Trí Tuệ Do Thái

Chương 16: Jerome - Bậc Thầy Của Trí Tuệ Do Thái

Một năm đã trôi qua kể từ ngày Jerome và Lisa tuyên bố với chúng tôi về lễ cưới của họ, một năm đầy ắp những sự kiện thú vị và những thay đổi trong cuộc sống của tất cả chúng tôi.

Fabio, tùy bạn có tin hay không, đã mở thêm một quán rượu nhỏ ở đường Hanaviim, anh ta đặt tên quán là ‘Yiddishkeit.’ Café Ladino vẫn hoạt động bình thường; thực ra, nó đã dần dần chuyển từ một quán cà phê nhỏ thành một nhà hàng chuyên ẩm thực Do Thái – Tây Ban Nha. Thậm chí, các nhà phê bình ẩm thực của báo chí Jerusalem còn tặng cho quán hạng bốn sao.

Hiếm khi lắm Café Ladino mới đóng cửa, trong những dịp đặc biệt. Tuy nhiên, điều đó đã xảy ra vào một ngày thứ ba nóng nực giữa tháng 7. Café Ladino được chọn làm nơi tổ chức đám cưới của năm, tiệc cưới của Jerome Zomer và tình yêu của cuộc đời hắn, Lisa Goldman.

Ngay từ lúc cặp đôi quyết định kết hôn, đã không có nghi ngờ gì về nơi tổ chức đám cưới. Café Ladino là ngôi nhà thứ hai của Jerome, là nguồn cảm hứng của hắn. Chính ở nơi đó, hắn đã khám phá những phương pháp ghi nhớ của Schneiderman, học với Hevrutah của mình, Itzik, cầu hôn Lisa và tụ tập với những người bạn thân nhất. Cũng chẳng có gì phải nghi ngờ về chuyện ai sẽ đứng ra cử hành hôn lễ. Thầy Dahari đã rất hân hạnh và vui mừng được đôi bạn trẻ mời làm người chủ trì thực hiện những nghi thức của buổi lễ.

200 khách mời, sức chứa tối đa của quán, đã tới dự lễ cưới. Joseph Hayim Schneiderman không có mặt vì ngại mình sẽ thấy không thoải mái tại một sự kiện có cả đàn ông và phụ nữ. Nhưng, cậu đã rất tốt bụng khi gửi tới một món quà và những lời chúc mừng nồng nhiệt nhất.

Tôi rất vui khi được gặp lại Samuel, ông bác của Lisa, người đã cất công bay từ Bỉ về để dự đám cưới.

Fabio đã chuẩn bị hệ thống ánh sáng cực kỳ ấn tượng làm cho quán cà phê trông giống như một pháo đài thời Trung cổ. Những vị khách được chào đón bởi một ban nhạc đến từ Tzfat, họ mix nhạc rất điệu nghệ. Đôi uyên ương trông đẹp đến ngỡ ngàng. Lisa mặc một chiếc đầm trắng mà mẹ cô may còn Jerome mặc vest với áo sơ mi trắng và cà vạt. Bộ vest của hắn, thật may không trở thành nạn nhân của phong cách màu mè thái quá thường ngày, nhưng đó vẫn là một bộ đồ không giống ai – nó được may bằng vải màu tím tươi, chỉ màu tím, không còn màu gì khác ngoài màu tím. Nhân ngày đặc biệt của cuộc đời mình, hắn cắt tỉa cái đầu xù của hắn. Mái tóc ngắn làm hắn trông có vẻ rất nghiêm túc. Tôi thì nghĩ rằng phong cách mới này rất hợp với hắn.

Phông đám cưới được căng bên ngoài sân. Việc đón khách kéo dài đến tận quá nửa đêm. Ai cũng thấy rất vui vẻ và thoải mái.

Khách khứa lần lượt ra về hết. Những người phục vụ quán bắt đầu dọn dẹp bàn. Chỉ còn lại vài người, những người bạn thân nhất của Jerome nán lại. No nê sau bữa tiệc, chúng tôi tập trung thành một vòng tròn, Jerome ngồi cạnh Lisa, chiếc áo sơ mi hắn mặc ướt đẫm mồ hôi vì nhảy nhót, khiêu vũ nhiều quá.

Tôi quàng cánh tay lên vai hắn và vỗ vỗ vào đầu hắn. “Thế này mới là đám cưới chứ!” tôi tuyên bố. “Vui quá!”

“Cảm ơn cậu.” Hắn thở ra nặng nhọc và lau mồ hôi trên trán.

Trên chiếc cà vạt của Jerome, người ta có thể nhận thấy những chính trị gia dưới hình dáng của những con vật: Dick Cheney trong hình một chú gấu, Ariel Sharon có thân hình một con rùa, Clinton trong bộ dạng của một con hươu cao cổ và George Bush Con với cái thân của một con rắn. Sau đó, Jerome bỏ chiếc mũ màu tía trên đầu ra và cho chúng tôi thấy hình in trên đó: hai con thỏ, một con mặc vest và một con mặc váy cưới, đang khiêu vũ với nhau trong hạnh phúc.

“Tớ đã đặt cái này riêng cho đám cưới đấy. Trên thế giới này không có cái thứ hai đâu,” hắn khoe. “Một ngày nào đó, đến lúc tớ trở thành cha của Tổng thống Israel, tớ sẽ bán nó với giá một triệu đô-la.” Hắn nắm lấy bàn tay của Lisa.

“Cậu nghĩ ai sẽ mua nó chứ?” tôi hỏi.

“Tôi sẽ mua,” Samuel lên tiếng khi ông gia nhập vòng tròn của chúng tôi.

Jerome đứng dậy và kéo thêm một chiếc ghế nữa, “Bác ngồi đi,” hắn chỉ vào chiếc ghế.

Samuel rút chiếc tẩu khỏi miệng, cảm ơn Jerome và ngồi xuống với chúng tôi. “Ý tưởng cực hay đấy,” ông nói và chỉ vào bộ trang phục độc đáo của Jerome.

“Đó là một sự cải tiến tích cực cho những thứ quần áo nhàm chán,” Jerome mỉm cười với người đã đưa cậu đến với bí quyết về sự sáng tạo của người Do Thái.

“Vậy sao cậu không tiếp thị chúng đi?” Samuel gợi ý.

Jerome gật đầu và chỉ vào Itzik Ben-David. “Bác Samuel, cháu xin giới thiệu với bác, đây là Itzik Ben-David, đối tác kinh doanh mới của cháu và là người chịu trách nhiệm về dòng sản phẩm giả-thanh lịch mới.”

“Giả-thanh lịch?” Samuel nhắc lại.

“Các phụ kiện thời trang thanh lịch với những nét phá cách vui nhộn,” Itzik giải thích. “Dòng sản phẩm này hướng tới đối tượng là những doanh nhân, cộng đồng tôn giáo và những người có đầu óc cởi mở với cách tiếp cận đời sống lành mạnh và cũng có một ví tiền khá dày nữa.”

“Samuel, bác biết đấy,” Jerome bắt đầu sau khi uống sạch ly rượu và đặt xuống bàn, “trong tất cả những bí quyết và kiến thức mà bác đã dạy, sự ảnh hưởng của bác tới cuộc sống của cháu, có một điều cháu sẽ biết ơn suốt đời. Đó là, bác đã nhờ cháu làm người đưa thư.”

Samuel gật đầu hiểu ý.

“Cái khoảnh khắc bác nhờ cháu đưa chiếc phong bì cho Lisa,” Jerome nói tiếp, “bác đã quyết định cuộc đời cháu. Thật vô tình, tất nhiên là vậy rồi, bác đã cho cháu món quà quý giá nhất trên thế gian này.”

Samuel nhìn cô cháu gái âu yếm, có vẻ ngạc nhiên. Lisa, rõ ràng hiểu ý nghĩa của nét mặt đó, lắc đầu. Có một điều bí ẩn nào đó đang bao trùm không khí.

Lisa mở túi xách và lấy ra một chiếc thiệp nhỏ. Cô nắm chặt tay Jerome một lần nữa.

“Anh biết không, lần đầu tiên chúng mình gặp nhau ở thư viện trường đại học ấy, trong chiếc phong bì mà bác Jerome nhờ anh đưa cho em là cái này,” cô nói với chồng.

Jerome cầm tấm thiệp và nhìn chăm chăm vào đó, mắt mở to. Miệng hắn bỗng há ra rồi hắn quay sang Samuel và Lisa đầy hoài nghi.

Lisa lấy lại tấm thiệp từ tay Jerome và đọc to cho tất cả chúng tôi cùng nghe. “Lisa thân mến. Cháu gặp Jerome nhé. Bác có ấn tượng tốt về cậu ấy. Chúc cháu may mắn!”

Jerome vò đầu bứt tai, cố gắng hiểu chuyện vừa được tiết lộ.

“Trong phong bì là cái này sao?!” Hắn kêu lên.

“Cái đó, và 300 đô-la nữa,” Samuel cười toe toét. “Nhưng, ta phải thú nhận rằng tấm thiệp mới là mục đích chính.”

Jerome đưa hai tay lên đầu. Mắt hắn sáng lên. “Cháu cảm động quá,” hắn nghẹn lời. “Bác đã đưa cháu đến với một trong những người thân yêu nhất trong cuộc đời bác, và hoàn toàn có chủ ý!” Tôi thấy những giọt nước long lanh đang ầng ậng dâng đầy trong mắt hắn. “Mà bác mới chỉ gặp cháu có đúng một lần!” Hắn tiếp tục lắc đầu. “Chưa bao giờ có ai nhìn cháu như vậy… nhìn nhận cháu như một người đáng để giới thiệu cho người thân của mình… một người thực sự xứng đáng…” Hắn lắp bắp và nước mắt bắt đầu chảy xuống mặt.

Mặc dù có thể hành động thổ lộ tình cảm của hắn một phần là do hắn đã uống nhiều nhưng chúng tôi biết đây là lời khen đáng giá nhất mà hắn từng nhận được.

“Và hai người còn không hề có chung nền tảng giáo dục hay phong cách sống,” tôi nhận xét.

“Ôi, cái đó đâu có quan trọng gì,” Samuel trả lời. “Chúng có tính cách giống nhau,” ông giải thích. “Trong hóa học và tình yêu, chẳng có khoảng cách nào là không vượt qua được. Phong cách sống, nhu cầu, sở thích… tất cả đều chẳng có nghĩa lý gì và đâu cần phải là thiên tài mới nhận ra được những phẩm chất của Jerome.”

Jerome đứng dậy, đi về phía Samuel và ôm lấy ông thật chặt. Samuel, có vẻ hơi xấu hổ, đáp lại cái ôm của Jerome đầy thấu hiểu và yêu thương.

“Có điều rất thú vị là,” tôi nói với Samuel, “sau khi chúng ta chia tay nhau ở Paris, Jerome đã hỏi tôi là liệu tôi có giữ liên lạc với ông không.” Tôi nháy mắt với Jerome. “Tôi nghĩ là có.”

Khi tất cả đã lắng dịu, Samuel ngồi thẳng lên, rít một hơi thuốc và đưa tay về phía Jerome. “Ta nghĩ không thời điểm nào hoàn hảo hơn lúc này để chia sẻ với cháu điều quan trọng nhất. Có lẽ đây chính là bí ẩn lớn nhất về trí thông minh Do Thái.”

Jerome mỉm cười và lắc đầu. “Bác không cần phải nói đâu. Cháu biết rồi.”

Chúng tôi nhìn Jerome chờ đợi. Hắn nói luôn, không do dự, “Gia đình.”

Lần này đến lượt Samuel phải ngạc nhiên. “Chính xác luôn,” ông xác nhận. “Làm sao cháu biết?”

Jerome ngả người tựa vào ghế và bắt chéo chân.

“Đầu tiên, bởi vì nó rất phù hợp với hoàn cảnh này, cháu đã có cảm giác là tối nay bác muốn nói gì đó với cháu. Và thứ hai, đó đơn giản là một thực tế. Từ ngày cháu ở bên Lisa, cháu thấy mình tiến bộ rất nhiều. Việc học tập không còn là vấn đề gì quá khó khăn nữa, còn trong làm ăn kinh doanh, cháu cảm thấy tự tin hơn với những quyết định mình đưa ra.

“Khi nghĩ đến điều kỳ diệu này, cháu đã rút ra một kết luận rằng đó là công của Lisa. Cô ấy là một phần trong cuộc đời cháu, cô ấy luôn ở bên cạnh cháu, ủng hộ cháu, cháu không bao giờ đơn độc… tất cả những điều này có ảnh hưởng rất lớn đến cháu. Sau khi gặp cô ấy, cháu đã thay đổi cách tiếp cận mọi thứ. Cháu nghiêm túc hơn, có trách nhiệm hơn. Thậm chí, cháu còn suy nghĩ hiệu quả hơn, cháu cũng không biết giải thích điều này thế nào nữa. Không phải vì cô ấy giúp cháu học hay cho cháu những lời khuyên trong kinh doanh. Ý cháu là, cô ấy có khuyên cháu nhưng đóng góp thực sự của cô ấy chính là cô ấy luôn ở bên cháu, ủng hộ cháu về mặt tình cảm. Cháu muốn được trở về ngôi nhà tràn ngập tình yêu. Trước đây, cháu chưa bao giờ có cảm xúc nào như thế.” Hắn nhìn cô dâu xinh đẹp của mình, mắt lấp lánh tình yêu. Cô gái cúi đầu, má ửng hồng.

Bỗng nhiên, tôi nghĩ đến Yael, người bạn đời vô giá của tôi trong suốt mười hai năm qua. Sau từng đó năm lấy nhau, người ta coi món quà đó là đương nhiên cũng là điều tự nhiên, dễ hiểu; có một người luôn ủng hộ và sẵn sàng hy sinh vì mình. Đó là điều mà Yael đã làm cho tôi trong suốt những năm qua. Tất cả những lỗi lầm, những quyết định tôi đã đưa ra, trong đó có cả chuyện bỏ việc trong khi chưa hề có công việc mới, độc lập làm việc mà không biết trước tương lai sẽ ra sao, những ngày, những giờ cô ấy để tôi ngồi ở quán cà phê và viết ra cuốn sách này… Tôi chợt thấy biết ơn cuộc sống, một cảm giác trước đây tôi chưa từng trải qua. Những cặp tình nhân chia tay nhau và những gia đình tan vỡ… May mắn nhất là những người có một gia đình thân yêu luôn ủng hộ mình.”

“Cảm ơn em rất nhiều, em yêu,” tôi nghĩ, và tôi thề là tôi sẽ nói với cô ấy điều đó khi về đến nhà.

Nhưng, tôi lại chợt nghĩ, về nhà mà tôi nói như thế, kiểu gì cô ấy cũng tận dụng cơ hội để bảo tôi từ giờ phải rửa bát, quét nhà, đổ rác, đưa bọn trẻ đi học cho mà xem…

“Có những điều chứng tỏ gia đình và mái nhà góp phần vào sự phát triển trí tuệ con người,” Samuel bắt đầu. “Khi ta có sự ủng hộ, khích lệ để thành công, lòng can đảm của ta sẽ biến thành một thứ tên lửa, phá tan mọi nguyên tắc về trọng lực và những giới hạn. Một người sống đơn độc sẽ không thể trở nên thông thái giống như một người luôn có người vợ bên cạnh động viên,” Samuel giải thích và bổ sung thêm luôn, “với phụ nữ cũng vậy thôi. Một người phụ nữ mà muốn học đại học hay cố gắng lấy một bằng cấp, chứng chỉ chuyên môn nào đó sẽ thấy khó khăn hơn nhiều nếu không có sự khích lệ của chồng mình.” Ông kết thúc bài phát biểu nho nhỏ và nhìn quanh tìm đồ uống.

Jerome gật đầu tán thành và giơ tay lên trời.

“Có ai muốn uống rượu không?” hắn hỏi.

“Tôi,” Samuel nói.

Itamar nháy mắt với tôi, ra hiệu là đến lúc chúng tôi trao cho Jerome món quà đặc biệt đã được chuẩn bị riêng cho dịp này.

“Jerome à,” tôi đứng lên, lấy một gói nhỏ trong túi áo ra, “bọn tớ có một món quà nhỏ cho cậu.” Tôi đưa cho hắn.

Jerome mở chiếc phong bì ra và thấy một cuốn sách nhỏ buộc ruy băng vàng lấp lánh.

“Jerome – Bậc thầy trí tuệ Do Thái,” hắn đọc to tựa đề ở trang ngoài cùng và mỉm cười. Rồi hắn mở lớp giấy bọc và đọc tiếp những nét chữ viết tay rất đẹp, “Những nguyên tắc của trí tuệ Do Thái.” Hắn lật qua các trang và bỗng nhiên thốt lên kinh ngạc. Trên một chiếc khăn giấy màu trắng nhàu nát, vẫn còn dính nguyên vết cà phê là nét chữ của tôi:

Nguyên tắc của trí tưởng tượng:

Một điều tưởng chừng phi lý có thể trở nên có lý với sự trợ giúp của trí tưởng tượng sáng tạo.

Hãy tưởng tượng ra một thực tế khác, gạt ra ngoài tất cả những ý niệm sự về logic và tính khả thi, hãy nhận thức những điều bất khả thi bằng những phương thức khả thi.

“Đây chính là cái khăn giấy nguyên bản đó hả?” hắn hỏi, mắt lấp lánh.

“Chính nó đấy,” tôi xác nhận.

Hắn nhẹ nhàng vuốt ve chiếc khăn giấy bằng đôi bàn tay mình, như kiểu một người vừa mới tìm thấy một kỷ vật của quá khứ. Trong tâm trạng háo hức, hắn lật đến trang tiếp theo và phát hiện ra một tờ giấy của khách sạn Saint Paul, đã hơi rách, với những dòng chữ:

Nguyên tắc của người sống sót

Thói quen và cảm giác thoải mái làm mọi thứ biến dạng. Hãy tiếp tục lang thang, cả về thể xác và tinh thần, để trải nghiệm những điều mới mẻ.

Đừng bao giờ để mình cảm thấy hài lòng, thỏa mãn hay đạt đến độ thoải mái và đảm bảo về tài chính!

“Chắc chắn cậu không thể nói là suốt hai năm qua, tớ chỉ đứng yên một chỗ được… cả về thể xác và tinh thần,” hắn gật đầu, hài lòng với điểm này và lật qua trang tiếp theo.

Nguyên tắc của sự hiểu biết

Để học tập mãi mãi, hãy đưa ra những câu hỏi và không bao giờ được coi bất cứ điều gì là chuyện hiển nhiên.

“Đúng vậy,” hắn mỉm cười. “Tớ nhớ cuộc gặp hôm đó, ở Café Terrace… À, Paris…”

Nguyên tắc về việc nâng cấp

Chẳng việc gì phải phát minh ra một loại bánh xe khác. Tốt hơn hết là dùng cái đã có sẵn nhưng theo cách phù hợp nhất với những nhu cầu của riêng mình.

Nguyên tắc về nguồn cảm hứng

Hãy tự tìm cho mình một hình mẫu để bắt chước, bước những bước của người đó (nhưng không phải hoàn toàn mù quáng) và trên con đường đi, hãy thêm vào những cải tiến, sáng tạo của bản thân.

“Cậu viết những thứ này lúc nào?” hắn băn khoăn. “Tớ nhớ là bọn mình nói về vấn đề này trong lúc đi bộ trên đường mà?”

Hắn lại lật trang tiếp theo mà chẳng chờ câu trả lời. Một trang tựa đề nữa lại đập vào mắt hắn. Trên đó có ghi:

Bí quyết về trí nhớ kỳ diệu của Jerome – 15 gợi ý và phương pháp của người Do Thái để phát triển một trí nhớ siêu việt

Hắn cười to thành tiếng và lật tiếp. Mười lăm điểm quan trọng mà Jerome đã học được trong suốt hai năm qua được tóm tắt và liệt kê trong hai trang giấy.

1. Phải có niềm tin vào trí nhớ của mình và dựa vào trí nhớ đó.

Hắn đọc điểm đầu tiên. “Tớ có thể thấy là cậu đã ghi lại mọi thứ rồi.” Hắn mỉm cười hiểu ý.

2. Hãy viết rõ ràng, dễ đọc bằng mực đen trên nền giấy trắng.

3. Hãy học cùng một Hevrutah, nói to trong khi học và nói có ngữ điệu.

4. Hãy học trong lúc tản bộ hoặc đung đưa người, và học trong tâm trạng vui vẻ.

5. Hãy học ở một nơi cho bạn nguồn cảm hứng, trái tim bạn phải muốn có mặt ở nơi đó.

6. Hãy tránh xa những điều phiền toái, chúng chỉ làm phân tán sự chú ý của bạn mà thôi.

7. Hãy áp dụng những phương pháp làm tăng khả năng tập trung: một lời cầu nguyện, một bài hát hay bất cứ điều gì cho bạn động cơ học tập.

8. Hãy bắt đầu bằng một thứ gì đó dễ thôi nhưng phải thú vị.

9. Thà học hai tiếng trong khi năng lượng dồi dào còn hơn là năm tiếng mà cơ thể mệt mỏi.

10. Khi học, hãy lướt cùng với con sóng của tài liệu học tập. Khi năng lượng đã cạn, hãy nghỉ giải lao và để cho đầu óc thảnh thơi hoàn toàn.

11. Hãy tóm tắt những khái niệm, ý chính bằng những từ chủ đạo có thể giúp khởi động trí nhớ của bạn sau này.

12. Hãy tạo ra một chuỗi các từ chủ đạo bằng một câu chuyện liên tưởng.

13. Hãy sắp xếp các thông tin một cách logic – theo nhóm và theo thứ tự thời gian, v.v...

14. Hãy sử dụng những từ viết tắt, những biểu tượng đối lập và biểu tượng song song.

15. Luôn luôn nhắc lại và ôn luyện thường xuyên.

“Wow!” Jerome gập cuốn sách nho nhỏ lại và nhẹ nhàng vỗ vỗ vào nó. “Một món quà mới tuyệt vời làm sao! Tất cả những chiếc khăn giấy và mảnh giấy nguyên bản. Thật không thể tin được!”

“Xin lỗi, tôi hơi tò mò một chút,” Samuel lên tiếng. Tình hình vụ cá cược của các cậu thế nào rồi? Nếu tôi nhớ không nhầm thì Jerome phải có bằng tiến sĩ và kiếm được 50 triệu đô-la nhờ những phương pháp của người Do Thái trong vòng ba năm, đúng không?”

Jerome cười và nhìn sang Itamar, người khởi xướng vụ cá cược.

“À,” hắn hắng giọng và ngồi thẳng lại. “Thứ nhất, cháu mới học xong chương trình cử nhân thôi, sắp tới cháu sẽ học tiếp cao học để lấy bằng thạc sĩ. Sẽ còn lâu nữa cháu mới sẵn sàng để cố gắng vươn tới bằng tiến sĩ. Bây giờ, cháu đã có thể học được nhiều hơn rất nhiều trong thời gian ngắn hơn rất nhiều. Tất cả là nhờ những phương pháp học tập và ghi nhớ mà cháu đã học được từ thầy Dahari và Joseph Hayim Schneiderman. Và cháu cũng rất biết ơn vì đã có thể thực hành những phương pháp này với sự giúp đỡ của một Hevrutah tuyệt vời.” Hắn chỉ vào Itzik.

“Ngoài phần Nhập môn Kinh tế học mà cháu trượt mất một bài thi, còn lại cháu đã qua hết, thậm chí có những môn điểm còn cao chót vót nữa. Điểm trung bình của cháu là 3,5.” Hắn gật đầu. “Còn Itzik là 3,48.”

“Thật hả? Giỏi quá nhỉ!” Samuel thốt lên.

“Thứ hai,” Jerome tiếp tục, “vụ cá cược nho nhỏ mới chỉ qua có hai năm thôi. Có nghĩa là cháu vẫn còn cả một năm nữa để kiếm nốt 30 triệu đô-la còn lại.” Hắn im lặng và liếc nhìn chúng tôi.

Chúng tôi cũng im lặng, sững sờ.

“Đợi đã. Ý cậu định nói là cậu đã kiếm được 20 triệu đô-la trong hai năm qua sao?” Itamar lên tiếng thay cho tất cả chúng tôi.

Jerome ngồi im với khuôn mặt rạng ngời niềm vui chiến thắng. Mắt hắn nhìn lần lượt từ người này sang người khác và dừng lại ở đối tác mới của mình, Itzik. “Cậu nghĩ sao hả, Itzik? Ta có nên cho họ biết không?”

Itzik nhìn chúng tôi và sau một hồi im lặng cố ý rất kịch, cậu ta mỉm cười và nói, “Mọi người có thực sự nghĩ rằng cậu ấy đã kiếm được 20 triệu đô-la rồi mà vẫn muốn có đối tác không? Cậu ấy cần đối tác làm gì nếu mọi chuyện diễn ra suôn sẻ đến vậy chứ?”

Con số đó thực sự nghe có vẻ hơi phóng đại quá.

“Vậy đó,” Itzik nói tiếp. “Cậu ấy kéo tôi vào bởi vì cậu ấy muốn gia tăng sức mạnh cho công ty. Bởi vì mọi chuyện đang diễn ra cực kỳ suôn sẻ. Và bởi vì đúng là chúng tôi đã gần đạt được đến con số đó,” Itzik tiết lộ khiến ai nấy đều kinh ngạc.

“Chúa đang giúp bọn tớ,” Jerome thốt lên. “Doanh thu tại Mỹ đang ở mức rất cao, nhưng bọn tớ vẫn thận trọng và cố gắng cải tiến hơn nữa để đảm bảo rằng đây sẽ không chỉ là sự phát triển nhất thời…”

Hắn không chịu nói xem công ty đang ở giai đoạn nào, một dấu hiệu nữa cho thấy hắn đang rất nghiêm túc, nhưng thực tế rằng hắn đã trở thành một thành viên của hội những triệu phú khiến chúng tôi kinh ngạc, nhất là đối với những người làm công ăn lương trong số chúng tôi.

Samuel rất vui được nghe về thành công của Jerome, nhưng với tư cách là một doanh nhân thành đạt, ông không bị ấn tượng mấy bởi con số đó.

“Cháu có biết trong tất cả những điều này, điều gì khiến ta ấn tượng nhất không?” ông hỏi người bà con mới của mình. “Không phải doanh thu kinh doanh, cũng không phải điểm số trung bình của cậu.” Ông nhấp một ngụm rượu nữa. “Điều làm ta thấy ấn tượng nhất là cậu đã thử một cách tiếp cận mới.”

“Vài năm trước, tôi có hẹn với một công ty,” ông kể. “Ở tiền sảnh tòa nhà, trên tường có viết một câu mà tôi rất thích, thích đến nỗi từ đó tôi đã dùng nó làm khẩu hiệu của riêng mình. ‘Đừng để con người bên trong bạn cản trở con người mà bạn muốn trở thành.’”

Itamar gật đầu tán thành. “Đó là một câu nói đầy sức mạnh.”

“Nói cách khác,” Samuel bổ sung, “chúng ta không được để thái độ phê bình của chúng ta làm ảnh hưởng đến mình và cản trở chúng ta CỐ GẮNG,” ông nhấn mạnh.

“Cháu, mặc dù là một người luôn thờ ơ, đôi lúc còn sợ đạo Do Thái, còn những mối hoài nghi, nhưng cháu đã không ngại thử, không ngại cố gắng! Và vì thế, ta rất ngưỡng mộ cháu!”

Jerome gật đầu với Samuel. “Cảm ơn bác,” hắn nói, giọng thật ấm áp.

Một lần nữa, sự im lặng lại bao trùm chúng tôi. Jerome là người phá tan sự im lặng đó bằng một điều ngạc nhiên của chính hắn.

“Tớ phải thú nhận là tớ đã mua một bản Talmud về và đã đọc lướt qua rồi,” hắn tiết lộ.

“Lướt qua hả?” tôi nhắc lại.

“Ừ,” hắn cười toe toét. “Tớ không đọc kỹ chỗ nào nhưng chỉ cần đọc qua cũng đủ để tớ nhận ra một điều mà chưa có giáo viên nào dạy cho tớ… Để có được sự sáng suốt, trí thông minh và những kỹ năng phát triển một trí nhớ phi thường thì việc sử dụng những phương pháp của người Do Thái chỉ là thứ yếu. Chúng không đủ để biến một người thành thông minh hay sáng suốt. Điều quan trọng là phải sử dụng sự sáng suốt đó để phục vụ lợi ích của những người xung quanh ta. Đó mới là điều quan trọng! Không phải chỉ số IQ của ta, không phải sắc đẹp của ta, không phải số tiền ta có… Không có gì quan trọng với Chúa hơn khả năng cho đi và hy sinh vì người khác của bạn!”

Sau hai năm học hành, dường như Jerome đã tìm thấy sự thật, tìm thấy lý tưởng sống của mình.

“Chúng ta phải kết thúc việc huấn luyện và trò cá cược này tại đây thôi,” tôi nói với Itamar. “Bây giờ cậu ta đã thông minh hơn rồi.”

“Ta tò mò một chuyện,” Samuel nói, khuôn mặt lộ vẻ hài lòng, “sau cuộc ‘huấn luyện,’ như Eran nói, cậu có thấy mình gần với đạo Do Thái hơn chút nào không?”

Jerome cúi xuống, nghĩ một lát rồi ngẩng đầu lên. “Đạo Do Thái là một tôn giáo rất sáng suốt và thú vị, điều đó không có gì phải nghi ngờ... nhưng cũng còn có những tôn giáo khác. Quan trọng hơn việc liệu điều này có đưa cháu đền gần đạo Do Thái hơn không, đó là cuộc huấn luyện này đã đưa cháu đến gần người Do Thái hơn,” hắn thú nhận. “Nó đưa cháu đến gần hơn với những con người cháu chưa từng gặp gỡ, thầy Dahari và Joseph Hayim Schneiderman. Nếu trong những hoàn cảnh khác, có thể cháu sẽ không bao giờ biết đến thế giới của họ, cũng chẳng bao giờ biết rằng họ tuyệt vời đến nhường nào. Cháu nghĩ, điều đó quan trọng hơn nhiều. Và quan trọng nhất là…” Hắn quàng tay ôm lấy vợ. “Nó đưa cháu đến gần hơn với một người phụ nữ Do Thái đặc biệt!”

Fabio dựng chiếc ghế cuối cùng lên, kiểm tra xem tất cả những ô cửa sổ, cửa ra vào đã khóa hết chưa và tắt đèn trong quán.

Jerome và Lisa đã bắt đầu cuộc sống mới của họ, với tư cách là hai vợ chồng. Tất cả mọi người đều đã ra về. Fabio và tôi ngồi trước cửa quán, mặt đối mặt, mệt mỏi nhưng hài lòng. Một đêm tuyệt diệu đã trôi qua.

“Bây giờ thế nào đây?” anh ta hỏi. “Anh đã thu thập xong hết các bí ẩn về trí tuệ của người Do Thái chưa? Sẽ có một cuốn sách về tất cả những điều này chứ?”

“Ồ… những gì chúng ta khám phá được mới chỉ là phần nổi của tảng băng thôi,” tôi trả lời. “Nhưng bây giờ, ta cứ làm những gì ta có trước đã.”

“Miễn là sách đừng có đắt quá,” anh ta đề nghị.

“Sao lại thế?”

“Vì tôi sẽ không thấy thoải mái khi bảo ai tặng cho một cuốn sách đắt quá đâu.”

Mặt trời đã nhô lên, một ngày mới đã bắt đầu ở Jerusalem. Mặt trời hắt những tia nắng đầu tiên xuống thành phố. Tôi quyết định ra ngoài đi bộ một chút và tận hưởng không khí mát mẻ của buổi sáng khi sương đêm vẫn còn vương lại. Sáng hôm đó, trong đầu tôi bỗng vang lên một khúc hát rất nổi tiếng của người Israel, “Sáng sớm thức dậy, ta bỗng thấy mình như một dân tộc, bắt đầu bước đi.” Tôi lẩm nhẩm hát.

Lúc đó, tôi thật sự thấy mình như cả một dân tộc vậy. Có lẽ bởi vì cuốn sách mà tôi vừa viết xong. Có lẽ bởi vì những con người tuyệt vời đã ở bên tôi đêm qua. Tôi cứ đi tiếp, những bước nhẹ nhàng, vững chắc, cứ đi, cứ tiến lên, cho đến khi những bước chân dẫn tôi trở về ngôi nhà thân yêu của mình…