Ung thư – Sự thật, hư cấu, gian lận và những phương pháp chữa lành không độc hại (Cancer – Step Outside The Box)

Chương 2: DỐI TRÁ, TUYÊN TRUYỀN & THAM LAM

 

Trò ảo thuật

Tôi từng rất sợ bị chẩn đoán mắc ung thư. Chỉ mới gần đây tôi mới bắt đầu hiểu lý do tại sao mình lại sợ đến vậy. Tôi cùng với 99% người Mỹ đã bị đánh lừa và tẩy não để tin vào những lời dối trá của bộ máy tuyên truyền Big Pharma, họ làm cho trường học, sách báo, tạp chí chuyên ngành, tạp chí, chương trình phát thanh, chương trình truyền hình, và tất nhiên, phần lớn các bác sĩ chính thống, y tá và các chuyên gia y tế khác thấm nhuần sự lừa dối.

Cố tình bóp méo sự thật luôn là quy trình hoạt động tiêu chuẩn của các giám đốc truyền thông đại chúng. Họ không thể cho phép báo chí khách quan trình bày các sự kiện như thực tế xảy ra. Điều đó quá nguy hiểm. Những sự kiện xảy ra hằng ngày luôn được thêu dệt có lợi cho một phía nào đó. Những người không đồng ý với sự thêu dệt này và có tư duy độc lập thường bị gán là “cực đoan” và “gàn dở”. Cái thật trở thành hư cấu và hư cấu trở thành cái thật. Đây là toàn bộ “trò ảo thuật”.

Theo nhà báo Mỹ Russel Wayne Baker, “Một người có giáo dục là người biết rằng thông tin hầu như luôn không đầy đủ và thường xuyên sai sự thật, gây hiểu nhầm, hư cấu, gian dối.”

Nhưng trò ảo thuật này không có gì mới. Bắt đầu từ gần một thế kỷ trước, khi đó, nhờ khả năng kỳ lạ trong việc dàn xếp lại một vấn đề, Edwin L. Bernays được mệnh danh là “Cha đẻ của thêu dệt”. Qua ghi chép tuyên truyền của ông ta từ năm 1928, chúng ta biết được Bernays đã lấy những ý tưởng từ người cậu nổi tiếng của mình (Sigmund Freud) và áp dụng vào khoa học thuyết phục quần chúng còn đang mới mẻ. Sự khác biệt duy nhất là thay vì sử dụng những nguyên lý này theo cách tâm lý học của Freud (để khám phá vô thức), Bernays sử dụng kỹ thuật của cậu ông cho mục đích tiếp thị để tạo ra những ảo tưởng, lừa dối, và tẩy não công chúng. Trong một trích dẫn, Bernays từng mô tả công chúng như là một “bầy đàn cần được dẫn dắt”. Bernays không bao giờ chệch hướng khỏi chân lý cơ bản của mình và “kiểm soát quần chúng mà họ không hề hay biết”.

Bernays đã làm điều đó như thế nào? Kỹ thuật của ông ta rất đơn giản: tạo ra ảo tưởng rằng có một số nghiên cứu triển vọng bằng cách sử dụng các cụm từ như “rất nhiều nghiên cứu đã chỉ ra…” hoặc “nghiên cứu đã chứng minh…” hay “các nhà điều tra khoa học đã tìm thấy…”, nhưng sau đó không bao giờ thực sự trích dẫn bất cứ điều gì. Nếu ai đó nghi ngờ hay thắc mắc thì tấn công nhân phẩm và/hoặc trí tuệ của họ. Theo Adolph Hitler: “Nếu anh nói dối mãi, cuối cùng mọi người cũng sẽ tin đó là sự thật… Lời dối trá càng lớn, càng có nhiều khả năng mọi người sẽ tin điều đó.” Những kỹ thuật này ngày nay vẫn đang được hầu hết các nhà quảng cáo, kể cả Big Pharma sử dụng.

Ví dụ, Big Pharma thường xuyên phát triển thuốc kê đơn mới hơn và tốt hơn, với mục đích chính là để tăng lợi nhuận cổ đông, mặc dù thực tế là phần lớn các loại thuốc này đều độc hại và nguy hiểm. Chúng được quảng cáo hết lần này đến lần khác, trên truyền hình, đài phát thanh, tạp chí, tạp chí y khoa, và trong tài liệu khuyến mại. Mặc dù không có bằng chứng khoa học hỗ trợ cho việc sử dụng các loại thuốc này, chúng ta vẫn bị tác động để tin đó là giải pháp cho những vấn đề y tế của mình. Nếu bất cứ ai dám chống đối, nhân phẩm của họ sẽ bị công kích, còn trí tuệ thì bị thách thức.

Một nghiên cứu gần đây ở Đức thực hiện đã phát hiện ra rằng 94% thông tin trong tài liệu quảng cáo do Big Pharma gửi đến các bác sĩ hoàn toàn không có cơ sở khoa học. Mike Adams nói thẳng: “Các công ty dược phẩm can dự vào các trò gian lận khoa học nhằm bóp méo các nghiên cứu của họ và làm cho thuốc được phê duyệt dựa trên cơ sở khoa học không vững vàng. Nhưng những gì làm tôi ngạc nhiên về nghiên cứu mới này là mức độ của nó: 94% thông tin tiếp thị là vô căn cứ và không có cơ sở khoa học. Đó là một con số đáng báo động – có nghĩa là 19 trong 20 tuyên bố của các công ty dược trong các tài liệu tiếp thị của họ là dối trá.”

 

 

Liên quan đến các liệu pháp điều trị ung thư, tẩy não và lừa dối là thiết yếu, vì mục đích của công nghiệp ung thư là liên tục thuyết phục chúng ta rằng liệu pháp điều trị ung thư thay thế không hiệu quả, trong khi đồng thời nói rằng Big 3 điều trị ung thư hiệu quả. Trò ảo thuật hoành tráng này khiến cho David Copperfield chỉ như một tay nghiệp dư! Phần lớn các “tri thức” về liệu pháp điều trị ung thư chính thống được cấy một cách khoa học vào ý thức cộng đồng bằng âm thanh và quảng cáo mỗi ngày. Đấy gọi là tẩy não.

Chúng ta bị tẩy não để tin rằng thuốc kê đơn là giải pháp cho ung thư (và tất cả các bệnh khác nữa). Bạn có ốm không? Chỉ cần xem truyền hình trong nửa giờ, viết ra tên của loại thuốc kê đơn mới nhất và gọi điện cho bác sĩ của bạn. Tôi tin chắc rằng ông ấy sẽ vui vẻ kê thuốc đó cho bạn. Bạn thấy đấy, bác sĩ của bạn chắc cũng bị tẩy não rồi. Big Pharma trả tiền cho hơn 90% diện tích quảng cáo trên các tạp chí y khoa. Tôi sẽ trích dẫn một số số liệu thống kê không thể tin nổi liên quan đến tạp chí y khoa ở phần sau cuốn sách này.

Lần gần nhất bạn trông thấy quảng cáo về dinh dưỡng liên quan đến sức khỏe là khi nào? Và còn những “chuyên gia” dinh dưỡng nói rằng bạn nên ăn đồ tươi sống và thực phẩm toàn phần? Nhiều bác sĩ chính thống sẽ khuyên bạn đừng nghe điều vô nghĩa đó, rằng không có bằng chứng củng cố cho mối tương quan giữa chế độ ăn uống và các bệnh thoái hóa như ung thư. Họ sẽ nói với bạn rằng những bác sĩ tin bệnh ung thư có thể chữa khỏi nhờ sự thay đổi trong chế độ ăn uống chỉ là lũ “lang băm”. Xin hãy nhận thức rằng đây là một đặc tính khác nữa của chiến dịch tuyên truyền hiệu quả: hạ thấp phe đối lập.

Chúng ta bị tác động để tin hầu như bất cứ điều gì, miễn là thông tin đến từ một “nguồn tin cậy”. Trong bài báo mang tên The Doors of Perception: Why American Will Believe Almost Anything (Cánh cửa nhận thức: Tại sao người Mỹ cả tin), bác sĩ Tim O’Shea kể về câu chuyện chì được đưa vào nước Mỹ: “Năm 1922, General Motors đã phát hiện ra rằng cho thêm chì vào xăng sẽ làm cho ô tô chạy khỏe hơn. Khi có một số lo ngại về sự an toàn, GM đã trả tiền cho Cục Khai thác mỏ để làm “thử nghiệm” giả và công bố nghiên cứu giả rằng “đã chứng minh” hít phải chì là vô hại. Charles Kettering vào cuộc. Là người sáng lập Viện Tưởng nhớ Sloan-Kettering nổi tiếng thế giới về nghiên cứu y học, Charles Kettering cũng tình cờ là ủy viên ban quản trị của General Motors. Do một số trùng hợp kỳ lạ, chúng tôi nhanh chóng có được các báo cáo do Sloan- Kettering phát hành nói rằng chì có tự nhiên trong cơ thể và cơ thể có cách để loại trừ phơi nhiễm ở mức độ thấp. Thông qua kết hợp với Quỹ vệ sinh công nghiệp và tập đoàn quan hệ công chúng khổng lồ Hill & Knowlton, Sloan-Kettering đã phản đối tất cả nghiên cứu chống chì hàng năm trời. Không có tổ chức khoa học đối lập, trong 60 năm tiếp theo, ngày càng nhiều xăng bị pha chì, cho đến những năm 1970, 90% xăng của chúng ta đã được pha chì. Cuối cùng sự việc trở nên quá hiển nhiên và không thể giấu giếm rằng chì là chất gây ung thư, điều họ đã biết từ lâu, và xăng pha chì đã bị loại bỏ vào cuối năm những năm 1980. Nhưng trong những năm 1960, ước tính khoảng 30 triệu tấn chì đã được thải ra ở dạng hơi trên đường phố và đường cao tốc Mỹ – 30 triệu tấn. Đó là quan hệ công chúng đấy bạn ạ.”

Bộ máy tuyền truyền ung thư và tẩy não

Mafia y tế và Big Pharma đã cơ bản kiểm soát hoàn toàn các chính trị gia và giới truyền thông. Mọi người không thể bị tẩy não nếu không có một chiến dịch tuyên truyền rầm rộ. Và hãy tin chắc bộ máy tuyên truyền ung thư (truyền hình, báo chí, tạp chí chuyên ngành, đài phát thanh…) vẫn tiếp diễn và mạnh mẽ. Các vị điều hành truyền thông và xuất bản rất thận trọng không công bố điều gì gây khó chịu cho đối tác quảng cáo lớn nhất của họ (Big Pharma) và nhào nặn nội dung để làm đối tác này.

Một điều tra mới đây về các bản tin truyền hình cho thấy gần 25% toàn bộ quảng cáo là về thuốc kê đơn: Viagra, Claritin, Celebrex, Allegra, Levitra, Zoloft, Cialas, Nexium và danh mục cứ kéo dài liên tục. Hằng năm, Big Pharma dành hàng trăm triệu đô la cho quảng cáo thuốc kê đơn trên truyền hình và báo chí. Chúng ta bị tẩy não như thế đó. Họ liên tục tấn công dồn dập bằng câu thần chú là thuốc mới hơn và tốt hơn là giải pháp duy nhất cho bệnh dịch. Rốt cuộc, hầu hết chúng ta tin vào những gì thấy trên truyền hình và những điều bác sĩ nói.

Đây là cốt lõi tuyên truyền: mọi người không cần được dạy làm thế nào để tư duy độc lập. Họ phải chịu tác động để tin tưởng vào sức mạnh của những gì họ nghe thấy trên truyền hình và đài phát thanh. Kết quả là chúng ta bị mất đi khả năng tư duy độc lập. Chúng ta trở nên ngày càng ngớ ngẩn. Thú vị là khi xem TV thì hoạt động ở những vùng não trên (như tân vỏ não) bị giảm đi, trong khi hoạt động ở những vùng não thấp (như hệ viền) tăng lên. Tức là là chúng ta trở thành những “thây ma” khi xem TV và dễ dàng bị thao túng.

Bạn đã bao giờ nhận ra chúng ta liên tục được cảnh báo không nên tham khảo thông tin về phòng chống và điều trị ung thư từ internet? Các dòng tít nói rằng các trang web ung thư thay thế gây rủi ro cho sức khỏe! Chúng ta thường xuyên thấy các bác sĩ (nhiều người trong đó đã bán linh hồn của họ) nói kiểu như thế này: “Không có bằng chứng rõ ràng về liệu pháp điều trị thay thế có thể ngăn ngừa ung thư”. Để có một tuyên bố như vậy, bác sĩ phải nói dối trắng trợn hoặc hoàn toàn không hay biết gì về nghiên cứu ung thư trong thế kỷ qua.

Điều rõ ràng là Công nghiệp ung thư đang tiến hành chiến dịch tuyên truyền sâu rộng, dựa trên nỗi sợ hãi và sự thiếu hiểu biết, để ngăn cản mọi người tìm hiểu về liệu pháp điều trị ung thư thay thế. Thành thật mà nói, công nghiệp ung thư mong mọi người cứ duy trì sự thiếu hiểu biết. Họ không muốn mọi người được biết về bất cứ điều gì khác hơn so với liệu pháp điều trị mà họ đang xúc tiến và kiểm soát. Lý tưởng nhất, những gì Công nghiệp ung thư mong muốn là một dạng kiểm duyệt. Cuối cùng, họ muốn các trang web được đánh dấu để ấn định những trang nào là những trang web ung thư “chính thức”. Tất nhiên, chỉ những trang web đăng tải nội dung đồng tình 100% với Công nghiệp ung thư tham nhũng mới đủ điều kiện được chứng nhận.

Vì vậy, dưới ánh sáng của những sự thật trên, hãy luôn ghi nhớ rằng những gì bạn nghe về liệu pháp điều trị ung thư chính thống từ các bác sĩ, trong tạp chí y tế, trên truyền hình, trên đài phát thanh là một mê cung của sự dối trá và lừa gạt nhằm thuyết phục rằng các loại thuốc hóa học mới hơn, tốt hơn là giải pháp chữa trị ung thư và khiến chúng ta tài trợ nghiên cứu thuốc nhiều hơn. Và hãy luôn nhớ rằng ngay cả các biên tập viên của tạp chí y khoa cũng tự bán mình cho Big Pharma. Như Albert Einstein từng nói, “Tầng lớp cầm quyền có trường học và báo chí chịu sự chỉ đạo của nó. Điều này cho phép nó thống trị cảm xúc của quần chúng.”

Ngoài kiểm duyệt, công cụ khác thường được sử dụng để tẩy não và làm mọi người lầm lạc là ngụy trang. Bạn hẳn từng thấy những con côn trùng ngụy trang là cành cây hay lá cây. Đó là những gì công nghiệp ung thư làm. Họ vờ vịt hành động vì lợi ích tốt nhất của bệnh nhân ung thư, trong khi thực ra họ đang hành động vì lợi ích cao nhất của mình. Đừng bị lừa dối mà tin rằng công nghiệp ung thư toàn những con người vị tha cực kỳ mong mỏi tìm cách chữa trị ung thư. Họ chỉ quan tâm đến một thứ và một thứ duy nhất: TIỀN.

Không nghi ngờ gì, trang web về liệu pháp điều trị ung thư thay thế yêu thích của tôi là www.cancertutor.com của Webster Kehr. Tôi trích dẫn ông trong suốt cuốn sách do ông nắm vững vấn đề này và có cái nhìn sâu sắc hơn bất cứ ai mà tôi từng gặp. Dưới đây là ý kiến của ông về các phương tiện truyền thông và mối quan hệ với Big Pharma: “Các phương tiện truyền thông thường xuyên sử dụng nhiều kỹ thuật khác nhau để tẩy não công chúng. Tất cả đều có thể được tóm tắt trong một câu: ‘giả nhân giả nghĩa’. Họ nói dối, che giấu thông tin, đánh lừa, nói một nửa sự thật, v.v.. Các phương tiện truyền thông chỉ là phường đàng điếm vô dụng. Họ bán mình cho kẻ trả giá cao nhất, chính là ngành công nghiệp dược phẩm thối nát. Tất cả mọi thứ họ nói chỉ cốt làm hài lòng những người trả giá cao nhất.”

Rất nhiều bệnh nhân ung thư được các bác sĩ chính thống thông báo đã ở “giai đoạn cuối” và bắt đầu sử dụng liệu pháp thay thế, đã hoàn toàn bình phục và còn sống và sống khỏe trong 10, 15, 20 hoặc nhiều năm sau chẩn đoán “giai đoạn cuối”. Tuy nhiên, công nghiệp ung thư phớt lờ sự tồn tại của những người sống sót ấy hay gạt bỏ họ như một giai thoại. Gần đây, tôi đã làm một cuộc phỏng vấn trên đài phát thanh và một trong những người được mời đến đã dùng chính xác cụm từ đó. Khi tôi nói với anh ta bốn người mà cá nhân tôi biết đã hồi phục từ ung thư giai đoạn cuối nhờ liệu pháp điều trị ung thư tự nhiên, anh ta nói: “Tôi không muốn nghe về giai thoại của anh”. Thật là một gã hề.

Một mánh khóe của công nghiệp ung thư là tuyên bố rằng những người khỏe lên nhờ liệu pháp thay thế vì một lý do chưa biết nào đó đã phục hồi kỳ diệu là do phản ứng chậm của Big 3. Thật lố bịch! Một thủ đoạn phổ biến khác nữa là tuyên bố bệnh nhân ung thư được chữa khỏi nhờ các liệu pháp thay thế chỉ đơn giản là trải qua “sự thuyên giảm tự nhiên”. Đây là biệt ngữ y tế cho “sự phục hồi không giải thích được” nhằm che giấu sự thiếu hiểu biết của bác sĩ về những gì thực sự xảy ra. Nghiên cứu toàn diện nhất từng được tiến hành về thuyên giảm tự nhiên của ung thư cấp tính chỉ đưa ra 176 trường hợp trên thế giới từ năm 1900 đến 1965.

Nói theo thống kê, điều này gần như không bao giờ xảy ra. Vì vậy, khi bạn nghe các bác sĩ chính thống gán cho sự phục hồi kỳ diệu và bất ngờ của một bệnh nhân ung thư điều trị thay thế là “thuyên giảm tự nhiên”, hãy thấy tiếc cho họ. Họ chỉ đơn thuần ảo tưởng trong một thế giới ma trận mộng mơ được Công nghiệp ung thư tạo ra.

Tiền bạc & lòng tham

Trong Kinh Thánh, Timothy 6:10 có nói: “Lòng tham tiền bạc là gốc rễ của mọi loại tội lỗi.” Yếu tố tài chính trong điều trị ung thư thật đáng kinh ngạc! Trong năm 2010, tính riêng tại Mỹ, chi phí điều trị ung thư là trên 75 TỶ ĐÔ LA! Quá dễ để thấy lý do tại sao mafia y tế không từ thủ đoạn nào để tiêu diệt “lang băm”. Những kẻ kiếm chác từ liệu pháp độc hại như hóa trị và xạ trị có thể bị mất việc và phải tìm cách khác để cho con cái đến Harvard hay Yale nếu liệu pháp điều trị thay thế không độc hại, tự nhiên và hiệu quả được công nhận.

Tiếp thị thuốc độc hại đắt tiền là trọng tâm của Big Pharma. Các công ty dược không những kiếm hàng tỷ đô la lợi nhuận từ các loại thuốc hóa trị độc hại mỗi năm, mà họ còn kiếm hàng triệu đô la lợi nhuận mỗi năm qua việc phát triển các loại thuốc điều trị những hậu quả gây ra bởi các loại thuốc hóa trị! “Không có thứ gì thuộc lĩnh vực chăm sóc sức khỏe có thể làm sinh lời nhiều hơn thuốc kê đơn. Đó là một loại hình kinh doanh mà tất cả đều phải ghen tị.” – New York Times, 28 tháng 7 năm 1989.

Trong cuốn sách The Story of the Medical Conspiracy Against America (Câu chuyện về âm mưu y tế chống lại nước Mỹ), Eustace Mullins trích dẫn Patrick McGrady, người từng là biên tập viên khoa học của ACS và người phát ngôn chính của ACS trên truyền thông trong hơn hai thập kỷ. Năm 1978, McGrady đã có một tuyên bố thú vị: “Không ai trong các cơ sở khoa học và y tế (tại ACS) có khả năng làm khoa học thực sự. Họ là những nhà chuyên môn tài ba biết làm thế nào để có tiền. Nhưng họ không biết làm thế nào để ngăn chặn ung thư hoặc chữa cho bệnh nhân.”

Bạn đã bao giờ tự hỏi tại sao, mặc dù đã chi hàng tỷ đô la cho nghiên cứu ung thư qua nhiều thập kỷ và không ngừng hứa hẹn chữa khỏi bệnh nhưng vẫn luôn là “chỉ chút nữa thôi”, và ung thư không ngừng gia tăng. Bạn có nghĩ Big Pharma thực sự muốn ai đó xuất hiện với phương pháp chữa ung thư tự nhiên, không độc hại, không tốn kém, và hiệu quả? Hay bạn nghĩ Big Pharma sẽ bằng mọi giá nắm giữ lợi nhuận của họ? Bạn có thực sự nghĩ rằng Công nghiệp ung thư đang tìm kiếm một “phương thuốc thần kỳ” để quét sạch ung thư?

Phương thuốc thần kỳ sẽ dẫn đến chấm dứt các chương trình nghiên cứu, những thủ thuật và chấm dứt lối sống xa hoa của các giám đốc điều hành Big Pharma. Phương thuốc thần kỳ sẽ thắt nút “vòi tiền” của Công nghiệp ung thư và làm liệu pháp điều trị Big 3 trở nên lỗi thời trong khi đó là mấu chốt để duy trì dòng tiền. Đáng buồn thay, thực tại là nhiều người trong cộng đồng y tế hoàn toàn không quan tâm đến việc đi tìm phương thuốc thần kỳ chữa trị ung thư, vì nó sẽ khiến Big Pharma mất hàng tỷ đô la…

Một lưu ý thú vị là trong điều lệ của ACS (Hiệp hội Ung thư Hoa Kỳ) có ghi điều khoản nói rằng nếu ngày nào một phương pháp chữa khỏi ung thư được tìm thấy, thì vào ngày hôm đó, hiệp hội sẽ giải thể. Nghĩ thử xem, động lực thực sự của tổ chức này là tìm kiếm cách chữa trị ung thư sao? Yêu cầu ACS tìm cách chữa ung thư chẳng khác nào nói rằng, “Hãy đi tìm cho ra. Rồi sau đó, khi đạt được mục tiêu thì hãy nhanh chóng chấm dứt sự tồn tại của mình”.

Thực tế, bản chất việc loại bỏ ung thư là trái ngược với lợi ích của Big Pharma, vì sẽ phá hỏng đầu tư của họ. Theo tôi, mục tiêu chính của Big Pharma là duy trì bệnh, chứ không diệt trừ nó. Họ sẽ giữ cho con bò sữa sống khỏe bằng mọi giá. Sự tồn tại của họ phụ thuộc vào việc loại bỏ thành công liệu pháp điều trị bệnh ung thư thay thế bằng mọi cách. Không một doanh nghiệp sinh lời nào lại cố gắng tự đào thải. Đơn giản vậy thôi. Thế nên Công nghiệp ung thư sẽ không bao giờ đưa ra phương pháp chữa khỏi ung thư. Đó là màn kịch khổng lồ của lòng tham và thủ đoạn chính trị đã biến một thách thức y tế dễ giải quyết thành trò gian lận mà ngày nay chúng ta gọi là công nghiệp ung thư.

 

 

Bạn đã từng nghe nói về Định luật hai của Parkinson chưa? “Chi phí tăng để phù hợp với thu nhập.” Hằng năm, thùng quyên góp cho ung thư được gửi đi khắp nơi, đến các công ty, tổ chức và cả cá nhân. Câu thần chú là – “Hãy chu cấp tiền bạc cho chúng tôi, vì chúng tôi đang tiến bộ hằng ngày và chúng tôi không thể dừng lại bây giờ. Chúng tôi sắp tìm ra rồi!” Doanh thu tăng cho nên chi phí phải được tạo ra để lý giải cho doanh thu. Điều này cấm kỵ các nghiên cứu về những phương pháp chữa trị ung thư tự nhiên và không tốn kém. Chính vì vậy, toàn bộ bộ máy của công nghiệp ung thư được thiết lập để ngăn chặn và kiểm duyệt bất kỳ thông tin nào làm giảm lượng cầu với liệu pháp điều trị ung thư nhân tạo và đắt đỏ.

Để bảo vệ quyền lợi của Big Pharma, mọi tiềm năng thành công của liệu pháp điều trị ung thư thay thế đều phải bị phủ nhận, ngăn chặn và cấm đoán bằng mọi giá. Công nghiệp ung thư không từ thủ đoạn nào để ngăn chặn và kiểm duyệt tất cả các liệu pháp điều trị ung thư thay thế. Kể cả hối lộ. Nguyên nhân chính khiến hệ thống y tế trở thành một mớ hỗn độn như hiện nay là do Big Medicine đã bán mình cho Big Pharma.

Trong cuốn Dissent in Medicine – Nine Doctors Speak Out (Bất đồng quan điểm trong y học – Chín bác sĩ lên tiếng), bác sĩ Alan Levin viết: “Bác sĩ trẻ được các công ty dược cung cấp những khoản tài trợ cho nghiên cứu. Các trường y khoa được cung cấp những khoản tiền lớn cho thử nghiệm lâm sàng và nghiên cứu dược phẩm cơ bản. Các công ty dược thường xuyên tổ chức bữa tối và tiệc xa hoa cho các nhóm y bác sĩ. Họ cấp kinh phí xây dựng các tòa nhà bệnh viện, trường y khoa, và các viện nghiên cứu độc lập… các bác sĩ hành nghề bị ép sử dụng phác đồ điều trị mà họ biết không hiệu quả. Một ví dụ rõ ràng là hóa trị ung thư.”

Theo Mike Adams: “Không ngoa nếu gọi đó là diệt chủng y tế. Những công ty thuốc này dường như đã xác định liều cho toàn dân với càng nhiều đơn thuốc càng tốt, miễn là tạo ra lợi nhuận cho các cổ đông. Đạo đức kinh doanh không có chỗ trong Công nghiệp dược ngày nay: quan trọng là tiền, lợi nhuận, quyền lực và sự kiểm soát.”

Trong cuốn sách The Medical Mafia (Mafia y tế), bác sĩ Guylaine Lanctot nói: “Các cơ sở y tế phối hợp chặt chẽ với các công ty thuốc đa quốc gia có mục tiêu chính là lợi nhuận, và cơn ác mộng tồi tệ nhất của việc đó sẽ là một đại dịch về sức khỏe. Rất nhiều loại thuốc PHẢI được bán ra. Để đạt được điều này, người ta làm bất cứ điều gì: những lời dối trá, lừa gạt, và tiền lại quả. Các bác sĩ là nhân viên bán hàng chính của các công ty dược. Họ được thưởng bằng các khoản tài trợ nghiên cứu, quà tặng, và đặc quyền xa hoa. Người mua chủ yếu là công chúng – từ trẻ sơ sinh đến người cao tuổi – họ PHẢI được triệt để kê đơn thuốc và tiêm phòng… bằng bất cứ giá nào! Tại sao các nhà chức trách cấm y học thay thế? Bởi vì họ phải phục vụ ngành công nghiệp không thể kiếm tiền với các loại thảo mộc, vitamin và vi lượng đồng căn. Họ không thể cấp giấy phép độc quyền nhãn hiệu cho những phương thuốc tự nhiên. Thế nên họ thúc đẩy thuốc tổng hợp. Họ kiểm soát thuốc men, do đó, họ có thể yêu cầu các trường y được dạy và không được dạy những gì.”

Vào tháng 7 năm 2004, bác sĩ Marcia Angell viết một bài báo có tựa đề The Truth About The Drug Companies (Sự thật về các công ty dược). Trong hơn 20 năm, bác sĩ Angell là biên tập viên của tờ New England Journal of Medicine, một trong những tạp chí y khoa uy tín nhất trên thế giới. Bà khẳng định: “Trong hai thập kỷ qua, công nghiệp dược phẩm đã xa rời khỏi mục đích cao cả ban đầu là tìm ra và sản xuất các loại thuốc mới hữu ích. Giờ đây nó chủ yếu là bộ máy tiếp thị để bán thuốc với lợi nhuận không minh bạch, ngành công nghiệp này dùng sức mạnh tiền bạc và quyền lực để tập hợp mọi tổ chức, bao gồm cả Quốc hội Mỹ, FDA, các trung tâm giáo dục y khoa, và các tổ chức y tế chuyên nghiệp… Thực tế ngạc nhiên nhất vào năm 2002 là lợi nhuận của 10 công ty dược trong Fortune 500 (35,9 tỷ đô la) cao hơn so với lợi nhuận của tất cả 490 doanh nghiệp khác cộng lại (33,7 tỷ đô la)”.

Điểm mấu chốt của y học chính thống là gì? Theo Webster Kehr: “Tìm một chất tự nhiên chữa được bệnh gì đó, giấu sự thực này đi, sau đó thêm bớt, tổng hợp và biến đổi chất tự nhiên lõi, rồi xin giấy phép độc quyền nhãn hiệu cho biến đổi đó, và tạo lợi nhuận khổng lồ”. Trong cuốn World Without Cancer – The Story of Vitamin B17 (Thế giới không ung thư – câu chuyện về vitamin B17), Edward Griffin viết: “Với hàng tỉ đô la chi phí mỗi năm cho nghiên cứu, thêm hàng tỉ nữa từ doanh thu bán thuốc liên quan đến ung thư, và với biểu quyết nhanh của các chính khách cho các chương trình gia tăng chưa từng có đầy hứa hẹn của chính phủ, ngày nay, chúng ta thấy, nhiều người sống nhờ ung thư hơn là chết vì nó. Nếu điều bí ẩn này được giải quyết bằng vitamin đơn giản, ngành kinh doanh khổng lồ và công nghiệp chính trị này có thể bị quét sạch trong một đêm. Kết quả là khía cạnh khoa học không phức tạp như khía cạnh chính trị trong chữa trị ung thư.”

Công nghiệp ung thư tồn tại và phát triển mạnh bằng cách mãi đi tìm “cách chữa” nhưng không bao giờ tìm ra. Sức mạnh của hàng tỷ đô la không hướng đến vịêc tìm kiếm cách chữa bệnh, trừ phi việc chữa trị đó đòi hỏi thuốc được cấp giấy phép độc quyền nhãn hiệu có thể bán với giá cao và bệnh nhân cần phải dùng suốt đời, từ đó tạo ra “nguồn thu nhập” vĩnh cửu. Thế nên, trên thực tế, Công nghiệp ung thư kéo dài mãi mãi sự dối trá và lừa gạt. Sự lừa gạt này to lớn không kể xiết, nó đã kéo dài hơn một thế kỷ, và gây ra cái chết sớm không mong muốn của hàng chục triệu người, trong đó có cha mẹ tôi.

Bác sĩ Matthias Rath đoán đúng khi ông nói: “Công nghiệp dược là một ngành công nghiệp đầu tư được thúc đẩy bởi lợi nhuận của các cổ đông. Cải thiện sức khỏe con người không phải là động lực của ngành công nghiệp này… trong lịch sử nhân loại, không có một tội ác nào so bì được với tội diệt chủng được tiến hành bởi các tập đoàn dược vì lợi nhuận đầu tư kinh doanh nhiều tỷ đô la vào bệnh tật.”

 

 

Bác sĩ, tạp chí y khoa, xung đột lợi ích và lừa gạt

Nếu có vấn đề về sức khỏe, tôi rất tin tưởng các bác sĩ sẽ chăm sóc tôi tốt nhất có thể. Nếu bị tai nạn xe hơi và cần phải nối lại một chi, chắc chắn tôi sẽ chạy đến bệnh viện. Người bạn tốt của tôi, bác sĩ Irvin Sahni, là một trong những bác sĩ phẫu thuật chỉnh hình cột sống tốt nhất trên thế giới. Những quy trình thủ thuật được ông phát triển đều thực sự phi thường. Nếu cách đây 50 năm, nhiều trường hợp trong y học là bản án tử hình, giờ đây lại dễ dàng chữa khỏi nhờ những tiến bộ tuyệt vời trong công nghệ y học. Vài năm trước, tôi đã xem một chương trình truyền hình đặc biệt về y học, ở đó các bác sĩ đã chữa khỏi cho một bé gái bị hội chứng rối loạn thần kinh bằng cách đặt một điện cực trong não của bé. Thực sự tuyệt vời. Tôi đã thấy một trường hợp đặc biệt nữa, các bác sĩ phẫu thuật tái tạo khuôn mặt một phụ nữ mà da mặt đã bị ký sinh trùng phá hủy. Tôi cực kỳ ngạc nhiên! Đây chỉ là một vài ví dụ về những tiến bộ to lớn của công nghệ và phẫu thuật y học trong nửa thế kỷ qua.

Thế nhưng, trong khi những tiến bộ đáng kinh ngạc được thực hiện trong nhiều lĩnh vực của y học, thì tầm nhìn của hầu hết các bác sĩ liên quan đến điều trị ung thư đã bị những thông tin sai lệch của bộ máy tuyên truyền ung thư che khuất. Điểm mấu chốt là phần lớn các bác sĩ thực hiện chính xác theo lời mafia y tế và không học cách tư duy độc lập. Hầu hết các bác sĩ vẫn đang suy nghĩ “theo lối mòn” khi bàn đến ung thư. Vấn đề là ở chỗ “lối mòn” ung thư chủ yếu là do Big Pharma tạo ra nhằm cố gắng rao bán các chất độc của họ (chẳng hạn như hóa trị liệu) trong nỗ lực tăng trưởng lợi nhuận cho cổ đông thông qua chi phí của bệnh nhân ung thư.

Công nghiệp ung thư được xây dựng trên nền tảng điều trị triệu chứng ung thư, trong khi hầu như không làm gì để điều trị nguyên nhân thực gây ra ung thư hoặc ngăn ngừa nó. Điều này khiến tôi nhớ đến một câu tục ngữ cổ của Trung Quốc: “Bác sĩ giỏi ngăn ngừa bệnh tật; bác sĩ bình thường xử lý bệnh sắp xảy ra; bác sĩ kém chữa thực bệnh”. Tuy nhiên, vấn đề không ở chỗ các bác sĩ… mà là hệ thống.

Tôi tin rằng hầu hết các bác sĩ là những người vị tha và thực lòng mong muốn những điều tốt nhất cho bệnh nhân. Tôi tin rằng họ đưa ra quyết định dựa trên những gì họ nghĩ là tốt nhất cho bệnh nhân. “Nghĩ” là từ mấu chốt. Thật không may, hầu hết các bác sĩ ung bướu (bác sĩ ung thư) không hề suy xét các liệu pháp điều trị ung thư không được dạy trong trường y. Như đã đề cập, các bác sĩ cũng chịu đựng nhân tố “không thể”. Họ tin rằng nếu liệu pháp điều trị thay thế thực sự hiệu quả, thì họ không thể tốt nghiệp trường y mà không được học các phác đồ này.

Nói cách khác, hầu hết các bác sĩ có xu hướng tin rằng không chỉ những gì họ được dạy phải đúng sự thật, mà còn tin rằng những gì họ không được dạy là không quan trọng! Họ đã bị tẩy não để tin rằng các liệu pháp điều trị hữu hiệu duy nhất cho ung thư là hóa trị, phẫu thuật, và xạ trị. Có khả năng họ hầu như không biết gì về dinh dưỡng hoặc các liệu pháp điều trị ung thư thay thế và tin tưởng tuyệt đối rằng những người thực hành liệu pháp thay thế chỉ là “lang băm”. Hãy hỏi bác sĩ của bạn về liệu pháp axit amin, hoặc liệu pháp enzymee, hoặc liệu pháp ô-zôn. Hãy sẵn sàng chịu trừng phạt và/hoặc cười nhạo cho sự “ấu trĩ” của bạn.

Bác sĩ của bạn tiếp tục việc học tập của mình ở đâu? Từ những tạp chí y khoa “uy tín”; như bạn thấy, những cuốn rất nổi bật bày biện trên tủ. “Thật tốt đẹp khi nghĩ về các tạp chí y học như những thành trì chí công vô tư của sự thật và tri thức, nhưng trên thực tế, đó là tổ chức kinh doanh và làm ra tiền, trong nhiều trường hợp, từ quảng cáo của công ty thuốc, và cũng từ các ấn phẩm bóng nhoáng những bài viết có lợi cho thuốc. Thật thú vị, một số cựu biên tập viên và cựu lãnh đạo của những tạp chí y khoa lớn, Richard Smith của BMJ, Richard Horton của Lancet, và cũng có một vài cựu Tổng biên tập của New England Journal of Medicine đã viết sách và phát biểu mạnh mẽ về tác động hữu ích của công ty dược phẩm lên xuất bản y tế. Có những xung đột mạnh mẽ trên tạp chí về công bố những bài viết có lợi cho công ty dược để thu về hàng trăm ngàn đô la doanh số bán thuốc nhờ in lại các bài viết có lợi và cũng làm cho các công ty dược vừa lòng để họ tiếp tục đăng quảng cáo”. – Bác sĩ Beatrice Golomb (trong một cuộc phỏng vấn với bác sĩ Joseph Mercola 6/12/2010).

Tạp chí y khoa rất có thể là những nguồn duy nhất để bác sĩ theo kịp với những bước phát triển mới trong lĩnh vực y tế. Những tạp chí này làm ra vẻ khách quan, khoa học và liêm khiết, nhưng thực tế là họ không muốn xa lánh các nhà quảng cáo của họ – Big Pharma. Những quảng cáo thuốc kín trang trong những tạp chí y khoa hàng đầu tiêu tốn hàng triệu đô la! Năm 2004, bác sĩ Richard Horton, biên tập viên của tạp chí Lancet đã viết: “Tạp chí đã phân cấp thành những hoạt động rửa thông tin cho công nghiệp dược phẩm”. Tôi đồng ý 100% với bác sĩ Golomb. Nghĩ mà xem. Các biên tập viên của những tạp chí y khoa đó có thể thiếu cá tính, nhưng họ chẳng ngu ngốc. Họ biết ai “phết bơ bánh mì của họ”. Theo số liệu của bác sĩ Golomb, Big Pharma hiện chi 18,5 tỷ đô la mỗi năm cho các bác sĩ để thúc đẩy các loại thuốc. Đồng nghĩa với 30.000 đô la mỗi năm cho mỗi bác sĩ ở Mỹ!

Nhưng ai đó có thể hỏi: “Các tạp chí y học có được bình duyệt chuyên gia không?” Thực tế là gian lận và lừa đảo trong bình duyệt chuyên gia cho các tạp chí y khoa diễn ra rất phổ biến. Ví dụ năm 1987, tờ New England Journal of Medicine (NEJM) có bài viết về nghiên cứu của bác sĩ R. Slutsky trong khoảng thời gian bảy năm. Trong thời gian đó, Slutsky đã công bố 137 bài báo trên một số tạp chí y khoa đã được bình duyệt chuyên gia. Tờ NEJM tiết lộ chứng cứ rằng 60 bài trong 137 bài viết này (44%) là “xuyên tạc thực tế” hoặc “lừa gạt trắng trợn”.

Tiếp đó là hiệu ứng domino diễn ra khi những thông tin ngụy tạo của các tạp chí khoa học được các nhà nghiên cứu khác trích dẫn, họ lại tái trích dẫn, v.v.. Một ví dụ điển hình được phát hiện vào năm 2010 và được coi là “gian lận nghiên cứu lớn nhất trong lịch sử y học”. Bác sĩ Scott Reuben, một cựu thành viên của văn phòng phát ngôn của Pfizer, đã nhận tội giả mạo hàng chục nghiên cứu công bố trên các tạp chí y học. Reuben đã nhận một khoản trợ cấp 75.000 đô la từ Pfizer để nghiên cứu Celebrex năm 2005 và công bố “nghiên cứu” của mình trong một tạp chí y học. Sau đó, các hiệu ứng domino bắt đầu xảy ra khi hàng trăm bác sĩ và các nhà nghiên cứu bắt đầu trích dẫn nghiên cứu của ông như “bằng chứng” rằng Celebrex giúp giảm đau trong quá trình phục hồi sau phẫu thuật. Chỉ có một vấn đề với toàn bộ việc này là: Không có bệnh nhân nào từng được đưa vào nghiên cứu! Đúng thế… ông ta đã làm giả toàn bộ nghiên cứu và vẫn công bố nó.

Theo Wall Street Journal, Reuben cũng làm giả dữ liệu nghiên cứu về Vioxx, một loại thuốc mà FDA thừa nhận đã gây ra hơn 50.000 ca tử vong! Nhìn chung, Reuben đã giả mạo tổng cộng 10 tài liệu “khoa học” và 21 bài viết đăng trên các tạp chí y học. Hóa ra, Reuben đã giả mạo dữ liệu nghiên cứu trong hơn 13 năm.

Nhưng Reuben chỉ là phần nổi của tảng băng. Bạn đã nghe nói về bác sĩ Hwang Woo-suk chưa? Nhà khoa học Hàn Quốc lừng danh (nhưng bây giờ thì bị ghét bỏ) đã chứng kiến danh tiếng rực rỡ của mình tàn lụi nhanh chóng khi thẩm định chuyên gia phát hiện ra rằng nghiên cứu đã công bố của ông về nhân bản tế bào gốc, được cho là mang tính đột phá, thực ra là lừa đảo…

Ở Na Uy, Jon Sudbo, một nhà nghiên cứu tại Trung tâm ung thư toàn diện Na Uy, đã thừa nhận bịa đặt kết quả nghiên cứu để chỉ ra các thuốc giảm đau OTC (không cần đơn bác sĩ) phổ biến (như ibuprofen) giảm nguy cơ mắc ung thư miệng. Thì ra nghiên cứu Sudbo công bố trên tạp chí y học uy tín của Anh The Lancet là hư cấu hoàn toàn. Sudbo “bịa ra” 454 bệnh nhân ung thư miệng trong nghiên cứu của mình.

Một trường hợp gần đây nữa về gian lận y tế, vụ này ở Mỹ, liên quan đến Eric T. Poehlman, nhà nghiên cứu hàng đầu về bệnh béo phì, rõ ràng đã bịa đặt dữ liệu trong các tạp chí y học và trong các đơn xin tài trợ liên bang khi làm việc tại Đại học Vermont. Theo Boston Globe, Poehlman đã thay đổi và bịa ra các kết quả nghiên cứu từ năm 1992 đến năm 2002, trong giai đoạn đó, ông ta đã công bố hơn 200 bài viết.

Mười năm trước, tôi có thể đã bị sốc bởi câu chuyện này, nhưng giờ thì không. Từ hàng ngàn giờ nghiên cứu, tôi biết rằng đây là quy trình hoạt động tiêu chuẩn của mafia y tế. Gian lận trong nghiên cứu đã xảy ra trong nhiều thập kỷ rồi. Một ví dụ nổi tiếng trong quá khứ là việc nhà nghiên cứu của Viện Ung thư Sloan-Kettering – bác sĩ William Summerlin, người vào năm 1974 đã lấy bút đen tô lên lông chuột bạch để cố chứng minh rằng liệu pháp điều trị ghép da mới của ông hiệu quả.

Bạn có biết có một yêu cầu quy chuẩn đối với tất cả tạp chí y học rằng bất kỳ mối quan hệ tài chính nào giữa tác giả và nhà sản xuất đều phải công khai trong bài viết không? Đúng thế. Tuy nhiên, chúng ta đang sống trong thế giới thực, nơi điều này gần như không bao giờ xảy ra. Ví dụ, vào năm 1998, bác sĩ Henry T. Stelfox tiết lộ rằng 23 trong 24 tác giả (96%) ủng hộ tính an toàn của thuốc chẹn dòng canxi, đã có quan hệ tài chính với các công ty Big Pharma sản xuất ra chính những thuốc đó!

Một bài báo gây ngạc nhiên vào ngày 5 tháng 2 năm 2006, do tạp chí PLoS Medicine phát hành đã kết luận: “Tính chất học thuật của các tạp chí mang lại uy tín cho cả các bài báo và quảng cáo trong các trang của tạp chí. Bằng những quảng cáo độc quyền tính năng đặc biệt cho các loại thuốc và thiết bị, tạp chí y học ngầm ủng hộ doanh nghiệp quảng bá cho các sản phẩm có lợi nhuận cao nhất. Quảng cáo và những thu xếp tài chính với các công ty dược phẩm làm ảnh hưởng tới tính khách quan của các tạp chí. Nghĩa vụ chính của công nghiệp dược là kiếm tiền cho các cổ đông. Nghĩa vụ chính của tạp chí là cung cấp thông tin cho các bác sĩ và bệnh nhân, những người phụ thuộc vào độ chính xác của thông tin trong các ấn phẩm này. Tạp chí y khoa không nên chấp nhận quảng cáo từ các công ty dược phẩm, các công ty thiết bị y tế, hoặc các ngành khác có liên quan đến y học.”

Một báo cáo gây choáng váng được công bố trên BMJ tháng 6 năm 2010 cho thấy các nhà khoa học hàng đầu đã thuyết phục Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) công bố đại dịch toàn cầu H1N1 (còn gọi là “cúm heo”) có mối quan hệ tài chính chặt chẽ với các công ty Big Pharma về lợi nhuận từ việc bán những loại vắc-xin đó. Báo cáo này được Deborah Cohen (biên tập viên của BMJ) và Philip Carter thực hiện (nhà báo của London Bureau of Investigation Journalism – Cơ quan điều tra báo chí London) đã phơi bày các mối quan hệ mờ ám khiến WHO tuyên bố đại dịch, dẫn đến hàng tỷ đô la lợi nhuận cho các nhà sản xuất vắc-xin Big Pharma.

Trong khi toàn bộ “thủ đoạn” H1N1 đang hiện hữu, WHO lại từ chối tiết lộ mọi xung đột lợi ích giữa các cố vấn hàng đầu của mình và các công ty Big Pharma kiếm hàng tỷ dựa trên những quyết định đó. Nói cách khác, tất cả lại quả đã được “đưa dưới gầm bàn”. Không thể tin nổi, đáp lại báo cáo của BMJ, Tổng thư ký WHO (bác sĩ Margaret Chan) đã bảo vệ bí mật và nói rằng WHO chủ ý giữ các mối quan hệ tài chính bí mật để “…bảo vệ tính toàn vẹn và độc lập của các thành viên trong khi làm công việc quan trọng này… [và] cũng để đảm bảo tính minh bạch”. Vậy, hãy để tôi nói thẳng điều này – họ “giữ bí mật” để “đảm bảo minh bạch” sao? Liệu điều đó có mâu thuẫn chăng? Tôi tin rằng George Orwell sẽ gọi đó là “nói nước đôi”.

Bạn còn nhớ nghiên cứu mà tôi đã đề cập trước đây kết luận các tài liệu quảng cáo gửi đến các bác sĩ từ các công ty dược phẩm hoàn toàn không có cơ sở thực tiễn khoa học? Nghiên cứu cho thấy hầu như tất cả các dữ liệu trong tài liệu quảng cáo khuyến mại của Big Pharma đều thiếu chính xác hoặc bị thổi phổng. Nói cách khác, tất cả chúng chứa đựng những lời nói dối. Điều đáng sợ là hầu hết các bác sĩ dựa vào thông tin trong các tài liệu quảng cáo khi đưa ra quyết định kê đơn thuốc cho bệnh nhân. Họ mù quáng tin tưởng vô căn cứ rằng Big Pharma tham gia nhiều nghiên cứu khoa học cũng như thử nghiệm lâm sàng nghiêm ngặt, họ đọc tài liệu quảng cáo, tin những lời nói dối, và sau đó kê đơn cho bệnh nhân. Tạp chí của Hiệp hội Y khoa Hoa Kỳ (JAMA) đưa tin trong tháng 2 năm 2002 rằng có 87% bác sĩ tham gia việc thành lập hướng dẫn quốc gia về bệnh tật có quan hệ tài chính với Big Pharma.

Trong số ra ngày 26 tháng 7 năm 2000 của JAMA, bác sĩ Barbara Starfield ghi nhận hơn 225.000 người chết mỗi năm là do lỗi y tế và nguyên nhân tử vong được xem là “do điều trị” (iatrogenic). “Do điều trị” nghĩa là gì? “Iatro” bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp, “iatros” là y tế hoặc thuốc, trong khi “genic” bắt nguồn từ “genesis” có nghĩa là nguồn gốc. Một nghiên cứu của giáo sư Đại học Harvard Lucian Leape cho thấy một triệu bệnh nhân bị thương tổn do sai sót trong khi điều trị tại bệnh viện hằng năm, với khoảng 120.000 ca tử vong. Cứ 200 bệnh nhân tại các bệnh viện ở bang New York thì có một bệnh nhân tử vong do điều trị.

Viện dinh dưỡng Mỹ tài trợ cho một báo cáo độc lập về thuốc được “chính quyền phê duyệt” công bố vào năm 2006. Các giáo sư Gary Null và Dorothy Smith, cùng với các bác sĩ Carolyn Dean Martin Feldman và Debora Rasio đặt tiêu đề báo cáo là “Tử vong do y học”. Trong báo cáo này, các nhà nghiên cứu phát hiện ra rằng nguyên nhân tử vong hàng đầu ở Mỹ không phải là bệnh tim hay ung thư – mà đó là thuốc chính thống. Họ nhận thấy số ca tử vong do điều trị ở Mỹ (tử vong gây ra bởi các bác sĩ và/hoặc liệu pháp điều trị y tế) là 783.936 người một năm! Thử so sánh, chỉ có 31.940 trường hợp tử vong do vũ khí mỗi năm, 19.766 trong số đó là tự tử.

Vậy, điều gì đằng sau những sự cố dẫn đến tử vong “do điều trị”?

Lợi nhuận và chính trị - đơn giản và dễ hiểu.

Theo lời của Robert Scott Bell, y học hiện đại đã trở thành “Hội Thánh của sinh học thần bí”. Tôi hoàn toàn tán thành. Tính chất nguy hiểm của “hội thánh” ngụy khoa học này thật dễ thấy mỗi khi các bác sĩ đình công. Năm 1976, ở Bogota, Columbia, trong khoảng thời gian 52 ngày hoàn toàn không có bác sĩ, ngoại trừ cấp cứu, tỷ lệ tử vong đã giảm xuống 35%. Đến cuộc đình công khác của bác sĩ trong năm 1976 ở Los Angeles, tỷ lệ tử vong giảm 18%. Trong năm 1973, có một cuộc đình công của bác sĩ ở Israel. Theo thống kê, tỷ lệ tử vong giảm 50%.

Một đánh giá năm 2008 công bố trên tạp chí danh tiếng Social Science & Medicine đã phân tích năm sự vụ riêng biệt, trong đó bác sĩ đình công dẫn đến giảm tỷ lệ tử vong. Rất lúng túng, họ cố đổ lỗi cho việc không có những phẫu thuật không cần thiết, nhưng cuối cùng, họ buộc phải thừa nhận rằng “các tài liệu cho thấy tỷ lệ tử vong giảm có thể là kết quả của các cuộc đình công”.

Năm 1966, trong cuốn Annals of Internal Medicine (Biên niên sử về nội khoa), hai bác sĩ Beaty và Petersdorf viết: “Chồng chất những vấn đề do điều trị và trong nỗ lực thoát khỏi những rắc rối của chẩn đoán và điều trị, bác sĩ có thể làm vấn đề tệ hơn khi sử dụng những kỹ thuật đầy rủi ro.” Diễn giải: Các bác sĩ đôi khi thực hiện những quy trình rủi ro hoặc kê các loại thuốc độc hại để che giấu những vấn đề gây ra bởi thuốc độc hại và những quy trình rủi ro được họ tiến hành trước đó. Bạn hiểu ra vấn đề chưa? Các bác sĩ thật nguy hiểm! Có vẻ như cách tốt nhất để giảm tử vong là sa thải bác sĩ.

Một lần nữa, cho phép tôi nhắc lại, tôi không nói cá nhân các bác sĩ có vấn đề. Hầu hết các bác sĩ tôi biết đều là những người thực sự nhân đức muốn giúp bệnh nhân của họ. Vấn đề là hệ thống. Hầu hết sinh viên y khoa không có lý do để nghi ngờ những kiến thức được dạy, còn nếu người nào dám hỏi những câu gây khó chịu, họ sẽ bị chế nhạo. Những bác sĩ trẻ muốn thành công biết rằng họ phải duy trì lòng trung thành mù quáng với “chân lý bền vững”. Một bác sĩ làm điều ngược lại sẽ sớm thấy mình chìm trong hố sâu và phải vật lộn để tồn tại! Để thành công, một bác sĩ phải tôn trọng sai lầm của người đi trước, giữ vững tín điều của thầy mình và đóng tâm trí lại trước những lý thuyết “bên ngoài lối mòn”.

Trớ trêu thay, y học là lĩnh vực không có chỗ cho những ý kiến phản đối hiện trạng. Các bác sĩ không thể cảnh báo bạn về những gì bản thân họ không biết, và họ có ít thời gian trau dồi một khi bắt đầu hành nghề y. Về một ý nghĩa nào đó, họ đang bị giam giữ bởi một hệ thống không khuyến khích họ thu thập thông tin một cách độc lập và hình thành ý kiến của riêng mình. Nói thẳng, hầu hết các bác sĩ bị tẩy não để chỉ suy nghĩ “bên trong lối mòn” và áp lực xã hội níu giữ họ ở đó.

Không như nhiều nước khác, Mỹ chỉ hỗ trợ một loại y học, đó là y học chính thống. Bởi thế, nhiều người Mỹ, gồm cả cha mẹ tôi, đã bị từ chối nhiều sự lựa chọn y tế quan trọng. Theo bác sĩ Alan Levin: “Bác sĩ gia đình của bạn không được tự do lựa chọn liệu pháp điều trị mà họ cảm thấy tốt nhất cho bạn, họ phải tuân theo mệnh lệnh ban hành bởi các bác sĩ mà động cơ và mối liên kết của họ làm cho quyết định của bác sĩ có thể không vì lợi ích tốt nhất của bạn.”

Một số ít bác sĩ dám đặt câu hỏi về hiện trạng thì thường xuyên bị tẩy chay và ngăn cản. Bạn nên biết rằng bác sĩ có nguy cơ bị ngồi tù và thu hồi giấy phép hành nghề y vì đề xuất hoặc sử dụng các liệu pháp điều trị ung thư thay thế, mặc dù thực tế có bằng chứng khoa học mạnh mẽ chứng minh tính hiệu quả của những phương pháp này. Các bác sĩ dám cung cấp cho bệnh nhân niềm hy vọng mới và những liệu pháp điều trị mới sẽ bị khinh miệt, ngược đãi, quấy rầy, phỉ báng, ép buộc phải đi trốn và/hoặc dọa dẫm bỏ tù.

Ví dụ, bác sĩ Stanislaw Burzynski ở Houston, Texas sử dụng thuốc chống ung thư không độc hại để điều trị thành công ung thư não, u lympho ác tính phi Hodgkin và nhiều loại ung thư phổ biến. Luật sư của FDA đã dành hàng chục triệu đô la và gần hai thập kỷ tìm cách tống bác sĩ Burzynski vào tù. FDA có hồ sơ theo dõi những cuộc khám xét bất ngờ văn phòng của những người thực hành liệu pháp điều trị thay thế, tiêu hủy hồ sơ y tế của họ và thậm chí đưa họ vào tù. Ngoài ra, nhiều bác sĩ sợ các vụ kiện tốn kém, mất nhiều thời gian và hãng bảo hiểm có thể bỏ rơi họ nếu họ sử dụng liệu pháp điều trị thay thế. Hội đồng y tế tiểu bang có thể phạt và thu hồi giấy phép của họ. Và hãy nhớ, bác sĩ cũng là con người. Do thực tế là các vị bác sĩ khác sẽ công khai chế nhạo họ nếu họ sử dụng liệu pháp điều trị thay thế, nhiều bác sĩ không chịu nổi phải kê đơn theo Big 3 là do áp lực của đồng nghiệp.

Nhóm quan liêu rối ren gồm chính trị gia, luật sư, giám đốc điều hành và các tập đoàn quốc tế khổng lồ đang nắm quyền kiểm soát hệ thống chăm sóc sức khỏe, và chính họ là người ra lệnh liệu pháp điều trị ung thư nào được phép và những liệu pháp nào không được phép. Các bác sĩ về cơ bản bị bỏ rơi trong bóng tối khi nói đến hoạch định chính sách liên quan đến liệu pháp điều trị ung thư.

Điểm cốt yếu: Đừng hy vọng một bác sĩ có suy nghĩ “theo lối mòn” chống lại hệ thống. Quá nhiều rủi ro.

Thuốc kê đơn

Bạn có biết thuốc kê đơn giết chết hơn 100.000 người Mỹ mỗi năm? Đó là con số từ trang web của chính FDA.

Giả sử con số 100.000 mỗi năm là tương đối ổn định và không tăng nhanh hoặc giảm nhanh, thì kể từ ngày 11 tháng 9 năm 2001 đã có hơn một triệu người chết do phản ứng bất lợi của thuốc! Chúng ta chưa bao giờ ngưng cuộc thập tự chinh chống vũ khí chiến tranh (trong khi tử vong do tai nạn súng đạn giảm xuống còn khoảng 600 ca mỗi năm) và chi hàng tỷ đô la vào các máy soi, quấy rối tình dục và gây khó dễ cho hành khách tại các sân bay. Trong suốt thời gian đó, FDA và Big Pharma tiếp tục đưa các loại thuốc độc hại, nguy hiểm ra thị trường.

Theo Ethan Huff, cây bút của NaturalNews.com: “Nếu al-Qaeda bị bắt vì đã thải hóa chất độc hại giả dạng thuốc cho thường dân vô tội, chúng sẽ được gửi thẳng đến vịnh Guantanamo không cần xét xử và bị giam vô thời hạn. Nhưng khi FDA làm điều tương tự trên quy mô lớn hơn nhiều, chẳng ai mảy may để ý. Tuy nhiên số người bị FDA giết bằng thuốc của họ nhiều hơn gấp bội so với số người thiệt mạng trong vụ 9/11 hoặc vụ ném bom ở thành phố Oklahoma. Và đến khi nào người dân Mỹ còn chưa đồng loạt thức tỉnh về thực tế này, chúng ta vẫn còn tiếp tục chứng kiến bạn bè, gia đình và con cái phải chịu những hủy hoại của cuộc tấn công khủng bố đang tiếp diễn này và bị tàn phá dưới bàn tay của Big Pharma và FDA.” Tôi đồng tình với Ethan.

Bạn có biết thuốc kê đơn gây thương tổn hơn hai triệu người Mỹ mỗi năm không?

Đây là điều cần chú ý!

Khi đi khám bác sĩ và thậm chí chỉ cầm một đơn thuốc, là bạn đang đánh cược với thuốc và bước vào cái bẫy của Big Pharma.

Cách duy nhất để giành chiến thắng canh bạc này và thực sự phục hồi sức khỏe là từ bỏ tất cả thuốc kê đơn và thực hiện những thay đổi thiết yếu về chế độ ăn uống và lối sống.

 

 

“Thế thì thuốc kê đơn không làm nên phép lạ cho sức khỏe con người sao? Chúng không làm cho chúng ta khỏe mạnh hơn sao?”

Vâng, nếu xem 30 phút truyền hình vào giờ cao điểm, chắc chắn bạn sẽ thấy một loạt quảng cáo tuyên bố “sự thật tuyệt đối” của thuốc kê đơn, lớn tiếng tuyên bố chúng có thể làm điều kỳ diệu cho con người, chẳng hạn như giúp đỡ người bị trầm cảm, giảm cholesterol, tăng ham muốn tình dục, loại bỏ dị ứng, làm dịu cơn quấy của trẻ, và đảo ngược bệnh loãng xương. Nếu thuốc kê đơn rất tốt cho chúng ta, vậy hãy để tôi hỏi bạn một câu: “Tất cả những người ‘khỏe mạnh’ với thuốc đang ở đâu?”

Thực sự không có ai, phải không? Nếu thuốc kê đơn tốt cho chúng ta, thì sẽ có hàng trăm triệu người Mỹ đang dùng thuốc kê đơn có tinh thần vững mạnh, thân thể tráng kiện, tràn đầy năng lượng? Vâng, những người này đang ở đâu? Thông thường, khi gặp ai đó đang uống nhiều loại thuốc kê đơn, họ có tinh thần uể oải, biểu hiện ốm yếu, thường xuyên mệt mỏi, cảm xúc không ổn định và chán nản. Nếu bạn đi xuống chợ ở địa phương và gặp những người khỏe mạnh nhất mà bạn thấy, bạn thử hỏi thuốc kê đơn nào là nguyên nhân cho sức khỏe của họ? Sau chút sửng sốt và bối rối, họ sẽ nói với bạn rằng họ không dùng thuốc kê đơn! Điểm mấu chốt là thuốc kê đơn làm cho người ta bệnh nặng hơn.

Đây là lý do: Trong quá trình phát triển, thuốc kê đơn được thiết kế để nhắm tới mục tiêu đo lường một chỉ số duy nhất, chẳng hạn như mức cholesterol. Hãy xem xét thuốc statin làm ví dụ. Statin làm giảm cholesterol LDL, cơ chế thực hiện việc này có vấn đề. Nó làm giảm cholesterol bằng cách ức chế khả năng gan tạo ra tất cả các loại cholesterol, kể cả cholesterol HDL. Vì vậy, trong khi statin có thể ảnh hưởng tích cực đến một chỉ số, thì nó lại phá vỡ chức năng sinh lý của cơ thể theo nhiều cách khác. Có hơn 900 nghiên cứu chứng tỏ tác dụng phụ của statin, bao gồm thiếu máu, ung thư, mệt mỏi mạn tính, nhiễm a-xít, rối loạn chức năng gan, rối loạn tuyến giáp, Parkinson, Alzheimer và thậm chí cả tiểu đường!

Tất nhiên, toàn bộ “kế hoạch bấp bênh” về statin bắt đầu sụp đổ nhanh chóng một khi bạn nhận ra rằng công chúng ngây thơ về khoa học đang bị lừa bịp về mối tương quan không đúng giữa cholesterol “xấu” (LDL) cao và bệnh tim mạch. Bạn thấy đấy, cholesterol được vận chuyển bởi lipoprotein mật độ thấp (LDL) hay lipoprotein mật độ cao (HDL) giống hệt nhau. Cholesterol chỉ đơn giản là một thành phần cần thiết phải thường xuyên được cung cấp đi khắp cơ thể để giúp phát triển, nuôi dưỡng các tế bào. Đó là điều quan trọng đối với sức khỏe. Quan trọng nhất, cholesterol có lẽ là một thành phần thiết yếu trong bộ máy khởi sự quá trình giải phóng chất dẫn truyền thần kinh trong não. Đúng vậy. Cholesterol không phải là “kẻ xấu” như mafia y tế tuyên bố. Và cholesterol cao không phải là nguyên nhân gây ra bệnh tim mạch!

Theo nghiên cứu gần đây tại Đại học Harvard, nguyên nhân chính của xơ vữa động mạch là những tổn thương và mảng bám trong động mạch do đường gây ra, đường là nguyên nhân giải phóng insulin. Insulin gây ra các tổn thương ở lớp nội mạc của động mạch và rồi bị tắc nghẽn bởi cholesterol. Vì vậy, cholesterol bị đổ lỗi, nhưng thủ phạm thực sự là đường. Cholesterol thực ra là “cơ cấu sửa chữa” của cơ thể để sửa chữa những hư hại động mạch do dư thừa đường trong chế độ ăn uống. Loại bỏ đường tinh luyện ra khỏi chế độ ăn uống và bạn sẽ không có bất kỳ vấn đề nào về tim mạch. Nói về cholesterol thế là đủ rồi, hãy trở lại với thuốc kê đơn.

Khi bệnh nhân bắt đầu có thêm vấn đề gây ra bởi thuốc kê đơn thì họ làm gì? Họ quay trở lại bác sĩ và bác sĩ chẩn đoán họ mắc bệnh khác nữa hoặc bị rối loạn. Và rồi, bác sĩ cho họ thêm một đơn thuốc để giúp “ổn định” các vấn đề do thuốc đầu tiên gây ra. Đây chính xác là những gì Big Pharma mong muốn – các bác sĩ bán thêm cho bệnh nhân thuốc kê đơn đắt hơn! Đó là “cái bẫy của Big Pharma”. Đó là “đánh cược với thuốc”. Kết quả là gì? Thu nhập trên mỗi cổ phiếu cao hơn! Tất nhiên rồi! Và chu kỳ tiếp tục… hết đơn thuốc này đến đơn thuốc khác, như những toa chở hàng trên một chuyến tàu. Cuối cùng, bệnh nhân bị suy sụp và đau đớn (hoặc chết) bởi hóa chất độc hại từ thuốc kê đơn.

Khi uống thuốc kê đơn thời gian dài, chắc chắn rằng bạn sẽ trở nên tồi tệ hơn so với lúc bắt đầu. Tôi không nói rằng thuốc kê đơn hoàn toàn vô ích. Có một số tình huống thuốc kê đơn rất hữu ích trong ngắn hạn. Tuy nhiên, đây không phải là cách mà những thuốc này đang được đẩy mạnh hiện nay. Do văn hóa tham lam tại Big Pharma và thiếu đạo đức phổ biến của họ, thuốc kê đơn đang được “thúc đẩy” như thuốc cả đời.

Big Pharma có thể giành được “sự phù hộ” của FDA cho thuốc mới nhất của họ vì những thử nghiệm lâm sàng chỉ tập trung vào một dấu hiệu trong khi về cơ bản bỏ qua những tác động bất lợi lên toàn cơ thể của thuốc. Mục tiêu của họ là tác động tích cực vào một triệu chứng cụ thể, để được FDA chấp thuận càng nhanh càng tốt. Nghĩa là hàng ngàn dấu hiệu để nhắm tới và nếu một loại thuốc kê đơn có thể thay đổi tích cực chỉ một trong các dấu hiệu (không giết quá nhiều người trong thử nghiệm lâm sàng), sau đó có khả năng FDA sẽ phê duyệt thuốc, mặc dù thiếu bằng chứng về tác dụng hệ thống của thuốc lên các chức năng khác của cơ thể. Đây chỉ là một trong nhiều vấn đề với thuốc kê đơn vì tất cả các loại thuốc đều có tác dụng lên toàn bộ cơ thể.

Rất nhiều hiệu ứng có hại khác mà thuốc có thể gây ra cho cơ thể người nhưng phần lớn đã bị bỏ qua. Vì thuốc kê đơn có tác dụng hệ thống, nên tất cả đều có tác dụng phụ có hại. Khi những người tham gia thử nghiệm lâm sàng bắt đầu cho thấy những tác dụng phụ, họ thường được miễn thử nghiệm để đảm bảo rằng các kết quả thử nghiệm về loại thuốc kỳ diệu mới nhất đều tích cực. Ví dụ, trong quá trình thử nghiệm lâm sàng cho Vioxx, những bệnh nhân bị nhồi máu cơ tim do thuốc bị loại ra khỏi kết quả thử nghiệm và thực tế này đã bị giấu kín. Đây là quy trình vận hành tiêu chuẩn của mafia y tế và là cách duy nhất mà các loại thuốc cực độc được phê duyệt và coi là “an toàn”.

Bạn tôi – Mike Adams, đã báo cáo rằng một số thuốc kê đơn được nâng giá kinh hoàng – 500.000% so với chi phí nguyên liệu thô (không, đây không phải lỗi in ấn) và một khoản lớn trong số tiền đó xoay vòng vào bộ máy truyền thông khổng lồ. Big Pharma tuyên bố rằng họ cần những chi phí cắt cổ đó để đầu tư vào nghiên cứu phát triển, nhưng trong thực tế, họ chi tiêu nhiều hơn gấp bội vào quảng cáo.

Theo Adams, “Hệ thống y tế hiện đại của chúng ta là giả tạo. Một hệ thống quảng cáo thuốc hợp pháp do Big Pharma chi phối. Tính khoa học phần lớn bị bóp méo (và thường là giả mạo trắng trợn), đạo đức hoàn toàn biến mất và cái giá lâu dài của tất cả điều này sẽ rất lớn.”

Mike hoàn toàn chính xác. Dưới đây là một vài câu chuyện khiến bạn bất ngờ.

 

 

·         Tháng 8 năm 2012, Eli Lilly thừa nhận chi thưởng cho bác sĩ hơn 200 triệu đô la.

·         Quý đầu năm 2012, Eli Lilly đồng ý chi trả 1,4 tỷ đô la để giải quyết các cáo buộc hình sự và dân sự của việc quảng cáo thuốc chưa được phê duyệt.

·         Do Eli Lilly đã biết Zyprexa gây ra bệnh tiểu đường mà không cho bệnh nhân biết điều này, họ đã phải giải quyết rất nhiều vụ kiện về “việc không chịu cảnh báo” với tổng giá trị 1,2 tỷ đô la.

·         Trong năm 2012, Eli Lilly đã đồng ý chi một khoản 1,42 tỷ đô la, trong đó 615 triệu đô la để giải quyết điều tra hình sự của Bộ Tư pháp và khoảng 800 triệu đô la để giải quyết các cuộc điều tra dân sự về tội gian lận tiền hỗ trợ y tế.

·         Tháng 6 năm 2012, một tòa án Ý đã phán quyết vắc-xin MMR của Merck gây ra chứng tự kỷ ở một cậu bé 10 tuổi. Kết quả là, một tòa án ở Rimini, Ý quyết định cấp cho gia đình tiền trợ cấp hằng năm trong 15 năm với tổng giá trị 174.000 euro (gần 220.000 đô la).

·         Tháng 7 năm 2012, hai nhà nghiên cứu khoa vi-rút học đã đệ đơn kiện lên liên bang chống lại Merck (chủ trước đây của họ) cáo buộc Merck đã làm sai lệch dữ liệu thử nghiệm để tạo ra tỷ lệ hiệu quả của vắc-xin là 95% hoặc cao hơn, pha vào máu thử nghiệm các kháng thể động vật để thổi phồng giả tạo sự xuất hiện kháng thể của hệ miễn dịch, gây áp lực để họ “tham gia các gian lận và che đậy hậu quả”, sử dụng kết quả thử nghiệm giả mạo để đánh lừa chính phủ Mỹ về “hàng trăm triệu đô la cho loại vắc-xin không cung cấp chủng ngừa tương ứng” và đe dọa các nhà khoa học, dọa dẫm tống họ vào tù, trừ khi họ im lặng.

·         Tháng 7 năm 2012, trong vụ gian lận được coi là lớn nhất từ trước đến nay trong ngành công nghiệp dược, GlaxoSmithKline thú nhận tội hối lộ, gian lận và những tội khác và chấp nhận trả 1 tỷ đô là tiền phạt hình sự, 2 tỷ đô la tiền phạt dân sự. Theo các nhà điều tra liên bang Mỹ, GlaxoSmithKline (GSK) thường xuyên hối lộ các bác sĩ bằng các kỳ nghỉ xa xỉ và thanh toán hợp đồng diễn thuyết, ngụy tạo dữ liệu an toàn thuốc và nói dối FDA.

·         GSK có một “mạng lưới tham nhũng” gồm 49.000 bác sĩ nhận tiền lại quả để kê nhiều thuốc của Glaxo cho bệnh nhân.

·         Năm 2012, Pfizer đã đồng ý trả 2,3 tỷ đô la để giải quyết trách nhiệm hình sự và dân sự do quảng cáo bất hợp pháp thuốc chưa được phê duyệt Bextra (một loại thuốc giảm đau đã bị rút khỏi thị trường), Geodon (giống Zyprexa, một thuốc điển hình chống loạn thần kinh gây hại cho trẻ em), Zyvox (kháng sinh), và Lyrica (một loại thuốc động kinh).