Người Lính - Những suy ngẫm của một người lính Đức

P 2: Chương 10

Ba tuần sau, ngày 15/10/1936, tôi đi xe lửa từ Leipzig đến Jena, cách khoảng 40km, để bắt đầu một cuộc sống mới, một pháo thủ. Cha tôi là mội sĩ quan Pháo Binh Hải Quân trong cuộc chiến tranh thế giới, và ông đã kể cho tôi nghe nhiều chuyện lúc tôi còn nhỏ về những khẩu hải pháo to lớn. Bất cứ khi nào tôi nghĩ đến việc đi lính, tôi đều nghĩ đến những khẩu pháo to lớn đầy quyến rũ. Hai năm qua, các tin tức báo chí luôn nói về những kỹ thuật quân sự mới nâng cấp và hiện đại hoá quân đội Đức, bao gồm cả pháo binh, và tôi tình nguyện vào lính với giấc mơ là một pháo thủ trên một khẩu pháo tự hành.

Khi xe lửa đến gần Jena, tôi thấy những doanh trại quân đội lớn. Quay qua một người đàn ông đứng tuổi ngồi cạnh, tôi hỏi ông có biết đó là doanh trại gì không? Ông đưa mắt khỏi tờ báo rôi nói tôi đó là những doanh trại bộ binh. Đến gần thành phố, một doanh trại khác hiện ra, tôi lại hỏi ông, ông nhìn ra rồi nói đó là doanh trại pháo binh. Rồi tôi mất hết cả tinh thần khi thấy những chuồng ngựa và ngựa, và tim tôi bắt đầu chùng xuống. Tôi quay lại hỏi người đồng hành.

"Ý ông nói là họ vẫn kéo pháo bằng ngựa?" Tôi hỏi, với hy vọng vớt vát.

"Vâng, tôi nghĩ vậy," ông nói nhỏ, biết tôi đang thất vọng.

Bổng nhiên Pháo Binh mất hết sức lôi cuốn và quyến rũ. Thay vì ngồi trên một khẩu pháo tự hành, tôi lại phải đi chăn ngựa. Tôi chỉ muốn quay về nhà.

Vào doanh trại, một viên unterofizier (lance sergeant, sẽ có giải thích sau) ngồi sau bàn. Anh ta hỏi tên tôi, tìm thấy trong danh sách, đánh dấu bên cạnh tên tôi, rồi nói cộc lốc, "Phòng 29". Anh ta trông nhàm chán với công việc đơn điệu này. Khi tôi nhìn anh ta với cặp mắt dò hỏi, anh ta phản ứng, "Tầng 2". Cửa phòng 29 mở, một người lính ngồi trong phòng, thấy tôi bước vào, anh đứng lên và chìa tay ra.

"Tôi là Oberkanonier Baresel," (binh nhất, pháo binh) anh nói, "Tôi sẽ là trưởng phòng"

Tôi bắt tay anh ta rồi tự giới thiệu. Anh để tôi chọn giường, tôi đặt túi xách xuống và sắp đồ vào tủ ngay sát giường. Phòng có 6 giường, 6 tủ, và 1 cái bàn, 6 ghế. Những người khác lần lượt đến. Người đầu tiên là Ernst, một công nhân ở một nhà máy, tiếp là Peter Wohlthat, một cậu nông dân, kế đến là Boris Weinreich, khá đẹp trai từ Đông Phổ, con một thầy giáo. Cuối cùng là một anh chàng dân thành phố tên Vogel.

Tôi đi ngủ với đầy thất vọng về pháo binh với xe ngựa kéo, nhưng cuối cùng ngủ thiếp đi.

Tiếng còi huýt lên thô lỗ dựng chúng tôi dậy lúc 5 giờ sáng. "Ra khỏi giường!" Baresel hét lên.

"Trời, mới nửa đêm mà," Vogel càu nhàu.

"Công việc ở chuồng ngựa trước sẽ mang buổi sáng đến nhanh hơn." Baresel nham nhở, "Các anh có đúng 1 phút để xếp mền và tập trung trước nhà nếu không muốn có thêm công việc."

Chúng tôi đều ngẩn mặt lên nhìn anh ta, sửng sốt, rồi cuống quít mặc đồ.

Rùng mình trong cơn lạnh buổi sáng sớm và bóng tối, chúng tôi sắp hàng trước nhà. Baresel dẫn chúng tôi đến một khu vực và sắp xếp chúng tôi và đội hình cùng với những người từ các phòng khác. Baresel và những người lính mặc quân phục khác đứng bên ngoài đội hình. Một obergefreiter (hạ sĩ) xuất hiện, kêu chúng tôi đứng nghiêm, và dẫn chúng tôi ra chuồng ngựa. Tôi vẫn không tưởng tượng là tôi đang ở trong đơn vị pháo binh dùng ngựa kéo. Nó quá lạc hậu với thời đại hiện đại!

"Mỗi người một ngăn," Viên hạ sĩ chỉ dẫn. Chúng tôi chậm chạp đi về chuồng ngựa.

"Nhanh lên!" anh ta hét lên.

Chúng tôi chạy vào chuồng ngựa, mỗi người chọn một ngăn. Tiếp đó, anh ta ra lệnh chúng tôi tập trung. "Tôi là hạ sĩ Sebastian, và đây là chuồng số 1," Anh ta nói lớn. Anh ta vào khoảng ba mấy, râu quai nón. "Để ý con số trên tường khi các anh giải tán. Đó là số chuồng giao cho các anh dọn sạch từ nay trở đi. Cái xẻng được treo sau lưng các anh. Các anh sẽ không được tin tưởng để dùng chỉa trong vài tuần, cho đến khi chúng tôi chắc chắn các anh sử dụng chúng thành thạo và không đâm vào ngựa. Ngựa trong chuồng đã được tròng cổ và cột lại. Cẩn thận ghi xuống phải tròng cổ ngựa như thế nào và cột vào cái móc ở góc chuồng. Tôi làm cho các anh coi một lần".

Anh ta vào chuồng và dắt ra một con ngựa. Anh ta chỉ cho chúng tôi cách tháo tròng và tròng dây vào cổ ngựa, tiếp là cách thắt nút nhanh chóng vào cột, rồi chỉ chúng tôi làm sao đẩy ngựa từ bên này qua bên kia để chùi nền nhà bên dưới. Tôi chỉ hy vọng rằng những chú ngựa khác cũng dễ dàng như chú ngựa này.

Mỗi chuồng ngựa có 23 ngăn mỗi bên và một lối đi rộng ở giữa. Ngựa được cột xoay đầu vào tường và đuôi đưa ra ngoài. Mỗi ngăn được ngăn bằng mấy cây đòn từ trần xuống, mỗi con ngựa một ngăn. Chỉ có ngựa của sĩ quan mới được ngăn cách tốt hơn. Vài người lính đẩy 2 chiếc xe cút kít vào.

"Khi các anh dọn chuồng ngựa, đem phân đổ vào xe cút kít ở lối đi, rồi để xẻng vào chỗ treo," viên hạ sĩ chỉ bảo. "Nếu ai dọn không sạch nếu bị kiểm tra sẽ phải làm thêm công việc. Giải tán và dọn dẹp!"

Tôi quay lại và nhìn cái mông của con ngựa. "Sướng chưa," Tôi nghĩ bụng, "bây giờ tôi là thằng ở cho một con ngựa." Tôi chưa bao giờ đến gần một con ngựa. Nó nặng hơn tôi ít nhất là 1 nghìn pounds. Dường như không thể di chuyển con thú được bằng cách đơn giản là đẩy nó sang 1 bên. Tôi hy vọng con ngựa đã được thuần và cầm chiếc xẻng ngắn bước vào. Tôi nhích chậm đến gần con vật. Rướn người xúc một xẻng đầy phân ngựa rồi vội vã lui ra ngoài lối đi và đổ vào xe. Tôi thở phào khi thấy con ngựa phớt lờ sự có mặt của tôi. Nhớ lời cảnh cáo của viên hạ sĩ về chuyện làm thêm việc, tôi quay lại để chắc rằng không để rơi rớt chút gì trên nền. Con ngựa quay đầu nhìn tôi, hít sâu vào, rồi quay lại đống cỏ. Tôi xúc sạch đống phân rồi treo xẻng và cái kẹp lên chỗ cũ. Chúng tôi sắp vào hàng và viên hạ sĩ dẫn chúng tôi về phòng.

Chúng tôi có 1 giờ tắm rửa và ăn sáng.

Sau khi ăn sáng, Baresel tập trung chúng tôi thành hàng, rồi dẫn tôi qua một khu nhà khác để cắt tóc. Tiếp đó, chúng tôi được phát mỗi người 2 bộ quân phục -1 bộ để tập dượt và lao động, bộ kia để cho mọi việc khác. Chúng tôi cũng được phát giày đi ngựa và yên ngựa bằng da. Chúng tôi rất hãnh diện khi được phát nón sắt và túi đạn. Chúng làm chúng tôi cảm thấy giống "lính thật" hơn. Họ cố gắng phát cỡ áo quần vừa cho chúng tôi, nhưng một số đồ không vừa, chúng tôi phải nhận chúng và trao đổi với nhau sau.

Mặc dù chúng tôi bận rộn trong ngày đầu tiên, nhưng không có gì quan trọng, hầu hết để chúng tôi làm quen. Mọi việc bắt đầu từ sáng hôm sau.

Sau khi dọn chuồng ngựa và ăn sáng, chúng tôi tập trung vào đội hình và trình diện với Unteroffizier Max Krall. Anh ta nhỏ con và khoảng 23, tóc vàng xỉn, khỏe mạnh, mặt có sẹo, và mắt xanh lơ. Anh ta bước lên một cái bục gỗ, hít mạnh, hết sức nhướng người lên đến mức cao nhất mà anh ta có thể nhướng với khổ người 1m 62, rồi nhìn xuống chúng tôi qua cái mũi (đang nhướng cao) một lúc lâu.

"Tôi là Unteroffizier Krall," anh ta nói không hở răng. da phía sau gáy tôi bắt đầu dựng lên. "Trách nhiệm của tôi là nặn ra những người lính từ những đống rác trước mặt tôi. Rõ ràng họ đòi hỏi một phép lạ từ tôi. Nhưng tôi sẽ làm nên điều đó nếu tôi phải làm việc với các anh ngày đêm trong 365 ngày đến. Từ ánh mắt của các anh, tôi biết tôi phải làm lâu đến thế." Anh ta dừng lại. Rồi ráng ưỡn người lên, anh ta hỏi "Có bao nhiêu trong số các anh là Abiturenten?" anh ta nói sai chữ Abiturient, tiếng Đức cho gymnasium graduate (tốt nghiệp trung học).

Tôi đưa tay lên; tôi thấy Weinreich cũng đưa tay lên, và 2 người khác. " Nhìn kỹ tôi đi," anh ta đe dọa. "Tôi có kế hoạch lo thật chu đáo cho các Abiturenten."

Krall chia chúng tôi ra thành từng tiểu đội rồi giao chúng tôi cho các viên hạ sĩ, kiểu cách và tính cách của họ cũng không khác hơn anh ta bao nhiêu. Họ luyện tập chúng tôi, luôn tỏ ra với chúng tôi rằng phục vụ lao động không là cái gì cả. Chúng tôi không biết đi đều, thậm chí đi cũng không biết luôn. Rồi họ luyện tập cho chúng tôi bằng cách của họ. Những tập luyện từ vụ phục lao động không được công nhận ở đây, họ tập cho chúng tôi các động tác căn bản từ đầu đến cuối thêm lần nữa. Chúng tôi được phát súng trường và được dạy cách lau chùi và bảo quản, cũng như tháo rắp sung. Họ miệt thị chúng tôi bằng cách nói rằng trên vai chúng tôi không phải là cái thuổng nữa. Mặc dù chúng tôi không bao giờ đồng tình với các huấn luyện viên, nhưng cũng hãnh diện được vác súng thay vì vác thuổng. Chiều đến, chúng tôi vào lớp và học về các cấp bậc trong quân đội và lịch sử nước Đức trước khi ra sân tập luyện một lần nữa cho đến tối.

Chúng tôi cật lực tập luyện trong 6 tuần lễ. Bao gồm sử dụng súng, tập bắn, thao tác, di chuyển trong chiến đấu, đào hầm... Tất nhiên, bênh cạnh đó là tập đi đều, thao diễn, diễn hành. Chúng tôi giữ nhịp đi bằng cách vừa đi vừa hát những bản quân hành. Chúng tôi cũng tập ném lựu đạn và bắn súng máy. Những bài tập này chủ yểu do Stabsgefreiter ° Weizscker, một người rất thích hành hạ bọn gymnasium chúng tôi. Chúng tôi chỉ có thể ráng chịu đựng sự hành hạ của anh ta. Chúng tôi chỉ được huấn luyện bộ binh trong 6 tuần, thay vì 12 tháng như lính bộ binh. Nhưng sự huấn luyện này rất quan trọng, vì lính pháo binh nhiều khi theo các sĩ quan tiền sát ra tuyến trước với bộ binh.

Trong thời gian huấn luyện bộ binh, chúng tôi phải dậy vào lúc 5 giờ, dọn chuồng ngựa, ăn sáng, và huấn luyện suốt ngày cho đến tận 10 giờ đêm, lúc chúng tôi kiệt sức lăn ra giường. Việc huấn luyện rất thích thú, được chuẩn bị và tổ chức kỹ càng. Buổi trưa là bữa ăn chính trong ngày. Thức ăn ngon và nấu kỹ. Sau khi ăn, chúng tôi có 15 phút nghỉ ngơi, thay đồ (quân phục được thay đổi cho các hoạt động khác nhau) và đi học tình báo hay lịch sử nước Đức.

Chúng tôi thay phiên đi trực chuồng ngựa vào ban đêm. Chúng tôi phải đem theo xe cút kít. Và bất cứ khi nào ngựa ị, chúng tôi phải đem xe đến và xúc ngay vì sợ ngựa nằm lên chúng. Trực chuồng ngựa thật chán và cực nhọc, cũng may là chỉ có hai tiếng đồng hồ cho 1 ca trực.

Chúng tôi tập thể dục thường xuyên, và bóng ném nữa; các pháo đội luôn tổ chức thi bóng ném với nhau hoặc với các đơn vị bộ binh bên cạnh.

Ngày 1 tháng 12 năm 1936, chúng tôi hoàn tất việc huấn luyện bộ binh và bắt đầu 3 tháng huấn luyện pháo binh căn bản. Chúng tôi được chia làm 2 nhóm: một nhóm lo về ngựa (thường là những người ở thôn quê) và một nhóm lo súng (thường là bọn ở thành phố), nhưng các nhóm phải biết các công việc của nhau. Chúng tôi phải học mọi thứ từ ngựa cho đến súng. Cơ bản là những người lo về ngựa phải học cách chăm sóc ngựa và thắng cương, lái ngựa. Bọn chúng tôi lo về súng thì học cách lăn súng, tháo súng ra khỏi xe, đặt hướng súng, lắp đạn (giả) và thuốc súng (bao đất) vào súng, ngắm mục tiêu, điều chỉnh, và bắn theo lệnh. Chúng tôi luyện tập hàng ngày trong quân trường, thao tác các động tác với đạn giả. Các nhóm tập về ngựa (fahrers) và súng (kanoniers) được tập luyện riêng biệt.

Nhóm súng gồm có khẩu dội trưởng (một unteroffizier hoặc một unterwachtmeister (thượng sĩ pháo binh), 5 pháo thủ, và 3 người "ngựa thủ". Người hướng súng là pháo thủ chủ chốt, vì anh ta phải điều chỉnh và ngắm mục tiêu. Những người khác khiêng đạn, lắp đạn, và giúp nguỵ trang súng. Sau vài tuần huấn luyện riêng rẽ, chúng tôi được huấn luyện với nhau lần đầu tiên. Từ đó kanoniers và fahrers tập với nhau hàng ngày, và mỗi tuần một lần, cả 4 khẩu đội tập chung với nhau trong đội hình pháo đội.

Giáng Sinh đến gần, chúng tôi bắt đầu chờ được nghỉ phép. Một nửa được nghỉ 1 tuần trong tuần lễ Giáng Sinh, nửa kia được nghỉ phép trong tuần đầu năm. Rausche, Wohlthat, và Baresel nghỉ Giáng Sinh, Weinreich, Vogel, và tôi nghỉ đầu năm.

Sau khi nhóm đầu đi, chỉ trước ngày Giáng Sinh, mọi vật bỗng dưng rất lạ, vì đội hình của chúng tôi đột nhiên bị vỡ. Chúng tôi phải canh gác và giữ mọi thứ như trước, nhưng hầu hết các hoạt động huấn luyện được dừng lại cho đến sau Tết, và chúng tôi có thì giờ rãnh để nằm dài ra và lười biếng. Hầu hết các sĩ quan đều nghỉ tuần Giáng Sinh, để gần như các stabsgefreiters trông coi. Stabsgefreiters là một cấp bậc có 1 không 2 của quân đội Đức, vì cấp bật này dành cho nhưng kẻ thất bại: những người lính-nghề (career soldier) không đủ trách nhiệm và không bao giờ được thăng cấp cao hơn stabsgefreiters. Kỳ nghĩ lễ là một cơ hội cho họ thao túng, và họ tận dụng nó một cách triệt để.

Người stabsgefreiters phụ trách chúng tôi thay thế Krall là Weizsacker, và chúng tôi lo sợ điều đó nhất. Anh ta luôn bày ra những trò quái ác bất cứ lúc nào có cơ hội. Vì Weinreich và tôi là "trí thức", chúng tôi biết chúng tôi sẽ hứng những phiền toái nếu vô phước bị anh ta dỡ trò.

Weinreich và tôi trực chuồng ngựa đêm Giáng Sinh. Lúc này chúng tôi đã được phép sử dụng chỉa. Công việc trực nhật là dọn sach chuồng và thay rơm. Rơm không được để quá dơ, nên lớp rơm mới phải được để chồng lên lớp rơm cũ. Lớp rơm cũ dưới cùng phải được chận xuống và phủ lớp rơm mới lên trên để ngựa không bị dơ khi nằm. Nền chuồng ngựa tráng xi măng, và chúng tôi phải biết nên lấy ra bao nhiêu rơm và chừa lại bao nhiêu rơm. Cứ 3 tuần 1 lần, tất cả rơm đều được dọn và nền nhà được rửa với nước, và bỏ rơm mới xuống. Một số lớn rơm sẽ được dùng để làm nệm cho ngựa. Sau khi dọn dẹp lớp rơm củ hôi thối, mùi thơm của rơm mới làm chúng tôi có cảm dễ chịu.

Weinreich và tôi vừa chuẩn bị dọn rơm và đang lau chùi nền nhà thì thấy Weizsacker dẫn Vogel bước vào, la hét phạt anh ta làm thêm công việc. Weinreich và tôi dừng lại và nhìn họ coi việc gì xảy ra.

Chúng tôi vừa đứng lên, lập tức Weizsacker quay sang chúng tôi. "À! Mấy nhà trí thức lười biếng," anh ta reo lên sung sướng, tạm quên Vogel. "Được rồi, nếu các anh rãnh quá, tôi có 1 giải pháp hoàn hảo cho các anh - đặc biệt dành cho các nhà trí thức và lanh miệng." Quay sang Vogel, anh ta ra hiệu cho Vogel đi về phía chúng tôi. "Bây giờ, để coi các anh lau chỗ này bằng tay không!" Chắc vẻ mặt của chúng tôi lộ vẻ hoảng hốt, vì anh ta có vẻ thích chí hơn. "Đúng vậy," anh ta nói. "Treo mấy cái chỉa lên."

Vogel định phản đối, nhưng mau chóng thay đổi ý định. Khuông mặt "nửa vầng trăng" Weizsachker lộ vẻ khoái trá, với cái mũi cũ hành to tướng dính trên mặt, và đôi mắt híp. Rõ ràng anh ta đang tận hưởng cơ hội hiếm hoi này.

Tôi gặp Liebelt, Michaelis, và Ebert và được biết rằng Friedrich cũng đang nghỉ phép. Tôi rất vui là chúng tôi gặp nhau vào buổi tối trước ngày Friedrich đi Dresden trở lại, nơi anh ta đang học trường sĩ quan. Tất nhiên, vì anh ta đã là fahnenjunker-unteroffizier (1 cấp bậc của sinh viên sĩ quan) và tôi chỉ là một pháo thủ nhỏ nhoi, và anh ta khoái chí ra lệnh tôi.

"Chúng ta nên ra kế họach cho 1 chuyến trượt tuyết nữa ở núi Sudeten sau khi Knappe và Friedrich giải ngũ." Liebelt đề nghị.

"Tôi không biết ông già Herr Hoffer còn ở đó không," Friedrich nói.

"Tôi không biết lúc đó tôi còn ở Đức không," Michaelis buồn rầu lên tiếng. "Ba tôi đang nghĩ đến việc dọn qua Anh. Ông không tin Đảng Quốc Xã lắm, vì chúng tôi là người Do Thái."

"Lạy trời, hy vọng lúc đó anh cũng còn ở đây," Ebert nói. "Không có anh thì mọi thứ không còn như xưa nữa."

"Cạn ly cho cả 5 chúng ta," Michaelis nâng ly rượu lên. "Cho chúng ta, và cho tương lai."

Chúng tôi đều cạn ly.

Sau kỳ nghỉ phép tuyệt vời, chúng tôi mau chóng quay lại nề nếp. Tôi cảm thấy thích ứng với những nếp sống quân đội. Chúng tôi hăng say huấn luyện suốt năm qua, với các cuộc thao diễn hàng tháng. Những bài học về kéo súng, hành quân, lúc đầu thì trên đường cái, sau đó là đường đất, rồi đặt súng. Khẩu đội trưởng, một đại uý, sẽ chỉ định nơi đặt súng và người thiếu úy sẽ sắp đặc nhân sự vào các vị trí, sắp đặt từng khẩu pháo một cho các khẩu đội, và nguỵ trang.

Cuối tháng 1 năm 1937, Weinreich và tôi được huyấn luyện thông tin vì chúng tôi có bằng trung học. Lính tiền sát (những người luôn luôn ở tuyến trước với bộ binh) và các khẩu đội liên lạc với nhau bằng máy vô tuyến và điện thoại. Điều này yêu cầu một nhân viên mang máy và một người trải dây từ đài quan sát đến các khẩu đội. Máy truyền tin vô tuyến là kỹ thuật mới mẽ vào năm 1937, tôi rất tự hào khi trở thành người mang máy vô tuyến, ngay cả cho một đơn vị pháo binh-ngựa.

Huấn luyện truyền tin bao gồm việc đo đạc góc, ước lượng khoảng cách, và tất cả mọi việc mà người sĩ quan tiền sát phải biết, để tôi có thể thay thể việc của người sĩ quan trong trường hợp anh ta bị thương hay bị chết. Trong chiến đấu, lính truyền tin đã phải làm việc này khá nhiều, nên chúng tôi luyện tập ngày đêm.

Bây giờ tôi là một chuyên viên truyền tin, tôi phải tập cưỡi ngựa. Là dân thành thị, tôi phải làm quen với con thú to lớn này, nhưng không mất nhiều thời gian lắm. Chúng tôi phải tập chải bờm, cho ăn (mỗi người phải lo cho 2 con ngựa) và tháo lắp yên ngựa. Chúng tôi tập cưỡi ngựa mỗi ngày một tiếng đồng hồ trong vòng 10 tuần, dưới dự hướng dẫn của binh nhất Sebastian. Đang mùa đông, nên chúng tôi dẫn ngựa vào trong trường đấu có mái che, và hầu hết chúng tôi đều mới và không có kinh nghiệm về ngựa. Trên sân, chúng tôi đứng cách nhau một khoảng cách trên một đường thẳng ở chính giữa sân. Chúng tôi học cách leo lên yên ngựa, cách cầm cương, những gì nên và không nên làm.

Đến hè, cả tiểu đoàn tập chung với nhau (cả ba pháo đội), và cuối hè, chúng tôi tập chung với bộ binh. Khi tập chung, chúng tôi phải rời khỏi Jena, và di chuyển đến khu quân sự ở Juterbog, gần Berlin, nơi chúng tôi có thể tập bắn đạn thật. Tập chung với bộ binh là đỉnh cao nhất của việc huấn luyện.

Chúng tôi hiếm khi huấn luyện chung với bộ binh ở doanh trại vì không gian giới hạn, với ruộng đồng xung quanh. Chúng tôi có thể huấn luyện vào mùa thu, sau khi hoa màu thu hoạch, nhưng chúng tôi vẫn gây các thiệt hại cho nông dân và họ không thích. Chúng tôi phải tháo hàng rào xuống rồi lại dựng lên sau khi tập, rất mất thời gian và nhiều khó khăn.

Chúng tôi hành quân từ Jena đến Juterbog. Chúng tôi thức dậy từ 4 giờ 30 sáng và có 1 giờ để cho ngựa ăn uống và ăn sáng. Sau đó chia ra cột súng vào xe rồi di chuyển. Bộ binh đi trước, pháo binh theo sau. Bộ binh đi bộ, pháo thủ chúng tôi hoặc cưỡi ngựa, hoặc ngồi trên xe ngựa. Pháo được kéo phía sau, nòng đưa ra phía sau. Pháo đội trưởng cưỡi ngựa dẫn đầu pháo đội 8 của chúng tôi, tiếp theo là sĩ quan tiền sát với các binh sĩ thuộc bộ chỉ huy (BCH) pháo đội, tiếp đến là sĩ quan pháo đội và 4 pháo đội rồi đến các xe chở đạn và quân nhu.

Bỗng nhiên chúng tôi nhận lệnh là cánh bộ binh phía trước chạm địch và chúng tôi phải triển khai đội hình và yểm trợ bộ binh. Pháo đội trưởng, sĩ quan tiền sát và binh sĩ của BCH pháo đội tiến lên phía trước và nhập vào quân bộ binh. Sau khi được thông báo kế hoạch tác chiến, pháo đội trưởng quay lại để hướng dẫn sĩ quan pháo đội và chỉ định nơi đặt pháo cho từng khẩu đội. Pháo được tháo ra khỏi xe và kanoniers lo hướng nòng pháo, lính lo ngựa khiêng đạn xuống rồi dẫn ngựa ra phía sau. Người sĩ quan đại đội chọn điểm có thể thấy từ vị trí súng làm điểm tác xạ. Sĩ quan tiền sát chọn mục tiêu tác xạ khác và báo cho sĩ quan pháo đội, viên sĩ quan này ra lệnh cho khẩu đội 2 bắn 1 phát làm đích. Sau mỗi phát đạn, sĩ quan tiền sát gọi về và điều chỉnh. Khi khẩu đội 2 bắn trúng mục tiêu, tất cả các pháo đội đều khai hoả. vào mục tiêu - lần đầu tiên bắn đạn thật- tiếng súng làm tai chúng tôi điếc đặc!

Rồi chúng tôi được thông báo tuyến địch rút lui, lính ngựa dắt ngựa quay lại và gắn pháo vào. Nhân viên truyền tin chúng tôi lo xếp dây nhợ và các thiết bị vào thùng và để lên ngựa. Sau đó tiếp tục hành quân, nhưng bây giờ thì hăng hái và kích thích hơn nhiều vì thật sự đi qua các hoạt động phối hợp và được bắn đạn thật lần đầu tiên; chúng tôi cảm thấy ít bị bó buộc trong kỷ luật như trước. Nhưng chỉ 1 thời gian rất ngắn, chúng tôi lại phải trở lại với kỷ luật như trước.

Trong thời gian chúng tôi ở Juterbog, Hitler ra lệnh tổ chức một cuộc diễn hành lớn chào đón Mussolini, đang viếng thăm nước Đức và Hitler muốn gây ấn tượng với ông ta bằng sức mạnh quân sự. Đây là một trong số ít lần toàn sư đoàn thao diễn. Trong đợt thao diễn này, không may, chúng tôi chỉ thấy toàn bụi, vì một trung đoàn pháo binh với 4 tiểu đoàn, 48 khẩu pháo, mỗi khẩu được kéo bởi 6 con ngựa. Gần 300 con ngựa và 100 bánh xe làm bụi mịt mù. Chúng tôi không chỉ không thấy đường, mà còn thở không muốn nổi.

Một tuần sau khi về Jena, chúng tôi được phép ra phố chơi ngoại trừ lúc gác hay dọn chuồng ngựa. Weinreich và tôi trở thành một đôi bạn thân và thường đi chơi với nhau. Cũng như thời phục vụ lao động, cuối tuần chúng tôi thường đi thăm những kiến trúc lịch sử, đi nhảy và gặp gỡ các cô gái trẻ.

Một ngày trong mùa xuân năm 1937, tôi được lệnh trình diện ở văn phòng Thiếu Úy Badstubner. Đây là lần đầu tiên tôi được tiếp xúc với sĩ quan. Tôi đến trình diện ông ta, ông thân mật mời tôi ngồi.

"Tôi hiểu là anh có kế hoạch học đại học sau nghĩa vụ quân sự," ông ta hỏi.

"Jawohl, thưa thiếu uý", tôi trả lời.

"Anh nghĩ như thế nào nếu anh được đi học học viện sĩ quan và trở thành sĩ quan dự bị?" Ông ta hỏi. "Thay vì phục vụ 2 năm, anh sẽ phải phục vụ quân đội 3 năm, nhưng anh không phải bị đòi hỏi phải làm bổn phận của lính dự bị và dành toàn bộ thời gian đó cho việc học đại học."

Những điều đó có lý, và tôi thích đời quân nhân, tại sao không? " Jawohl, thưa thiếu úy," tôi trả lời. "Tôi thật sự thích điều đó."

Weinreich và 2 người có bằng trung học khác cũng được mời vào học viện sĩ quan. Chúng tôi bắt đầu được huấn luyện thêm, và một số công việc của hạ sĩ quan. Thiếu Úy Badstubner nhận trách nhiệm huấn luyện và giao một số công việc đặc biệt cho chúng tôi. Anh ta chỉ lớn hơn chúng tôi 2 tuổi và tốt nghiệp học viện quân sự không bao lâu.

Việc huấn luyện quân sự của chúng tôi được nâng cao. Thông thường, năm thứ hai trong quân đội sẽ lặp lại việc huấn luyện ngoại trừ chúng tôi được giao thêm một số công việc kiểm tra lính mới. Nhưng vì chúng tôi là sĩ quan-huấn thụ, chúng tôi bắt đầu học về chiến thuật quân sự. Chúng tôi bắt đầu học các công việc của sĩ quan tiền sát và sĩ quan pháo đội.

Chúng tôi được đặt vào vị trí chỉ huy để học cách chỉ huy và dùng giọng như thế nào để chỉ huy lính. Trong việc huấn luyện lính mới, chúng tôi làm việc như một hạ sĩ quan. Một số hạ sĩ quan rất vui vẻ, nhưng một số khác khó chịu ra mặt vì biết rằng một năm sau, chúng tôi sẽ là thiếu uý, còn họ vẫn là hạ sĩ quan năm năm về sau.

Có 4 cấp bậc cho sinh viên sĩ quan. Nhỏ nhất là fahnenjunker-gefreiter (tương đương với hạ sĩ), tiếp đó là fahnenjunker-unteroffizier (tương đương với trung sĩ) trước khi chúng tôi đi học ở học viện sĩ quan. Ở giữa khoá học, chúng tôi sẽ đương thăng cấp lên fahnric, và sau khi tốt nghiệp, sẽ là oberhanhrich, gần như là sĩ quan.

Ngày 1 tháng 6, với tư cách sinh viên sĩ quan, tôi được thăng chức fahnenjunker-gefreiter (nếu không tôi phải chờ đến tháng 10, đúng một năm sau mới được lên hạ sĩ). Stabsgefreiter Weizsacker rất tức giận vì chỉ sau một thời gian tôi đã ngang lon với anh ta, và anh ta biết rằng chỉ trong vài tháng nữa là tôi sẽ cao hơn anh ta. Tất nhiên, anh ta sẽ không bao giờ lên lon cao hơn Stabsgefrieither không cần biết bao lâu anh ta ở trong quân đội. Tôi có thể thông cảm anh ta, nhưng lúc đó anh ta thật là quá quắt.

Fahnenjunker-gefreiter vẫn ở trong chung với những người lính khác như cũ trừ một số giờ giấc chúng tôi được huấn luyện riêng. Những cuộc huấn luyện đặc biệt làm đời sống chúng tôi thích thú hơn. Chúng tôi được tiếp xúc với sĩ quan nhiều hơn. Họ có những cuộc giao tiếp xã hội, thỉnh thoảng chúng tôi được mời theo. Một số cuộc khiêu vũ được tổ chức bởi các thương gia hoặc những người tiếng tăm trong vùng và chúng tôi được phép khiêu vũ với các cô con gái của các sĩ quan hoặc các thương nhân. Những cuộc khiêu vũ hoặc giao tiếp xã hội kia tạo cho chúng tôi có cơ hội học hỏi và phát triển những khả năng giao tế.

Cuối tháng 7 năm 1937, chúng tôi cùng với các binh lính ra đồng giúp các nông dân thu hoạch mùa màng. Thật là vui và là một sự giải lao nho nhỏ, và cũng là một sự giúp đỡ lớn cho các nông dân. Tất nhiên, chúng tôi đã quen thuộc với ngựa, và nhiều người lính quen thuộc với việc đồng áng. Chúng tôi vừa làm vừa hát, và thật sự thích thú khi được giúp họ. Họ cũng cảm kích chúng tôi nhiều và đãi chúng tôi ăn no nê.

Ngày 1 tháng 9 năm 1937, tôi được thăng cấp lên fahnenjunker-unteroffizier. Ngày 1 tháng 10, đúng 1 năm trong quân ngũ, tôi được 10 ngày nghỉ phép trước khi lên đường đi học viện quân sự ở Potsdam. Weinreich và tôi được gởi đi học ở Kriegsschule Potsdam gần Berlin.

"Tôi sẽ quay lại trong 30 phút," anh ta nói, "và cái chuồng này phải được sạch sẽ và không có dấu." Anh ta quay đi và bệ vệ bước ra cửa.

Vogel bốc một cục phân ngựa và ném theo Weizsacker, may mắn là anh ta không thấy cử chỉ thách thức này. Chúng tôi bắt đầu hốt rơm bằng tay không, ráng tránh mùi hôi của nước đái ngựa bốc ra từ đống rơm, và đem chúng đến xe cút kít. Với sự cố gắng cực độ, chúng tôi dọn sạch sẽ chuồng ngựa và rửa ráy khi Weizsacker quay lại 30 phút sau đó. Anh ta oai vệ đi vào chuồng ngựa, làm ra vẻ quan trọng và tự mãn, trông giống như nhà độc tài Ý, Mussolini, trên một cuốn phim thời sự nào đó. Khi nhìn thấy chuồng ngựa sạch sẽ, anh ta lộ vẻ thất vọng. Dường như anh ta chắc chắn rằng chúng tôi không thể làm được và chuẩn bị bắt chúng tôi làm thêm việc. Anh ta lúng túng vì không tìm ra được lý do để phạt thêm chúng tôi.

"Giỏi lắm!" Anh ta lẩm bẩm, ráng không để mất mặt, và bước ra khỏi chuồng ngựa.

Năm ngày khốn khổ với bọn stabsgefreiters làm tôi thật sự sẵn sàng cho chuyến nghỉ phép của mình. Được về nhà thật là một niềm hạnh phúc, nhưng quá ngắn. Thiếu vắng các điều luật quân đội lúc đầu làm tôi cảm thấy không tự nhiên và khác lạ. Nhưng nhìn mẹ tôi lăng xăng cung phụng cho tôi bất cứ điều gì tôi muốn làm tôi cảm thấy đang sống trong một thế giới khác, thế giới mơ!. Cha tôi vui vẽ so sánh những kinh nghiệm của tôi và của ông trong hải quân hai mươi năm về trước. Fritz, dĩ nhiên, bị thôi miên với những câu chuyện của chúng tôi. Inge thân thiện với tôi hơn. Ông bà tôi ghé thăm, và tất nhiên, khoe với khắp thiên hạ về đứa cháu lính đẹp trai của ông bà. Ba tôi đã bán đi tiệm tạp hoá, và mở một nhà hàng và nightclub.