thì sao?

Emma nhớ lại một năm trước rồi cân nhắc quãng đường đã qua.

Người ta có thể chơi khăm số phận đến mức nào mà không bị trừng phạt? Cái giá phải trả sẽ là gì để có thể thách thức với các quy luật của thời gian và thoát khỏi định mệnh?

Chẳng bao lâu nữa cô sẽ được biết. Cô thanh toán tiền cước taxi, xuống khỏi xe rồi đẩy cửa bước vào nhà hàng Ý.

Tim đập dồn, cô bước qua trước quầy lễ tân mà không dừng lại. Nhà hàng ấm cúng và thân thiện, chính xác như trong ký ức của cô. Cô leo lên các bậc cầu thang gỗ dẫn tới gác lửng trần hình vòm cuốn. Tới nơi rồi, cô tiến về phía chiếc bàn bên hiên nhô ra bên trên phòng ăn chính.

Matthew đang ngồi đó.

Anh đang đợi cô.

Cảm ơn

Ingrid,

Estelle Touzet, quản lý rượu tại Meurice.

Tiến sĩ Sylvie Angel và tiến sĩ Alexandre Labrosse.

Bernard Fixot, Édith Leblond và Catherine de Larouzière.

Valérie Taillefer, Jean-Paul Campos, Bruno Barbette, Stéphanie Le Foll và

Isabelle de Charon.