Ngôi Nhà Quái Dị

Chương 10

Tôi trở lại với ý thức một cách từ từ đến mức thoạt tiên không nhận ra mình đã ngủ quên.

Hương hoa thoang thoảng trong mũi tôi. Trước mặt tôi một vật trắng tròn hiện ra trong không gian. Chỉ trong vòng vài giây tôi nhận ra đó là một gương mặt người – một gương mặt cách mặt tôi khoảng chừng non một mét. Khi giác quan tôi trở lại, cái nhìn của tôi chính xác hơn. Gương mặt tạo một cảm giác ghê ghê – gương mặt tròn với lông mày cong, mái tóc chải ra sau, đôi mắt đen, tròn nhỏ. Điều đáng quan tâm là cơ thể – một tấm thân xương xẩu, nhỏ bé. Nó đang chăm chú nhìn tôi hết sức nghiêm túc.

“Chào,” nó nói.

“Chào,” tôi chớp chớp mắt, trả lời.

“Em là Josephine.”

Tôi đã đoán ra rồi. Đây là Josephine, em gái của Sophia. Tôi đoán cô bé khoảng độ mười một, mười hai tuổi. Cô bé là một đứa trẻ cực xấu xí rất giống ông nội cô. Tôi thầm nghĩ có thể cô bé có bộ óc giống ông nội.

“Anh là người yêu của chị Sophia,” Josephine nói.

Tôi thừa nhận câu nhận xét không sai của cô bé.

“Nhưng anh đến đây với Chánh thanh tra Taverner. Tại sao anh đến đây với Chánh thanh tra Taverner?”

“Ông ấy là bạn của anh.”

“Thật không? Em không thích ông ấy. Em sẽ không nói gì với ông ấy hết.”

“Những việc gì?”

“Những việc mà em biết. Em biết rất nhiều việc. Em thích biết nhiều việc.”

Cô ngồi lên thành ghế dựa và tiếp tục săm soi tìm hiểu gương mặt tôi. Tôi bắt đầu cảm thấy khó chịu.

“Ông nội bị giết, anh biết chứ?”

“Đúng,” tôi đáp, “anh biết.”

“Ông bị đầu độc. Với e-se-rine.” Con bé phát âm cẩn thận từng từ một. “Hấp dẫn đấy chứ?”

“Anh cho rằng thế.”

“Eustace và em rất quan tâm. Chúng em thích truyện trinh thám. Em luôn muốn trở thành thám tử. Giờ em đang làm thám tử. Em đang thu thập manh mối.”

Tôi cảm thấy cô bé là một đứa trẻ táo tợn.

Josephine quay lại vấn đề:

“Người đi theo chánh thanh tra cũng là một thám tử, phải không? Sách viết người ta có thể nhận biết trang phục của thám tử qua đôi giày ống. Nhưng tay thám tử đó lại mang giày da.”

“Kiểu cũ đó thay đổi rồi,” tôi nói.

Josephine diễn dịch câu nói đó theo suy nghĩ riêng của con bé.

“Đúng,” nó nói, “giờ em hy vọng sẽ có nhiều sự thay đổi ở nơi đây. Chúng em sẽ đi và sống trong ngôi nhà ở London nằm trên Đường Đê. Mẹ em đã ao ước từ lâu. Mẹ sẽ rất vui. Em không hy vọng cha sẽ phiền nếu số sách của cha có cùng đi được không. Cha không có đủ tiền để làm chuyện ấy. Cha đã mất rất nhiều tiền cho Jezebel[4].”

“Jezebel?” tôi hỏi

“Đúng, anh có xem vở kịch đó chưa?”

“Ồ, đó là một vở kịch sao? Anh chưa xem. Anh đã ở nước ngoài.”

“Vở không diễn được lâu. Thực sự đó là một vở thất bại tệ hại nhất. Em không nghĩ mẹ em thật sự là người thích hợp diễn vai Jezebel, phải không anh?”

Tôi đối chiếu các cảm tưởng của tôi về Magda. Không phải cái váy ngủ màu hoa đào cũng không phải chiếc áo vét may khéo đã khiến tôi nghĩ tới Jezebel, nhưng tôi sẵn lòng tin rằng có một Magda khác mà tôi chưa nhìn ra.

“Có lẽ không hợp,” tôi nói thận trọng.

“Ông nội luôn nói vở đó sẽ thất bại thảm hại. Ông bảo ông không thể bỏ tiền vào một trong những vở kịch lịch sử tôn giáo. Ông nói vở diễn sẽ không bao giờ là một thành công phòng vé. Nhưng mẹ lại hào hứng phát sợ. Bản thân em cũng không thích cho lắm. Vở kịch chỉ giống một tí với câu chuyện trong Kinh Thánh. Ý em là, Jezebel không xấu xa như trong Kinh Thánh. Bà ta yêu nước và thật sự hoàn toàn đứng đắn. Kinh Thánh đã đổi trắng thay đen. Đoạn kết thì được. Họ ném bà ra ngoài cửa sổ. Có điều không một con chó nào đến ăn thịt bà. Em nghĩ đó là một sự thương hại, phải không? Em thích đoạn bọn chó ăn thịt bà ta hơn cả. Mẹ nói không thể đem chó lên sân khấu nhưng em không hiểu tại sao. Có thể có chó diễn xuất mà.” Con nhỏ đọc to, tràn đầy nhiệt tình: “Và bọn chúng ăn hết cơ thể bà ngoại trừ hai lòng bàn tay.

“Tại sao chúng không ăn hai lòng bàn tay?”

“Anh thật sự không biết.”

“Anh không chịu nghĩ, bọn chó đó rất đặc biệt. Bọn chó của chúng em thì không. Chúng ăn mọi thứ.”

Josephine suy nghĩ vài giây về sự khó hiểu trong Kinh Thánh.

“Anh rất tiếc về việc vở kịch thất bại,” tôi nói.

“Vâng. Mẹ đau khổ khủng khiếp. Các thông báo thực là đáng sợ. Khi mẹ đọc chúng, mẹ bật khóc và khóc suốt cả ngày và ném khay điểm tâm vào Gladys vì Gladys đưa cho mẹ bản thông báo. Thật là hết biết!”

“Josephine, anh thấy em thích kịch tính,” tôi nói.

“Họ đã cho khám nghiệm tử thi ông nội,” Josephine nói. “Phát hiện ông chết vì A.P.M.,họ gọi thế, nhưng em thấy khó hiểu quá, phải không anh? Vì P.M. có nghĩa thủ tướng và buổi chiều[5],” cô bé trầm ngâm.

“Em có buồn vì ông chết không?” tôi hỏi.

“Không nhiều lắm. Em không mấy thích ông. Ông ngăn không cho em đi học múa ballet.”

“Em thích học múa ballet?”

“Vâng, mẹ muốn cho em học, cha thì không quan tâm, nhưng ông bảo em không có khiếu.”

Cô bé tụt xuống khỏi thành ghế, đá văng đôi giày ra, đoạn cố gắng làm động tác gọi là kỹ thuật, tôi tin thế, đứng trên đầu các ngón chân.

“Dĩ nhiên, phải có đôi giày thích hợp,” cô bé giải thích, “và đôi khi phải chịu đau tê cứng các đầu ngón chân.”

Cô bé mang giày trở vào và hờ hững hỏi:

“Anh thích ngôi nhà này?”

“Anh không chắc lắm,” tôi đáp.

“Em giả sử nó bị bán đi ngay lúc này. Trừ khi bà Brenda tiếp tục sống ở đây. Mà em cho rằng hai bác Roger và Clemency sẽ không đi ngay.”

“Họ sắp đi à?” tôi hỏi với một chút quan tâm mơ hồ dấy lên.

“Vâng. Họ sẽ đi vào thứ ba. Đi đâu đó ở nước ngoài. Đi bằng máy bay. Bác Clemency đã mua một cái vali gọn nhẹ mới.”

“Anh không nghe chuyện họ sắp đi nước ngoài.”

“Đúng rồi,” Josephine nói. “Không ai biết cả. Đó là bí mật. Họ không nói cho ai biết cho đến khi họ đã ra đi. Họ sẽ gửi lại cho ông giấy báo tin.” Cô bé nói thêm: “Không phải là cài thư lên gối đâu. Đó là cách làm xưa cũ trong sách và các bà vợ làm khi họ bỏ chồng. Giờ thì không ai làm cái cách ngốc nghếch đó nữa.”

“Dĩ nhiên họ sẽ không làm thế, Josephine, em có biết tại sao bác Roger – lại ra đi?”

Cô bé liếc tôi một cái ranh mãnh.

“Em nghĩ em biết. Đã xảy ra việc gì đó tại văn phòng của bác Roger ở London. Em nghĩ – nhưng em không chắc lắm – bác ấy đã biển thủ cái gì ấy.”

“Điều gì khiến em nghĩ thế?”

Josephine đến gần tôi hơn và tôi nghe hơi thở mạnh phả vào mặt tôi.

“Vào ngày ông bị đầu độc, bác Roger vào phòng ông rất lâu. Ông và bác nói với nhau nhiều, nhiều lắm. Và bác Roger nói bác không hề là người tốt, bác làm ông thất vọng – và rằng không phải là vì số tiền quá nhiều – mà là bác cảm thấy bác không đáng tin cậy. Bác đang trong tình trạng tồi tệ.”

Tôi nhìn Josephine với những cảm giác lẫn lộn.

“Josephine này,” tôi nói, “có ai bảo cho em biết rằng đứng ngoài cửa nghe lén là không tốt chưa?”

Josephine gật đầu lia lịa:

“Dĩ nhiên là có chứ. Nhưng nếu như anh muốn tìm biết điều gì, anh phải nghe lén ngoài cửa. Em cá ông Chánh thanh tra Taverner cũng làm thế, phải không?”

Tôi thừa nhận điều đó. Josephine hăng hái nói tiếp:

“Mà cho dù, nếu ông ta không làm thế, cũng có người khác làm, người mang đôi giày da. Họ lục tìm trên bàn của người ta, đọc các thư từ, phát hiện mọi bí ẩn. Chỉ có điều họ thật là ngốc. Họ không biết cần tìm ở nơi nào!”

Josephine nói với vẻ bề trên lạnh lùng. Tôi cũng ngốc chẳng kém khi để sổng mất khả năng suy luận. Con nhỏ khó chịu đó tiếp tục nói:

“Eustace và em biết rất nhiều chuyện – nhưng em biết nhiều hơn Eustace. Và em không nói cho anh ấy biết. Eustace bảo phụ nữ không bao giờ là thám tử tài ba. Nhưng em bảo em có thể. Em sẽ viết mọi thứ trong sổ tay và sau đó, nếu cảnh sát hoàn toàn bí lối, em sẽ ra mặt và nói: ‘Tôi có thể nói cho các ông biết ai đã làm việc đó.’”

“Josephine, có phải em đọc rất nhiều sách trinh thám?”

“Hằng khối.”

“Anh cho rằng em nghĩ em biết ai giết ông em?”

“Vâng, em nghĩ thế – nhưng em sẽ phải tìm thêm ít nhiều manh mối nữa.” Con bé dừng lại rồi nói: “Chánh thanh tra Taverner cho rằng bà Brenda làm việc đó, đúng không? Hay cả Brenda và Laurence cùng làm vì họ yêu nhau.”

“Josephine, em không nên nói thế.”

“Tại sao không? Hai người đó yêu nhau.”

“Em không thể suy đoán.”

“Em có thể đấy. Họ đã viết thư cho nhau. Những bức thư tình.”

“Josephine, làm sao em biết?”

“Bởi vì em đã đọc chúng. Những bức thư mùi mẫn. Nhưng Laurence là kẻ yếu đuối. Y sợ ra trận chiến đấu. Y chui xuống các tầng hầm và đun thùng nước. Khi máy bay thả bom bay qua đây, mặt y xanh như tàu lá – xanh lè luôn. Eustace và em cười hết biết.”

Sau đó tôi không nhớ mình nói tiếp gì, vì vào lúc đó, một chiếc xe hơi trờ đến bên ngoài. Josephine nhanh như chớp chạy tới bên cửa sổ, cái mũi hếch của con bé áp sát khung kính.

“Ai vậy?” tôi hỏi.

“Ông Gaitskill, luật sư của nội. Em cho rằng ông ấy đến vì tờ di chúc.”

Con bé hồi hộp thở, bỏ chạy ra khỏi phòng, có lẽ để thực hiện các hoạt động trinh thám của nó.

Magda Leonides bước vào phòng, và trước sự sững sờ ngạc nhiên của tôi, bà đến bên tôi và nắm lấy tay tôi.

“Cám ơn Chúa cậu còn ở đây,” bà nói, “Rất cần sự có mặt của một người đàn ông.”

Bà buông tay tôi, bước ngang qua một chiếc ghế lưng tựa cao, chỉnh lại cái ghế một tí, liếc nhìn mình trong gương, sau đó cầm lên một cái hộp tráng men pháp lam vùng Battersea đang để trên bàn, bà đứng đó mở hộp ra rồi đóng lại một cách trầm ngâm.

Dáng đứng của bà trông thật đẹp mắt.

Sophia thò đầu vào cửa, thì thào giọng cảnh báo, “Gaitskill!”

“Mẹ biết.”

Lát sau, Sophia vào phòng, theo sau là một người lớn tuổi, nhỏ bé, bà Magda đặt cái hộp tráng men xuống và đi tới để chào đón ông ta.

“Xin chào, bà Philip. Tôi vừa mới đến. Hình như có vài sự hiểu lầm về bản di chúc. Chồng bà đã viết thư có đóng dấu gửi cho tôi nói rằng tôi giữ bản di chúc. Nhưng qua ông Leonides tôi biết di chúc được cất trong hầm ngầm của ông ấy. Tôi cho rằng bà không biết gì cả về chuyện ấy?”

“Về di chúc của ông già khốn khổ?” Magda mở to đôi mắt ngạc nhiên. “Không, dĩ nhiên là không. Đừng nói với tôi là mụ đàn bà quỷ quái ở trên đó đã hủy nó rồi đấy chứ?”

“Bà Philip,” – ông đưa một ngón tay chỉ vào bà – “đừng phỏng đoán nữa. Vấn đề chủ yếu là tìm nơi cha chồng của bà cất nó.”

“Nhưng ông ấy đã đưa cho ông – chắc chắn như thế – sau khi ký tên. Ông đã nói với chúng tôi như vậy.”

“Theo chỗ tôi biết, cảnh sát đã có những ‘giấy tờ riêng tư’ của ông Leonides,” ông Gaitskill nói. “Tôi phải đi trao đổi đôi lời với Chánh thanh tra Taverner.” Ông rời phòng.

“Con gái ơi,” Magda la lên. “Ả đã hủy nó. Mẹ biết mẹ nói đúng mà.”

“Không đâu, mẹ, bà ấy không làm một việc khờ dại như thế đâu.”

“Không có gì là khờ dại cả. Nếu không có di chúc, ả sẽ có tất cả.”

“Suỵt – ông Gaitskill trở lại kìa.”

Luật sư trở vào phòng. Chánh thanh tra Taverner đi cùng ông, theo sau là ông Philip. Gaitskill đang nói:

“Tôi hiểu ông Leonides. Ông ấy đã để di chúc trong ngân hàng cho an toàn.”

Taverner lắc đầu.

“Tôi đã liên hệ với ngân hàng. Họ không có giữ giấy tờ riêng tư gì của ông Leonides ngoại trừ một số chứng khoán.”

Ông Philip nói:

“Tôi tự hỏi có phải Roger – hay dì Edith… Sophia, con gọi họ xuống đây.”

Roger Leonides cùng với mọi người trong gia đình được mời đến họp.

“Nhưng thật vô lý – tuyệt đối vô lý,” ông Roger nói. “Cha đã ký vào di chúc và nói rõ ông gửi bưu điện cho ông Gaitskill vào ngày hôm sau.”

“Nếu tôi nhớ không lầm,” ông Gaitskill nói, ngả người ra sau và lim dim mắt, “đó là ngày 24 tháng 11 năm rồi, tôi đã soạn một bản thảo theo chỉ thị của ông Leonides. Ông chấp nhận bản thảo và trả lại cho tôi, và trong một thời gian ngắn, tôi gửi ông bản di chúc để ông ký. Khoảng độ một tuần sau, tôi đánh liều nhắc ông tôi chưa nhận được bản di chúc có ký tên và công chứng, tôi hỏi ông có điều gì cần thay đổi không. Ông trả lời ông hoàn toàn hài lòng và nói rằng sau khi ký di chúc ông sẽ gửi vào ngân hàng của ông.”

“Hoàn toàn đúng,” ông Roger hăng hái nói. “Cuối tháng 11 năm rồi – Philip, chú nhớ không? Cha đã triệu tập tất cả chúng ta và đọc cho chúng ta nghe bản di chúc.”

Taverner quay sang Philip Leonides.

“Có đúng với những gì ông nhớ không, ông Leonides?”

“Đúng,” Philip đáp.

“Giống vở kịch Voysey Inheritance[6] quá vậy,” bà Magda nói. Bà thở dài thích chí. “Tôi luôn nghĩ có cái gì không ổn về bản di chúc mà.”

“Cô Sophia?”

“Vâng, tôi nhớ rõ ràng,” Sophia đáp.

“Vậy các điều khoản của bản di chúc đó là gì?” Taverner hỏi.

Ông Gaitskill sắp trả lời theo kiểu cách chính xác của ông, thì Roger Leonides đã nói trước.

“Đó là một di chúc hoàn toàn đơn giản. Electra và Joyce đã chết, phần tài sản được chia trả về cha. Con trai của Joyce, William, chết trận ở Burma, tiền thừa kế trả về cha của nó. Philip và tôi và các con là những người thân thuộc duy nhất còn sống. Cha đã giải quyết vấn đề này. Ông để 50 ngàn bảng không chịu thuế cho dì Edith, 100 ngàn bảng không chịu thuế cho bà Brenda, ngôi nhà này hay mua một ngôi nhà vừa phải tại London cho bà Brenda tùy bà lựa chọn. Số còn lại chia làm ba phần, một cho tôi, một cho Philip, phần thứ ba chia cho Sophia, Eustace và Josephine, các phần dành cho hai đứa sau được gửi bảo hiểm cho đến lúc chúng trưởng thành. Tôi nghĩ tôi nói đúng, phải không ông Gaitskill?”

“Đó chính là – gần như đúng – các điều khoản của văn kiện tôi đã phác thảo,” Gaitskill thừa nhận, giọng tỏ ra hơi khó chịu vì không được tự nói.

“Cha đọc cho chúng tôi nghe,” Roger nói tiếp. “Cha hỏi chúng tôi có ý kiến gì không. Dĩ nhiên không ai có ý kiến gì.”

“Bà Brenda có ý kiến,” bà dì de Haviland nói.

“Đúng,” bà Magda sôi nổi nói. “Bà ấy bảo bà không chịu nổi việc ông chồng già thân yêu của bà nói đến cái chết. Bà bảo ‘rợn hết cả người’. Và sau khi ông ấy lìa trần, bà không muốn có tí gì trong số tiền kinh khiếp ấy cả.”

Bà dì de Haviland nói: “Đó là cách nói từ chối kiểu cọ của tầng lớp bà ta.”

Một lời nhận xét châm chọc và thô bạo! Tôi chợt nhận ra Edith de Haviland không ưa bà Brenda đến cỡ nào.

Gaitskill đánh lảng: “Một sự phân bố cân bằng và hợp lý tài sản của ông ấy.”

“Sau khi đọc xong di chúc, điều gì đã xảy ra?” Chánh thanh tra Taverner hỏi.

Roger nói: “Sau khi đọc xong, cha ký tên.”

Taverner nghiêng mình tới trước.

“Như thế nào và khi nào ông ấy ký di chúc?”

Ông Roger nhìn vợ như nhờ vợ trả lời. Bà Clemency đáp trả cái nhìn của ông. Tất cả những người còn lại trong gia đình dường như bằng lòng để bà trả lời.

“Ngài muốn biết chính xác ký ở đâu?”

“Nếu bà vui lòng, bà Roger.”

“Cha chồng tôi để di chúc lên bàn và bảo một người trong chúng tôi – Roger, nếu em nhớ không lầm – nhấn chuông. Roger vâng lời. Khi Johnson nghe chuông chạy đến, cha chồng bảo y đi tìm Janet Wolmer, cô hầu bàn ăn. Khi cả hai có mặt tại đây, ông ký di chúc và bảo hai người đó ký tên họ bên dưới chữ ký của ông.”

“Thật đúng thủ tục,” Gaitskill nói. “Một di chúc do người để lại di chúc ký phải có mặt hai nhân chứng. Họ phải cùng ký với người để lại di chúc cùng chỗ và cùng lúc.”

“Và sau đó?” Taverner hỏi.

“Cha chồng tôi cám ơn họ, và họ đi ra ngoài. Cha chồng tôi cầm tờ di chúc lên, bỏ vào một phong bì lớn và nói sẽ gửi cho ông Gaitskill vào ngày hôm sau.”

Chánh thanh tra Taverner nhìn chung quanh nói: “Tất cả mọi người đồng ý vụ việc đã xảy ra chính xác như thế?”

Có tiếng thì thầm đồng ý.

“Di chúc nằm trên bàn, ông nói thế. Có ai đứng gần bàn không?”

“Không ai đứng quá gần. Gần nhất, có lẽ, khoảng 5 hay 6 thước[7].”

“Khi ông Leonides đọc chúc thư, ông ấy ngồi tại bàn?”

“Vâng.”

“Ông ấy có đứng dậy hay rời khỏi bàn sau khi đọc chúc thư và trước khi ký tên?”

“Không.”

“Hai người làm có đọc chúc thư khi họ ký tên?”

“Không,” Clemency đáp. “Cha chồng tôi để một tờ giấy lên trên phần nội dung của di chúc.”

“Hoàn toàn đúng,” Philip nói. “Nội dung của di chúc không liên quan chi đến người làm.”

“Tôi biết,” Taverner nói. “Nhưng – tôi không hiểu.”

Bằng một động tác cực nhanh, anh lấy ra một phong bì dài, nghiêng người đưa cho ông luật sư.

“Ông hãy đọc cái này,” anh nói. “Và cho tôi biết đó là cái gì.”

Ông Gaitskill rút tài liệu ra khỏi phong bì. Ông đọc nó với sự ngạc nhiên dữ dội, đôi tay ông xoay qua xoay lại bản tài liệu.

“Cái này,” ông nói, “thật đáng ngạc nhiên. Tôi không hiểu gì hết. Tôi xin phép hỏi: nó ở đâu ra vậy?”

“Trong két sắt, giữa ‘các giấy tờ khác’ của ông Leonides.”

“Nhưng đó là cái gì vậy?” Roger hỏi. “Chuyện gì mà ầm ĩ thế?”

“Roger, đây là bản di chúc tôi soạn cho cha ông ký – nhưng – sau khi mọi người đều nói ông đã ký thì tôi không thể hiểu tại sao bản này – không có chữ ký của ông.”

“Sao? Tôi cho rằng đây là bản dự thảo.”

“Không đúng,” ông luật sư nói. “Ông Leonides đã đưa trả tôi bản dự thảo gốc. Tôi đã soạn bản di chúc – chính bản này,” ông chỉ ngón tay lên tờ di chúc – “và tôi đã gửi nó cho ông để ông ký. Theo như lời chứng của các người, ông ký tờ di chúc trước mặt tất cả mọi người – và hai người làm chứng với cả chữ ký của họ – thế mà bản di chúc này lại không có chữ ký.”

“Nhưng thật không thể,” Philip Leonides kêu lên, sôi nổi hơn giọng nói mà tôi đã nghe từ ông.

Taverner hỏi: “Thị giác của ông Leonides có còn tốt không?”

“Ông bị bệnh cườm nước. Dĩ nhiên phải dùng kính có độ cao để đọc.”

“Chiều hôm đó ông có mang kính không?”

“Có chứ. Ông không lấy kính ra cho đến khi ký xong. Tôi cho rằng tôi nhớ đúng.”

“Hoàn toàn đúng,” Clemency nói.

“Và không ai – tất cả mọi người đều chắc chứ – đứng gần bàn trước khi ông ký bản di chúc?”

Magda nheo mắt nói: “Giờ tôi thắc mắc không biết có ai đã đọc toàn bộ bản di chúc đó một lần nữa không.”

“Không một ai đến gần bàn,” Sophia nói. “Ông ngồi đó suốt cả thời gian.”

“Cái bàn vẫn ở chỗ hiện nay chứ? Nó không nằm gần cửa vào, cửa sổ hay bất cứ bức rèm che nào chứ?”

“Nó nằm ngay tại chỗ hiện nay.”

“Tôi đang cố nghĩ xem một sự đánh tráo nào đó đã xảy ra,” Taverner nói. “Chắc hẳn phải có sự đánh tráo. Ông Leonides đã tưởng mình đang ký bản di chúc mà ông đã đọc to.”

“Chữ ký có thể bị xóa đi không?” Roger gợi ý.

“Không thể, ông Leonides. Không có dấu vết tẩy xóa. Có một khả năng khác. Đó không phải là di chúc do ông Gaitskill gửi cho lão gia Leonides. Ông đã ký tên vào đó trước mặt các người.”

Gaitskill nói: “Tôi quả quyết bản này là bản di chúc gốc. Có một vết nhỏ trên tờ giấy – nằm góc trái bên trên – giống như, một nét vẽ chơi, một chiếc máy bay. Tôi đã nhận thấy ngay.”

Mọi người trong gia đình ngơ ngẩn nhìn nhau.

“Một trong những trường hợp rất kỳ lạ,” Gaitskill nói.

“Không có tiền lệ trong kinh nghiệm của tôi.” Bà dì de Haviland ho khan một tiếng.

“Không rảnh hơi nói cái chuyện đã xảy ra mà lại không có xảy ra,” bà nhận xét. “Giờ thì vấn đề nằm ở đâu? Đó là điều tôi muốn biết.”

Gaitskill liền trở thành một luật sư thận trọng.

“Vấn đề cần phải xem xét rất tỉ mỉ. Văn kiện này, dĩ nhiên, rút lại tất cả những ý muốn và di chúc trước đây. Có rất nhiều nhân chứng cho rằng họ đã thấy ông Leonides đã ký điều mà ông hoàn toàn tin tưởng là bản di chúc hợp lệ. Hừ. Rất hay. Một vấn đề khá là hợp pháp.”

Taverner nhìn đồng hồ. Anh nói:

“Tôi tiếc đã làm lỡ bữa ăn trưa của gia đình.”

“Ngài thanh tra, mời ngài dùng bữa trưa với chúng tôi?” Philip đề nghị.

“Cám ơn, ông Leonides, nhưng tôi phải gặp bác sĩ Gray tại Swinly Dean.”

Philip quay sang ông luật sư.

“Ông dùng bữa trưa với chúng tôi chứ, Gaitskill?”

“Cám ơn, ông Philip.”

Mọi người cùng đứng dậy. Tôi đến bên Sophia.

“Anh nên đi hay ở?” tôi hỏi nhỏ. Giọng nói nghe ngồ ngộ giống như một bài hát thời Victoria.

“Em nghĩ anh nên đi,” Sophia nói.

Tôi lỉnh ra khỏi phòng theo sau Taverner.

Josephine đang đu tới đu lui tại bức màn len cửa dẫn ra khu vực phía sau. Con bé có vẻ đang khoái chí chuyện gì.

“Cảnh sát thật ngốc,” nó nhận xét.

Sophia ra khỏi phòng khách.

“Josephine, em đang làm gì vậy?”

“Giúp Nannie.”

“Chị cho rằng em đang nghe lén ngoài cửa.”

Josephine nghênh mặt nhìn chị rồi rút lui.

“Con bé đó,” Sophia nói, “hơi có vấn đề.”