Những Cuộc Phiêu Lưu Của Tom Shawyer

Chương 11 : Cuộc pic-nic

Sáng hôm đó, Tom biết được một tin làm nó rất vui: Becky vừa đi nghỉ hè về!
Quên hết Joe Da đỏ! Quên hết (tạm thời) kho báu! Becky chiếm vị trí chủ yếu!

Becky đã được mẹ hứa cho tổ chức cuộc píc-níc vào ngày hôm sau. Vì vậy thiệp mời được gởi ngay tối hôm đó và toàn thể bọn trẻ trong làng để hết thì giờ chuẩn bị cuộc vui chơi. Tom háo hức quá không sao ngủ được. Cho bao nhiêu Tom cũng không tiếc để đêm đó Huck đến kêu meo meo và chúng tìm được kho báu kịp thời để làm lóa mắt Becky trước đám bạn bè! Than ôi, chẳng có gì cả!

Thế là sáng hôm sau, tất cả những kẻ được mời tụ họp trước nhà ông thẩm phán Thatcher, đợi lúc khởi hành. Không có người lớn nào đi theo vì sự có mặt của họ có thể làm bọn trẻ mất vui. Chỉ vài đứa con gái và con trai lớn bảo đảm cho buổi chiều suông sẻ. Người ta đã thuê một chiếc tàu hơi nước cũ cho dịp này. Chẳng mấy chốc đám trẻ vui nhộn lăng xăng trên đường phố chính của làng. Sid bị bệnh phải ở nhà và Mary luôn luôn ân cần ở lại để cho có bạn.

Trước khi lên đường, bà Thatcher nói riêng với con gái mình:

– Becky à, rất có thể tối nay con sẽ về muộn.

Có lẽ con nên ngủ lại nhà một người bạn của con ở gần bến tàu.

– Thưa mẹ, vâng. Con sẽ đến nhà Suzy Har-per.

– Con phải tỏ ra lễ phép và hãy cám ơn bà Harper đã cho con ở lại nhé. Nhưng chúng vừa lên đường thì Tom tìm Becky và đưa ra một gợi ý khác.
– Tốt hơn chúng ta ngủ lại nhà bà Douglas nhé? Bà ta lúc nào cũng có kem và bà rất thích có người ở chơi.

– Nhưng mẹ sẽ nói sao?

– Trước tiên, mẹ bạn sẽ không hay biết gì cả. Lại nữa, chúng ta không làm gì quấy. Mẹ bạn chỉ muốn một điều là bạn được an toàn thôi.

Thế nào?.Nghĩ đến lòng hiếu khách hào phóng của bà Douglas, người lúc nào cũng cưng chìu trẻ con, Becky cảm thấy bao nhiêu ngần ngại đều tan biến và nó đồng ý.

Bỗng Tom nhớ đến Huck: nếu đêm nay Huck tới kêu meo meo dưới cửa sổ thì sao? Thôi mặc, đêm trước nó không tới, ít có hy vọng đêm nay nó sẽ tới. Giữa vụ săn tìm kho báu chưa chắc đã có và một ly kem rõ ràng có thực, Tom không do dự và điều này ta cũng dễ hiểu.

Chiếc tàu thả các hành khách trẻ trung hăng hái lên bờ cách làng khoảng năm cây số, ở một cái vịnh rất đẹp chung quanh có rừng bao bọc.

Sau khi đi một vòng dạo chơi vui vẻ trong rừng, mọi người tụ tập nhau lại để ăn trưa và các đồ ăn đem theo biến sạch rất nhanh. Sau đó có một người gợi ý:

– Bây giờ chúng ta đi thăm hang động, các bạn đồng ý không?

Dĩ nhiên mọi người ai cũng muốn đi. Bọn trẻ đem theo đèn nến, trèo lên ngọn đồi cho tới cửa hang. Hang này có một cái cửa bằng gỗ sồi to tướng. Cửa đang mở và dẫn vào một hành lang dài lạnh như sông băng và rỉ nước ẩm ướt.

Các nhà thám hiểm trẻ tuổi vui vẻ đi vào hang sâu. Những hành lang tỏa ra hai bên nhưng chúng cẩn thận không dám tách xa lối đi chính. Quả thực, hang MacDougal tạo thành một mê cung có các lối đi ngoằn ngoèo khúc khuỷu giao nhau nhiều chỗ rất dễ lạc đường. Người ta quả quyết rằng có thể lang thang trong đó mãi và không tìm thấy lối ra. Bọn trẻ biết rất rõ chúng có thể đi đến đâu. Vì vậy Tom không bỏ qua cơ hội thám hiểm càng xa càng tốt.

Cuối cùng khi mọi người ra khỏi hang, người ta ngạc nhiên là trời sắp tối. Chuông trên tàu đã gọi hành khách từ nửa giờ rồi. Tất cả bước lên tàu, mệt nhọc nhưng hài lòng về một ngày tuyệt diệu.

Trong lúc đó thì Huck ra sao? Huck đang ở vị trí canh gác. Bây giờ là mười giờ và gần như cả làng chìm trong bóng đêm và im lặng. Lúc mười một giờ đến lượt quán rượu tắt đèn và đêm tối mịt. Thời gian trôi qua chậm chạp, Huck đã cảm thấy hai mí mắt trụp xuống không cưỡng được… Thình lình, nó nghe một tiếng động nhẹ:

Có người đã mở cánh cửa ra con đường cụt!

Trong phút chốc hai bóng người bước ngang qua gần bên nó; một trong hai người cắp một vật gì đó dưới cánh tay! Chúng đem cái rương đi!.Nhanh lên, phải báo cho Tom mới được. Nhưng thôi, cứ theo dõi chúng thì hơn vì trong thời gian đi tìm Tom, bọn chúng sẽ biến mất và kho báu cũng mất theo!

Hai tên đó đi theo con đường mòn dẫn đến đồi Cardiff. Chúng ngang qua nhà một ông lão người xứ Galles rồi cứ tiếp tục đi. Bây giờ chúng đang đi về phía ngôi nhà của bà Douglas.

– Tốt quá. – Huck lẩm bẩm. – Nếu chúng chôn kho báu tại đây thì tìm lại sẽ không khó…

Giọng khàn khàn của Joe Da đỏ rít lên trong cảnh im lặng:

– Mẹ kiếp! Nhà mụ ta có người; cửa sổ đèn sáng!

– Tao chẳng thấy gì cả. – Tên đồng bọn nói.

Đó là giọng nói của tên lạ mặt trong ngôi nhà có ma. Biết đâu hai tên này tới đây để thực hiện việc trả thù mà chúng đã đề cập lần trước?

Huck cảm thấy mồ hôi lạnh chảy trên vai… Phải mau mau chạy trốn! Lúc co giò bỏ chạy, Huck nhớ lại bà Douglas lúc nào cũng rất tốt với nó, trong khi nhiều dân làng đối xử với nó như một con chó. Nó lấy lại can đảm và nán lại để biết thêm. Lúc ấy còn kịp thì giờ để tìm sự giúp đỡ của ông già xứ Galles.

– Mày nhìn đây. Nói gì thì nói, tao không thể từ bỏ chuyện trả thù. Lão thẩm phán chồng mụ ta đã kết tao tội du đãng và đã quất tao trước mặt cả làng, tao, một người Da đỏ! Lão đã chết nhưng mụ còn sống. Tao sẽ trói mụ vào giường, tao sẽ xẻ mũi mụ, tao sẽ cắt tai mụ…

– Trời ôi, mày nói nghe độc ác quá! Đừng trông mong ở tao. Tao không phải là đồ mọi rợ!

– Mày phải làm theo lời tao bảo, còn không tao sẽ tính chuyện cả với mày, hiểu không? Ta hãy đợi cho bọn kia đi đã…

Huck đã bắt đầu yên lặng rút lui, mỗi bước lại cầu Chúa xin đừng vấp ngã. Khi thấy mình đã cách hai tên kia khá xa, nó quay lui và chạy như bay đến nhà ông lão người xứ Galles. Nó đấm cửa túi bụi. Một lát sau, Huck tưởng chừng như lâu vô tận, ông già và hai thanh niên vạm vỡ xuất hiện ở cửa sổ.

– Này, có chuyện gì vậy? Ai đó?

– Huckleberry Finn. Mở cửa cho tôi mau lên, tôi van các ông. Đây là chuyện sống chết!

Cửa mở ra. Huck quỳ sụp xuống trước mặt ông lão.

– Xin đừng bao giờ cho hay tôi đã nói điều này với ông, nó sẽ giết tôi chết mất! Nhưng bà.Douglas lúc nào cũng tốt với tôi, nên tôi không thể để chúng làm như thế. ông hãy hứa không tiết lộ tôi nhúng tay vào việc này, xin ông hứa đi!

Khi ông lão người xứ Galles và hai con trai cuối cùng hiểu ra sự việc, họ lên đường, trang bị khí giới đầy đủ. Huck nấp sau một bụi cây, cách không xa nhà bà quả phụ. Khi nghe một tiếng súng nổ, nó co giò bỏ chạy.

Sáng hôm sau, khi đến gọi cửa, nó được ông già tiếp đón thân mật như một người bạn, điều này chẳng mấy khi xảy đến trong cuộc đời ngắn ngủi của nó.

– Cháu ạ, ta hy vọng cháu sẽ ngon miệng:

Bữa ăn sáng đang chờ chúng ta kia! Thế mà bọn này đã tưởng cháu sẽ trở về đây ngủ chứ…

– Nghe phát súng đầu tiên, cháu đã thoát chạy. Cháu đã chạy vượt tới năm cây số đấy!

Cháu đã không dám trở lại đây vì cháu sợ gặp “bọn chúng”, dầu sống hay chết. Bây giờ cháu đến để biết tin xem sao.

– Than ôi, ta đã bắt hụt chúng vì đúng lúc ta sắp đánh úp chúng, ta bị một cơn hắt hơi làm chúng biết nguy. Phía ta bắn theo hướng có tiếng động nhưng chúng đã chạy thoát mất. Bác đã báo cho hiến binh và ngay từ sáng nay, họ sẽ lục soát các mé sông và trong các khu rừng. Phải chi ta nắm được tướng mạo của chúng!

– Nhưng cháu biết: cháu đã theo dõi chúng từ trong làng. Một trong hai tên là lão câm điếc người Tây Ban Nha còn tên kia ăn mặc rất rách rưới.

– Đi báo cho ông cảnh sát trưởng đi, các con!

Hai người con trai của ông đứng dậy, Huck níu tay áo họ và năn nỉ:

– Đừng nói tôi đã cho biết tướng mạo của bọn chúng, xin thương hại tôi với! Khi họ đã lên đường, ông già trấn an Huck:

– Tụi nó sẽ không nói đâu, cháu đừng sợ.

– Số là đêm qua cháu ngủ không được. Chết thật! Một cái thùng phuy không phải bao giờ cũng tiện nghi… Vậy là đang khi cháu đi về phía quán rượu thì thấy hai kẻ đi ra. Chúng có vẻ ám muội và do tò mò cháu đã đi theo chúng. Lúc.đó, tên Tây Ban Nha nói là sẽ rạch nát mặt bà Douglas…

– Cháu nói sao, tên câm điếc nói hả?

Thằng Huck tội nghiệp cảm thấy nguy ngập:

càng cố tìm cách ngăn ông lão biết tên Tây Ban Nha là ai, nó càng rối trí. ông lão người xứ Galles kết luận.

– Cháu ơi, ta không muốn làm hại cháu đâu, trái lại là khác. Đã rõ cháu muốn giữ kín một điều bí mật gì đó. Vậy cứ yên tâm không cần nói ra làm gì. Ta không hỏi thêm nữa đâu.

Tin tưởng sự kín đáo, lòng tốt và sự cảm thông của ông già, Huck nói nhỏ cho ông ta hay lai lịch của tên giả làm câm điếc. ông già ồ lên một tiếng rồi kết thúc câu chuyện về chuyến thảo phạt giữa đêm khuya:

– Trước khi đi ngủ, bọn ta đã xem xét chỗ hai tên kia đứng và đã thấy một cái túi lớn đựng…

Huck la ớ một tiếng làm ông lão ngừng lời. Ông nói tiếp:

– … Đựng đồ nghề ăn trộm. Coi kìa, cháu muốn nó đựng cái gì khác nào?

Huck cuống cuồng sợ bị lộ bèn nói ngay ý đầu tiên thoáng qua đầu:

– Sách cho lớp học ngày chủ nhật!

Chẳng cần phải nói, ông lão bật cười ngất, lắc lư nghiêng ngả từ đầu tới chân! Về phần Huck, nó biết được một điều: kho báu vẫn còn để lại ở chỗ số hai. Ngay khi hai tên bất lương bị tóm, nó và Tom sẽ chiếm lấy nó dễ như chơi.

Sau bữa ăn sáng không lâu, có người gõ cửa.

Huck co mình lại, nấp trong một góc. ông già xứ Gallles mời nhiều người vào nhà, trong đó có bà Douglas đang cám ơn ông ta không ngớt lời.

– Thưa bà, chớ nói chuyện đó nữa, nhất là trong khi những lời cám ơn của bà lẽ ra phải dành cho một người khác hơn là bố con chúng tôi. Nhưng người ấy không cho phép tôi tiết lộ danh tánh của anh ta. Thật tình mà nói, nếu không có anh ta, chúng tôi sẽ không thể nào can thiệp kịp thời.

Mặc cho bao nhiêu câu hỏi dồn dập, ông lão vẫn không chịu nói thêm. Bà Douglas nói tiếp:

– Tôi đang đọc sách trên giường thì thiếp ngủ, quên cả tắt đèn. Tại sao ông không đánh thức tôi dậy cho tôi hay?

– Không cần phải làm bà kinh hoảng. Mấy tên cướp đó đã lặng lẽ cút đi và không có khả.năng chúng quay lại nhất là vì tôi đã để ba tên da đen đứng gác cho đến sáng. Bà không còn bị nguy hiểm nữa.

Sáng hôm đó, cả làng náo động. Họ kéo nhau đến nhà thờ thật sớm. Dân chúng chỉ quanh quẩn nói về các biến cố xảy ra đêm hôm qua mà ai cũng đều đã biết. Không tìm được một dấu vết nào của hai tên cướp. Khi buổi lễ chấm dứt bà Thatcher lại gặp bà Harper ở lối ra và vui vẻ hỏi.

– Con bé Becky của tôi còn ngủ sao?

– Becky? – Người đối thoại ngạc nhiên hỏi.

– Ủa, nó không đến ngủ lại nhà bà sao?

– Đâu có.

Nghe nói thế, bà mẹ tội nghiệp tái mặt, ngồi sụp xuống trên một cái ghế gần đó, bủn rủn tay chân. Ngay lúc đó dì Polly tiến lại và hỏi thử xem có phải Tom đã ngủ tại nhà bà ta không?

Khi biết rõ Tom và Becky không ngủ tại nhà ai cả, sự lo lắng bắt đầu lộ ra trên nét mặt mọi người. Vậy hai đứa đã ở lại đâu? Người ta bèn hỏi những đứa lớn lo việc trông nom lũ trẻ.

Trong bóng tối, chúng đã không thể kiểm tra được đứa nào vắng mặt. Như vậy là không ai để tâm xem thử Tom và Becky có lên tàu hay không.

Không đứa trẻ nào nhớ đã thấy chúng trên tàu cả. Hẳn rằng hai đứa đã còn lại trong hang động!

Nghĩ đến điều đó, bà Thatcher và dì Polly ngất xỉu. Người ta đánh chuông cấp báo. Trong vòng năm phút, cả làng đã sẵn sàng bắt đầu đi tìm kiếm. Không ai nghĩ đến bọn cướp nữa. Mọi đàn ông kéo nhau tới hang đá trong lúc các bà vây quanh hai bà mẹ khốn khổ. Cuộc tìm kiếm kéo dài suốt cả đêm. Đến sáng, dân làng nhận được một lời nhắn vỏn vẹn chỉ có mấy chữ: “Xin gởi thêm đèn cầy và thức ăn” ông già người xứ Galles mờ sáng hôm sau mới trở về nhà, quần áo lấm đất sét và mỡ nến, mệt đến đứt hơi. Huck nằm trên giường mà ông lão đã chuẩn bị cho nó và run cầm cập: nó bị lên cơn sốt nặng đến mê sảng. Bà Douglas đến săn sóc thằng bé bị bệnh. Bà cam đoan sẽ hết sức cố gắng, bởi vì mặc dù Huck có nhiều tật xấu, chắc chắn trong người nó cũng có cái tốt vì nó là một tạo vật của Chúa sinh ra.

– Ồ, tôi cam đoan với bà thằng bé này có điểm tốt! – ông lão người xứ Galles nói ra vẻ quả quyết.

Người ta vẫn tiếp tục tìm kiếm: mỗi ngóc ngách, mỗi khe hở đều được nhìn kỹ. Tại một.nơi khá xa khu vực thường có khách tham quan đi đến, người ta bắt gặp hàng chữ sau đây, viết bằng bồ hóng của đèn cầy: “Becky và Tom”. Xa hơn một chút là giải buộc tóc của Becky. Khi nhận ra di vật này, bà Thatcher nắm chặt trong tay, bật khóc nức nở: liệu bà có thấy lại cô con gái mình nữa không?

Ba ngày, ba đêm trôi qua; bao nhiêu tìm kiếm cũng đều chẳng có kết quả. Sự thất vọng sâu xa thế chỗ cho niềm hăng hái lúc đầu. Người nào cũng bắt đầu không tin có hy vọng tìm ra chúng.

Huck vẫn còn sốt. Nó muốn biết tin về Tom (người ta giấu không cho biết Tom mất tích) và về quán rượu. Cuối cùng, không chịu nổi nữa, nó bèn đặt câu hỏi đang nóng bỏng trí tưởng tượng của nó:

– Từ khi tôi bị bệnh đến giờ, người ta có phát hiện ra cái gì tại quán Tempérance không?

– Có, cháu ạ!

– Cái gì vậy? – Nó hỏi, nét mặt hớt hải, chờ đợi một điều tồi tệ hơn.

– Rượu… Người ta đã đóng cửa quán rượu.

– Có phải Tom đã phát hiện ra nó không?

Nghe hỏi vậy, bà Douglas bật khóc nức nở và nói là không phải.

Thế là kho báu đã mất, bởi vì nếu người ta đã lục lọi, tìm thấy rượu, chắc họ cũng đã bắt gặp cái rương… Tiếc thay! Tức giận quá đỗi rồi Huck ngủ thiếp đi. Bà Douglas nhìn ngắm nó rất lâu.

– Tội nghiệp thằng bé nó ngủ. Nếu như nó biết rằng Tom đã mất tích và lúc này chỉ một mình bà dì đáng thương của nó còn hy vọng!…

* * *

Chúng ta hãy trở lui lại câu chuyện. Tom và Becky đã làm gì khi ở trong hang? Thoạt tiên chúng chơi cút bắt một cách hào hứng. Sau đó, mệt đứt hơi, chúng thám hiểm nhiều hành lang tạo thành mê cung, thỉnh thoảng tìm đọc những hàng chữ ghi nguệch ngoạc trên vách đá. Mải mê nói chuyện, hai đứa không để ý là các dòng chữ đó mỗi lúc một ít thấy, rồi không còn gì nữa.

Chúng đến một nơi có một dòng nước mảnh chảy ra từ một dốc núi gần như trong suốt. Tom lẻn ra sau bức màng đá mỏng và lấy đèn soi, khiến Becky thích thú vỗ tay trước cảnh đẹp kỳ diệu. Sau bức màn đá, đường dốc như một cầu.thang tự nhiên nằm giữa hai bờ đá gần nhau. Say mê khám phá, Tom gọi Becky đi theo nó. Sau khi dùng khói ghi một dấu hiệu để làm mốc, hai đứa bé đi sâu vào khe hở. Cuối cùng chúng đi đến một căn phòng rộng lớn có nhiều thạch nhũ treo lủng lẳng. Sau khi ngắm nghía chán mắt, chúng đi theo một hành lang dẫn chúng đến một dòng thác tuyệt đẹp rỉ ra từ các tảng đá và đáy vũng nước lấp lánh như nạm thủy tinh kỳ diệu.

Nhưng ánh sáng các ngọn nến của hai đứa trẻ làm lũ dơi bám trên trần hang hoảng sợ. Chúng đáp ào xuống các cây nến và phát ra những tiếng kêu eo éo đinh tai. Tom kịp thời kéo Becky vào một hành lang gần nhất. Bị một cánh dơi quạt mạnh, ngọn nến của Becky phụt tắt. Nhưng lũ dơi vẫn tiếp tục đuổi theo hai đứa trẻ. Chúng chạy từ hành lang này qua hành lang khác và cuối cùng vượt xa lên trước. Hai đứa đến một cái hồ nước khác. ở đây hoàn toàn im lặng và mát mẻ làm chúng bỗng nhiên cảm thấy dễ chịu.

Lần đầu tiên chúng nhận ra đang ở một nơi heo hút lẻ loi.

– Hình như lâu quá chúng ta không nghe thấy tiếng người khác. – Becky nói nhỏ, vẻ lo ngại. – Chúng ta quay trở lại có hơn không, Tom?

– Đồng ý, Becky ạ. Phiền một nỗi là phải tránh lũ dơi vì lần này không thể để chúng làm tắt hai cây nến của chúng ta. Thử tìm một con đường khác xem sao.

– Tom muốn vậy cũng được. Miễn sao chúng ta khỏi đi lạc. – Cô bé run run nói thêm.

Hai đứa trẻ đi bừa theo một hành lang, nhìn phải nhìn trái với hy vọng nhận ra con đường chúng đã đi hồi nãy, nhưng chúng thấy hoàn toàn xa lạ.

Tom cố gắng che giấu sự lo ngại bắt đầu chớm nở trong lòng và hết sức tìm cách khích lệ Becky thêm can đảm:

– Không sao cả. Chưa gặp được đúng đường nhưng không lâu nữa đâu. Thế nào chúng ta cũng sẽ gặp.

Sau một giờ đi mò mẫm, Becky cuối cùng nài nỉ Tom trở lại theo đường có bầy dơi. Nước mắt lăn dài trên má, nó sợ quá bèn bám chặt tay Tom.

– Hãy khoan, để Tom cất tiếng gọi. – Tom nói.

Nhưng chỉ có tiếng vang đáp lại, ghê rợn và buồn thảm dội từ vách đá này sang vách đá khác..- Tom ơi, đừng gọi nữa, nghe dễ sợ quá!

– Phải gọi chứ Becky! Biết đâu có ai đó có thể nghe thấy tiếng chúng ta…

Trong tiếng “có thể” ngầm chứa biết bao là tuyệt vọng! Hai đứa đứng im, căng tai lắng nghe từng tiếng động nhỏ. Than ôi, tai chúng chẳng nghe một tiếng nào. Vậy là chúng quyết định trở lui đường cũ sẵn sàng chấp nhận đương đầu với bầy dơi một lần nữa. Nhưng trong tâm trí chúng hiện ra ngay một sự thật chắc chắn khủng khiếp:

Chúng đã lạc đường. Trong lúc vội vã trốn thoát bầy dơi chúng đã quên không đánh dấu… Chúng mặc sức tìm kiếm mà vẫn không tìm lại được đường cũ!…

– Tom ơi, chúng ta sẽ không bao giờ tìm được lối ra khỏi hang động ghê gớm này! Đời chúng ta tiêu mất rồi! Tại sao ta đã tách ra khỏi bọn họ làm gì? Chúng ta phải trả giá đắt cho sự bất cẩn đó…

Tinh thần bị khủng hoảng thật sự, Becky ngồi bệt xuống đất. Tom phát sợ: cả hai đứa sắp mất trí cả chăng? Nó ôm chặt Becky và vỗ về cho đến khi con bé bình tĩnh lại. Thế rồi nó khẩn khoản van con bé đừng nản lòng: sự sống còn phụ thuộc vào sự bình tĩnh của chúng. Phải cố tìm mọi cách. Nhưng Becky cảm thấy không còn sức lực. Lòng giày vò vì hối hận, Tom hạ mình xin con bé tha lỗi. Lúc đó Becky giật mình:

Nó cũng có lỗi như Tom vì đã không làm gì, nói gì để ngăn cản Tom khi còn kịp. Con bé bèn đứng lên, nụ cười run rẩy trên môi. Nó tắt cây đèn của mình để tiết kiệm.

Chúng lại tiếp tục đi, không mục tiêu rõ rệt, đi cầu may bởi vì hy vọng duy nhất của chúng chỉ còn có thế thôi. Đi, đi mãi biết đâu rồi sẽ tới. Nhưng dần dần chúng cảm thấy mệt, nhất là Becky, chẳng bao lâu đôi chân yếu ớt của nó rụng rời bởi vì nó đâu có như Tom đã từng quen chạy mải miết qua khắp miền quê. Tom ngồi xuống bên cạnh nó, thử tìm mọi cách an ủi và giải khuây bằng cách nói về những gì chúng sẽ làm khi trở về nhà, gặp lại bạn bè và ánh sáng ban ngày! Được ru bằng hy vọng, Becky thiếp ngủ trên hai cánh tay Tom và khuôn mặt nhăn nhó vì lo âu bây giờ tìm lại được vẻ dịu dàng, thanh thản nhờ ảnh hưởng của những giấc mơ êm ái. Nhưng giấc ngủ kéo dài không lâu và con bé thức dậy buông một tiếng than làm cho lòng Tom tan nát.

– Phải chi Becky không bao giờ thức dậy nữa!

Ác mộng quá kinh khủng! Xin lỗi Tom nhé,.Becky thấy mình đã làm Tom khổ tâm. Becky sẽ không làm vậy nữa, Becky sẽ can đảm.

– Becky ạ, Tom thề với Becky là Tom sẽ tìm được lối ra!

Hai đứa bé đứng lên và cầm tay nhau, tiếp tục bước đi. Tom cố tìm cách nâng cao nghị lực và hăng hái trong lòng con bé trong khi bản thân nó chẳng có bao nhiêu. Thời gian khắc nghiệt trôi qua và cơn khát bắt đầu hành hạ chúng. Hai đứa bảo nhau đi hết sức êm nhẹ để nghe được tiếng nước chảy nếu may ra chúng chợt ngang qua gần một dòng suối. Cuối cùng chúng cũng bắt gặp một con suối. Sau khi đã khát, lần này lại đến đói cồn cào. Tom lấy trong túi ra một miếng bánh ngọt nhỏ.

– Becky có nhớ cái này không? – Nó hỏi.

– Bánh cưới của chúng ta – Becky trả lời, mỉm cười buồn bã…

– Than ôi, chúng ta chỉ còn chừng này…

– Becky đã nghĩ rằng khi về đến nhà, hai đứa mình mỗi người sẽ để một miếng bánh dưới gối, như những người lớn thường làm khi họ cưới nhau. Nhưng với chúng ta, rồi đây nó sẽ không là bánh cưới mà là bánh…

Giọng nghẹn ngào, nó không nói hết câu.

Tom chia bánh ra làm hai và đưa phần cho Becky.

Con bé ăn ngấu nghiến. Còn Tom, nó bỏ phần mình lại vào túi. Becky đề nghị đi tiếp nhưng Tom ngăn lại. Nó nghiêm trang nói:

– Becky ạ, chúng ta phải ở lại đây nơi có nước và chờ người đến cứu. Đây là cây nến cuối cùng của Tom.

Becky lặng người sửng sốt, bèn tính toán nóng nảy:

– Giờ này thế nào ở nhà cũng đã nhận ra chúng ta vắng mặt. Tối đến khi mẹ Becky không thấy Becky về, ắt bà đã báo động cho mọi người hay và chắc chắn họ đã lên đường…

Bỗng cô bé ngừng nói, mặt tái xanh.

– Tom à, mẹ Becky không ngóng chờ Becky trước ngày chủ nhật đâu. Mẹ tưởng Becky đang ở nhà Suzy!

Hai đứa sững sờ, thất vọng trước đòn định mệnh mới giáng xuống, chỉ còn biết im lặng nhìn cây nến cuối cùng tàn lụi. Chẳng lâu sau, chúng điếng người kinh hãi nhìn ánh lửa bùng lên lần chót trước khi tắt hẳn. Lúc này bóng tối bao trùm toàn diện..Sau một lúc lâu chúng mới thoát khỏi tình trạng thẫn thờ và cảm thấy cái đói hành hạ dữ dội hơn. Tom hào hiệp đưa Becky nguyên phần bánh của nó nhưng vẫn làm bộ giữ lại một miếng cho mình.

Thình lình, những tiếng gọi yếu ớt làm chúng giật mình. Hy vọng điên cuồng, hai đứa bé hết sức la lớn để trả lời. Tom cầm bàn tay bạn, hai đứa mò mẫm bước về hướng phát ra tiếng kêu.

– Chúng ta thoát chết rồi! Họ đã đến tìm chúng ta!

Nhưng bước tiến của chúng vốn đã chậm lại bị chận bởi một cái khe đá lớn hơn các khe khác.

Tom rạp mình nằm sấp, thò tay xem nó sâu đến cỡ nào. Nó sờ không đụng đáy. Hai đứa đành đứng tại chỗ, chờ tiếp cứu. Nhưng cả hai rụng rời sửng sốt khi nhận ra những tiếng kêu kia càng lúc càng xa thay vì tới gần… Đến lúc chúng đành chấp nhận các tiếng gọi đã tắt hẳn…

Thêm một phen não nề vì số phận, Tom và Becky mò mẫm trở lại chỗ nguồn suối. Tuyệt vọng và đói lả người, chẳng mấy chốc chúng mơ màng thiếp ngủ. Một lát sau, ý chí Tom chợt bừng lên một lần cuối; nó quyết định thăm dò các hành lang rẽ ngang hai bên. Nó ôm hôn Becky đang nằm mê man rồi cất bước ra đi. Để khỏi bị lạc, nó vừa tiến lên vừa tháo cuộn dây thả diều. Thình lình nó thấy một ánh sáng mờ mờ cách xa chừng hai chục thước: một bàn tay đang cầm cây nến! Tom cất tiếng la lớn… và người cầm nến hiện ra trước mắt: đó là Joe Da đỏ. Điếng người vì sợ hãi, tay chân bủn rủn, thằng bé đứng chết cứng và im lặng trong khi đó tên đàn ông kia bỏ chạy. Cuối cùng, Tom bắt đầu cựa quậy chân tay rồi tức tốc trở về với Becky.

Sau khi bình tĩnh lại, Tom bắt đầu thám hiểm một hành lang khác, vẫn vừa đi vừa thả sợi dây diều quý báu theo sau mình như lần trước.

Nhưng không thành công vì hành lang này chẳng đi đến đâu cả. Với sự ngoan cường một cách máy móc và đói lả, Tom bò vào một hành lang thứ ba có trần rất thấp. Ngay khi cuộn dây đã thả ra hết và nó chuẩn bị quay trở lui lần nữa, nhân vật anh hùng của chúng ta chợt nhận ra một ánh sáng mờ ở xa xa… Buông sợi chỉ, nó bò về hướng đó cho đến khi thò được đầu và hai vai qua một lỗ hổng hẹp: nó lóa mắt nhìn thấy dòng sông Mississipi đang cuồn cuộn! Lòng náo nức như điên, nó tức tốc quay bước trở lại báo.tin cho Becky biết. Nhưng con bé ủ rũ, thờ ơ, mất hết ý chí, không chịu tin: nó muốn chết yên ổn và mong người ta để cho nó yên… Tom lay con bé và truyền cho nó được một chút nghị lực.

Thế rồi hai đứa chui qua lỗ hổng và ra dấu với những người chèo thuyền ngang qua. Thấy chúng đang trong tình cảnh đáng thương, các người này không nấn ná thì giờ và đưa chúng vào ngôi nhà gần đó nhất cho chúng ăn uống. Không lâu sau chúng lịm mắt ngủ say. Cái lỗ nhỏ mà chúng thoát qua nằm cách xa cửa vào hang đến tám cây số!

Khi chúng tỉnh táo lại giữa đêm khuya khoắt, những người ấy dẫn chúng về làng. Cả làng đang chìm đắm trong cảnh buồn rầu: mặc cho bao nhiêu lời cầu nguyện ở nơi công cộng và ở nhà riêng, các đứa bé vẫn chẳng được tìm ra! Dần dà, những người tìm kiếm đã trở lại công việc thường ngày của họ; duy chỉ ông Thatcher dẫn đầu một toán nhỏ đang còn ở trong hang. Tình trạng của bà Thatcher thật trầm trọng: bà mê sảng, đứng ngồi không yên, ngày đêm tưởng chừng nghe những tiếng kêu của Becky mà lòng đau như xé.

Về phần dì Polly đáng thương, mái tóc đã bạc trắng và đôi mắt đỏ hoe chứng tỏ bà đã tuyệt vọng mất ngủ nhiều đêm.

Và thế là thình lình giữa đêm khuya, tiếng chuông tiếng la đánh thức dân làng đang ngủ say.

Mọi người ai nấy đều túa ra, áo chưa kịp mặc và kéo nhau thành một đoàn dài mỗi lúc càng đông đi về phía dòng sông để đón hai đứa trẻ.

Người ta la vui, hoan hô, chúc tụng, cầu nguyện tưng bừng cảm tạ Thượng đế và tán thán không ngớt lời. Khắp làng đèn đuốc sáng trưng, không ai nghĩ đến việc đi nằm ngủ lại. Ai nấy đều bình luận về biến cố đã qua. Trong gần cả tiếng đồng hồ, khách lũ lượt vào nhà của gia đình Thatcher, tất cả đều muốn ôm hôn hai đứa trẻ, bắt tay người mẹ sung sướng, ôm choàng dì Polly và đương nhiên là muốn nghe kể câu chuyện cứu hai đứa trẻ.

Và Tom ngồi thoải mái trên một ghế trường kỷ, không đợi nài nỉ, sẵn sàng thuật lại chuyến phiêu lưu kỳ lạ. Câu chuyện càng ra vẻ ly kỳ khó tin hơn nhờ tài kể chuyện và trí tưởng tượng phong phú của nó. Nó nói nó đã đi xa hết chiều dài cuộn dây diều để thăm dò hai cái hành lang nhưng không kết quả; sau đó nó đi liều vào một hành lang thứ ba và sắp sửa quay trở lại thì có một ánh lửa ở đằng xa khiến nó phải chú ý. Nó thả đầu dây xuống, bò về hướng ấy và cuối cùng rất kinh ngạc đụng phải một lỗ nhỏ nằm… ngay trên bờ sông Mississipi! Mừng rơn, nó quay lại tìm Becky. Cô bé lúc đầu không tin, yêu cầu để cho nó chết yên thân, đừng một lần nữa ru ngủ nó bằng ảo tưởng.

Nó đã năn nỉ và con bé cực chẳng đã đi theo nó: thấy ánh sáng ban ngày, con bé tưởng chừng như ngất đi vì nhẹ nhõm! Tom đã luồn qua lỗ hổng và sau đó đỡ cho con bé bò qua. Nhiều phút trôi qua, hai đứa ngồi yên lặng khóc lên vì sung sướng. Khi có một chiếc thuyền ngang qua, Tom đã kêu những người đàn ông trên thuyền và giải thích cho họ biết hoàn cảnh như thế nào. Những người này lúc đầu không tin lời nó vì cái lỗ hai đứa chui qua ở cách xa lối vào hang đến tám cây số về phía hạ lưu. Nhưng thấy bộ mặt đau khổ của chúng, họ đã dẫn chúng vào một ngôi nhà. Chúng được ăn và ngủ vài giờ trước khi được đưa trở về làng.

Người ta vội vàng báo tin cho ông Thatcher và nhóm người của ông ta ngừng công việc tìm kiếm vì bây giờ không ích gì nữa. Người cha bất hạnh vui mừng ôm con gái vào lòng.

Tom và Becky suy kiệt tinh thần vì ở trong hang lâu mấy ngày và bị nhịn đói quá mức. Becky liệt giường suốt tuần lễ, khi đi đứng được cô bé xanh xao gầy guộc như vừa qua một cơn bệnh dài ngày. Tom có sức chịu đựng giỏi hơn bạn nên chỉ hai ngày sau là nó lại sức.

Tom biết tin Huck cũng đang bị bệnh. Ngay khi đi lại được, nó đến bên giường thăm hỏi Huck. Nó chỉ được phép nói chuyện với bạn với điều kiện dứt khoát không thuật lại chuyến phiêu lưu trong hang và nói chung là không nói gì có thể làm bất an hay khuấy động người bệnh. Bà Douglas tốt bụng rất quyến luyến thằng bé, để tâm canh chừng chặt chẽ để giữ đúng lời dặn.

Tom được dì Polly cho biết về cuộc tấn công hụt ở đồi Cardiff và xác chết của người đàn ông rách rưới được vớt ở dưới sông. Người ta cho rằng hắn ta đã chết đuối khi tìm đường tẩu thoát.

Một hôm Tom đến thăm Becky và được bố con bé tiếp. Bằng giọng giễu cợt thân ái, ông hỏi nó có muốn trở lại hang không. Thay vì bối rối bởi câu hỏi trêu trọc, Tom mạnh dạn trả lời:

– Có chứ! Rất có thể cháu sẽ vào đó trong vài ngày tới..- Thế thì cậu ạ, cậu sẽ gặp điều bất ngờ khó chịu: từ nay sẽ không ai vào đó được nữa đâu.

Tôi đã cho đóng cửa hang và một mình tôi giữ chìa của ba ổ khóa.

Mặt Tom trắng bệch như tờ giấy. Thấy nó bất ngờ tái xanh, bà Thatcher vội đỡ nhân vật anh hùng của chúng ta ngồi xuống và lấy khăn ướt chặm trên trán cho cậu ta.

Khi ông Thatcher thấy Tom có vẻ tươi tỉnh lại, ông hỏi nguyên nhân vì sao nó xúc động:

– Có chuyện gì vậy cháu?

– Thưa ông Thatcher, có Joe Da đỏ ở trong hang cùng lúc với bọn cháu và giờ này, chắc hắn còn trong đó.

Tin này lan nhanh khắp trong làng. Một đoàn thuyền tức thì trực chỉ đảo MacDougal.

Chiếc tàu hơi nước chở đầy kẻ hiếu kỳ đi theo sau. Về phần Tom, nó ngồi trên chiếc thuyền của ông Thatcher.

Khi ba ổ khóa được mở và cánh cửa nặng nề đẩy sang một bên, một cảnh tượng gớm ghiếc đập vào những cặp mắt kinh hoàng: Joe Da đỏ đang nằm dài chết cứng trên mặt đất, khuôn mặt hắn áp vào cánh cửa và thân hình vươn về phía lối ra, chứng tỏ hắn đã cố gắng đến cùng để thoát khỏi định mệnh.

Trước xác chết của hắn, Tom không ngăn được lòng thương hại đối với kẻ khốn khổ vì kinh nghiệm cho nó biết con người này đã trải qua những giây phút khủng khiếp ra sao. Nó nhớ rất rõ những thống khổ đã hành hạ nó khi bị kẹt trong lòng hang đá. Nhưng đồng thời nó thấy lòng tràn ngập cảm giác nhẹ nhõm và yên tâm. Rốt cuộc, nỗi đe dọa khủng khiếp rình rập kể từ ngày nó làm chứng trước tòa tan biến và chỉ còn lại một kỷ niệm khó chịu! Nó được trút khỏi một gánh nặng ghê gớm.

Con dao của Joe Da đỏ nằm bên cạnh hắn, lưỡi đã gãy. Hắn đã cố đục khoét cánh cửa nhưng hoài công…

Thông thường, lúc nào người ta cũng thấy những mẩu nến vụn do du khách bỏ lại trong các hốc đá. Bây giờ không còn một mẩu nào: Joe Da đỏ đã nuốt hết. Nó cũng đã ăn một vài con dơi, chỉ chừa lại xương. Để có nước uống, kẻ bị giam trong hang đã đào một hố nhỏ bên dưới.một thạch nhũ để hứng những giọt nước quý giá từ đó rỉ ra đúng ba phút một giọt. Mỗi ngày chỉ đầy một muỗng cà phê…

Người ta quyết định chôn kẻ xấu số gần cửa hang. Hôm đó, nhiều người vô công rồi nghề đi bằng tàu thủy hoặc xe bò lũ lượt kéo cả vợ con, đem theo những giỏ đồ ăn đến chứng kiến: họ cũng cảm thấy khoái trá như thấy y bị treo cổ.