Vũ điệu của thần chết

Chương 5

Bà cụ lau nước mắt. Người vợ đứng phía sau, hai tay khoanh trước ngực.

Chúng chết rồi, chúng…

Quân nhân!

Đột nhiên Stephen cứng đờ người. Ngón tay trên cò súng bỗng buông lỏng.

Ánh đèn!

Những ánh đèn lia loang loáng, lặng lẽ lia dọc con phố. Những ánh đèn gắn trên nóc một chiếc xe tuần tra của cảnh sát. Rồi thêm hai chiếc xe nữa, và rồi cả tá, một chiếc xe cấp cứu lao phăm phăm qua những ổ gà trên đường. Tất cả ập vào quanh ngôi nhà của Người vợ từ cả hai đầu con phố.

Cài chốt an toàn súng đi, quân nhân.

Stephen hạ súng xuống, khẽ lùi vào trong gian tiền sảnh lờ mờ tối.

Cảnh sát từ trong những chiếc xe ùa ra như nước chảy. Họ tản ra dọc theo vỉa hè, ánh mắt lia khắp nơi và trên các mái nhà gần đó. Họ đạp tung những cánh cửa dẫn vào ngôi nhà của Người vợ, đập kính vỡ tan tành và lao vào trong.

Năm nhân viên thuộc ESU[30], nai nịt và vũ trang đầy đủ, triển khai dọc lề đường, phong toả rất gọn ghẽ tất cả những vị trí cần phong toả, những ánh mắt tinh tường mở to đầy cảnh giá, những ngón tay co lại đặt sẵn trên cò những khẩu tiểu liên đen sì. Cảnh sát tuần tra thực ra cũng chỉ là cảnh sát giao thông không hơn không kém, nhưng không thể có lực lượng nào thiện chiến hơn ESU của New York. Người vợ và Người bạn đã biến mất, có lẽ là bị đẩy nằm bẹp xuống sàn nhà. Cả bà già cũng vậy.

Lại thêm cơ man nào là xe ập đến, vây kín đường phố, phong tỏa các vỉa hè xung quanh.

Stephen Kall bắt đầu cảm thấy rùng mình. Nhớp nháp. Mồ hôi rịn ra ở hai lòng bàn tay và hắn phải nắm chặt hai bàn tay lại để vắt hơi ướt ra khỏi găng tay.

Rút lui ngay, quân nhân…

Hắn dùng một chiếc tuốc nơ vít để cạy tung ổ khoá trên cửa chính và lách người vào trong, hắn rảo bước thật nhanh nhưng không hề chạy, đầu cúi thấp, hướng thẳng về lối cửa lách dành cho người giúp việc dẫn ra con hẻm. Không một ai trông thấy hắn và hắn lẻn ra ngoài. Chỉ một lát sau hắn đã ở trên Đại lộ Lexington, rảo bước theo hướng nam xuyên qua đám đông về phía ga ra ngầm, nơi hắn đã để chiếc xe thùng.

Nhìn thẳng về phía trước.

Thưa ngài, lại có vấn đề rồi, thưa ngài.

Ngày càng đông cảnh sát.

Họ đã phong toả Đại lộ Lexington từ cách đó ba toà nhà về phía nam và đang thiết lập một vòng vây xung quanh ngôi nhà của Người vợ, chặn các xe lại, theo dõi những khách bộ hành trên đường phố, lục soát từ cửa nhà này sang nhà khác, chốc chốc lại rọi những chiếc đèn pin dài ngoằng của mình vào dãy xe đậu hai bên đường. Stephen nhìn thấy hai cảnh sát, tay họ lăm lăm đặt sẵn trên báng những khẩu Glock, yêu cầu một người đàn ông bước ra khỏi xe trong khi họ kiểm tra bên dưới một đống chăn trên băng ghế sau. Điều khiến Stephen thấy chột dạ là người đàn ông đó là một người da trắng và cũng trạc tuổi hắn.

Toà nhà nơi hắn đã đậu chiếc xe lại nằm ngay trong vòng vây lục soát của cảnh sát. Hắn không thể lái xe ra ngoài mà không bị chặn lại. Hàng rào cảnh sát mỗi lúc một khép lại gần hơn. Hắn bước nhanh quay lại ga ra và kéo mở cánh cửa chiếc xe thùng. Hắn vội vàng thay quần áo – cởi bỏ vẻ ngoài của một nhà thầu xây dựng, quần jean màu xanh, giày bảo hộ (không có những dấu vết khiến hắn lộ tẩy), một chiếc áo phông màu đen, một chiếc áo gió màu xanh thẫm (không có bất kỳ chữ in nào) và một chiếc mũ lưỡi trai bóng chày (không có biểu tượng của đội nào). Chiếc ba lô màu đen đựng laptop của hắn, mấy cái điện thoại di động, những khẩu súng ngắn mà đạn bổ sung được lấy từ thùng xe ra. Hắn có thêm đạn, cặp ống nhòm, ống kính nhìn đêm, dụng cụ, mấy gói thuốc nổ, và vô số kíp nổ khác nhau. Stephen cho tất cả vào chiếc ba lô lớn.

Khẩu Model 40 được để trong một chiếc hộp đàn guitar bass hiệu Fender. Hắn nhấc hộp đàn ra khỏi thùng xe và đặt nó cùng chiếc ba lô xuống sàn ga ra. Hắn cân nhắc xem phải làm gì với chiếc xe. Stephen chưa hề động chạm vào bất kỳ bộ phận nào trên xe mà không đi găng tay nên trong xe sẽ không có gì có thể làm lộ danh tánh của hắn. Bản thân chiếc Dodge này cũng là xe ăn trộm và hắn đã tháo bỏ tất cả những biển số cũ của chiếc xe. Tự tay hắn đã làm những biển số giả thay thế. Hắn cũng đã tính đến chuyện sớm muộn cũng vứt bỏ chiếc xe và có thể làm nốt phi vụ mà không cần tới nó. Hắn quyết định bây giờ là lúc phải bỏ nó lại. Hắn trùm lên chiếc Dodge vuông chằn chặn một tấm vải bạt che xe màu xanh hiệu Wolf, rồi chọc mũi dao găm vào lốp xe khiến chúng xì hơi và xẹp xuống, làm ai nhìn qua cũng tưởng chiếc xe đã nằm đây từ vài tháng nay. Hắn rời ga ra bằng thang máy đi lên tòa nhà.

Ra đến ngoài, hắn lại lẻn vào giữa đám đông. Nhưng lúc này chỗ nào cũng có cảnh sát. Da hắn bắt đầu sởn gai ốc. Hắn cảm thấy nhớp nháp, giòi bọ. Hắn bước lại một cột điện thoại công cộng và làm ra vẻ đang gọi điện, đầu hắn cúi xuống bảng kim loại của cột điện thoại, cảm thấy mồ hôi đang túa ra trên trán, bên dưới cánh tay. Suy nghĩ. Chúng ở khắp mọi nơi. Tìm kiếm hắn, chòng chọc nhìn thẳng vào hắn. Từ những chiếc xe. Từ đường phố.

Từnhững khung cửa sổ…

Ký ức lại ùa về…

Khuôn mặt trên khung cửa sổ.

Hắn cố hít một hơi thật sâu.

Khuôn mặt trên khung cửa sổ…

Chuyện đó cũng vừa xảy ra gần đây. Stephen được thuê thực hiện một phi vụ tại Washington D.C. Công việc là thủ tiêu một trợ lý nghị sĩ Quốc hội chuyên bán những thông tin mật liên quan đến vũ khí trang thiết bị quân sự cho – theo Stephen đoán – một đối thủ cạnh tranh của kẻ đã thuê Stephen. Điều dễ hiểu là tay trợ lý cũng rất đề phòng và thận trọng, thậm chí anh ta còn có một ngôi nhà an toàn ở Alexandria, Virginia. Stephen đã biết vị trí ngôi nhà và cuối cùng hắn còn mò đến sát tận nơi, đủ gần cho một phát súng ngắn – mặc dù đó là phát súng đòi hỏi phải đặc biệt thận trọng.

Một cơ hội, một phát súng…

Stephen đã phải chờ suốt bốn tiếng đồng hồ, cho tới khi nạn nhân tới nơi và lao vọt về phía ngôi nhà của anh ta, Stephen đã kịp bắn đúng một phát duy nhất. Hắn tin là mình đã bắn trúng mục tiêu nhưng nạn nhân đã đổ ngã vào một khoảnh sân năm ngoài tầm nhìn của hắn.

Nghe tôi nói đây, cậu nhóc. Cậu vẫn nghe đấy chứ?

Thưa ngài, có ạ.

Cậu phải lần theo tất cả các mục tiêu bị thương và làm nốt công việc. Cậu phải lần theo vết máu và quay lại cho dù nó có dẫn xuống địa ngục chăng nữa, cậu phải làm.

Nhưng…

Không nhưng gì hết. Cậu phải khẳng định chắc chắn con mồi đã chết. Cậu hiểu tôi chứ? Không có lựa chọn khác đâu.

Rõ, thưa ngài.

Và rồi Stephen đã trèo qua bức tường gạch vào khoảng sân nhà tay trợ lý. Hắn tìm thấy xác tay trợ lý nằm sõng soài trên nền đá hộc, bên cạnh một vòi phun nước hình đầu dê. Hóa ra đó đúng là một phát súng chí mạng.

Nhưng điều gì đó quái đản đã xảy ra. Điều gì đó chợt khiến hắn chợt rùng mình mà trên đời này không có nhiều thứ từng khiến hắn rùng mình. Có thể đó chỉ là tình cờ, do cách tay trợ lý gục xuống hoặc do cách viên đạn xuyên trúng anh ta. Nhưng hắn có cảm giác ai đó đã thận trọng rút vạt áo sơ mi của nạn nhân và vén nó lên để nhìn vết thương nhỏ xíu do viên đạn xuyên vào ngay phía trên xương ức.

Stephen quay ngoắt người, nhìn quanh xem kẻ nào đã làm việc đó. Nhưng, không, xung quanh không có một bóng người.

Hoặc ít ra lúc đầu hắn cũng đã tưởng vậy.

Rồi Stephen vô tình ngước lên nhìn qua bên kia sân. Có một ngôi nhà ngang cũ, những khung cửa sổ nhọ nhem và bẩn thỉu, mặt kính lấp loáng phản chiếu ánh hoàng hôn sắp tắt. Trong một khung cửa sổ như vậy, hắn đã nhìn thấy – hoặc cứ tưởng hắn đã nhìn thấy – một khuôn mặt đang chăm chú theo dõi mình. Hắn không nhìn rõ mặt người đàn ông – hoặc người phụ nữ. Nhưng dù có là ai chăng nữa thì người đó cũng không hề tỏ ra sợ hãi chút nào. Thậm chí kẻ đó còn không hề hụp đầu xuống hoặc tìm cách bỏ chạy.

Một nhân chứng, anh đã để sổng một nhân chứng, quân nhân!

Thưa ngài, tôi sẽ triệt tiêu khả năng bị nhận diện ngay lập tức, thưa ngài.

Nhưng khi đạp tung cánh cửa của ngôi nhà ngang, hắn thấy nó hoàn toàn trống trơn.

Di tản ngay, quân nhân…

Khuôn mặt trên khung cửa sổ…

Lần đó Stephen đã đứng trong ngôi nhà ngang trống trơn trông thẳng ra khoảng sân nằm trong khuôn viên ngôi nhà của người trợ lý Quốc hội, ánh mặt trời từ phía tây rọi vào những khung kính sáng rực rỡ. Và hắn cứ đứng tại chỗ mà quay vòng, chậm rãi, như một người quẫn trí.

Kẻ đó là ai? Hắn làm gì trong này? Hay đó chỉ là sự hoang tưởng của Stephen? Giống như cha dượng hắn vẫn nhìn thấy những tay súng bắn tỉa nằm náu mình trong những tổ chim ưng treo vắt vẻo trên ngọn những cây sồi ở West Virginia.

Khuôn mặt trên khung cửa sổ đã nhìn chằm chằm Stephen giống hệt như cha dượng hắn nhiều lúc vẫn nhìn hắn, săm soi, dò xét hắn. Stephen còn nhớ rõ hồi đó thằng nhóc là hắn đã nghĩ: Mình vừa phạm lỗi à? Mình có làm tốt không? Ông ấyđang nghĩ gì về mình nhỉ?

Cuối cùng hắn không thể chờ đợi thêm được nữa và quyết định quay trở lại khách sạn của mình ở Washington.

Stephen đã từng bị bắn, bị đánh và bị đâm bầm dập. Nhưng chưa có gì từng khiến hắn rúng động khủng khiếp như chuyện xảy ra ở Alexandria. Không một lần nào hắn bận tâm tới khuôn mặt của các nạn nhân, dù còn sống hay đã chết. Nhưng khuôn mặt trên khung cửa sổ đó giống như một con giòi đang bò lên chân hắn.

Nhớp nhúa…

Đó chính xác là cảm giác của hắn lúc này, khi nhìn thấy từng hàng cảnh sát đang tiến gần về phía mình từ cả hai hướng trên Đại lộ Lexington. Còi xe rú lên inh ỏi, cánh lái xe đang tức giận. Nhưng cảnh sát không hề bận tâm; họ vẫn tiếp tục quy trình lục soát dai dẳng của mình. Chỉ vài phút nữa thôi là họ sẽ để ý đến hắn – một người đàn ông da trắng vạm vỡ, khoác trên lưng một hộp đàn guitar có thể là nơi cất giấu lý tưởng cho khẩu súng trường bắn tỉa hoàn hảo nhất mà Chúa Trời tạo ra trên Trái Đất này.

Mắt hắn lướt qua những khung cửa sổ tối đen, cáu bẩn trông ra đường phố.

Hắn thầm cầu nguyện sẽ không nhìn thấy một khuôn mặt đang chằm chằm nhìn ra ngoài.

Quân nhân, anh đang nói cái quái gì vậy?

Thưa ngài, tôi…

Thám thính đi, quân nhân.

Rõ, thưa ngài.

Một mùi đăng đắng, cháy khét thoảng bay tới mũi hắn.

Hắn quay người lại và nhận ra hắn đang đướng bên ngoài một quán cà phê Starbucks. Hắn bước vào và trong khi làm như thể đang đọc quyển menu thì kỳ thực hắn đang chăm chú quan sát khách hàng trong quán.

Có một người phụ nữ to béo ngồi một mình tại bàn của cô ta với những chiếc ghế bé tí, vướng víu. Cô ả đang đọc một tờ tạp chí, tay mân mê cốc trà miệng cao. Trông cô ả trạc ba mươi tuổi, béo ục ịch, với một khuôn mặt to bè bè và cái mũi thô kệch. Starbucks, hắn bắt đầu liên tưởng mông lung…Seattle[31]… chẳng lẽ lại là dân lesbian?

Nhưng không, hắn không nghĩ vậy. Cô ả đang mải mê xem tờ Vogue[32] trên tay với ánh mắt ghen tỵ, chứ không có chút gì là thèm khát.

Stephen mua một cốc trà thảo dược thiên nhiên. Hắn xách hộp đàn lên và bắt đầu bước về phía một chiếc bàn gần cửa sổ. Stephen đang bước qua bàn của người phụ nũ thì chiếc cốc bỗng tuột ra khỏi tay hắn và rơi xuống cái ghế ngay trước mặt cô ta, nước trà nóng trong cốc đổ tràn khắp sàn nhà. Cô ả giật bắn mình, nhảy lùi lại và ngẩng lên nhìn vẻ khiếp đảm hiện rõ trên khuôn mặt Stephen.

“Ôi, lạy Chúa tôi”, hắn thì thào, “tôi vô cùng xin lỗi”. Hắn với tay chụp vội một nắm khăn giấy. “Hy vọng là tôi không làm đổ trà lên người cô đấy chứ.Xin lỗi!”

Percey Clay giằng ra khỏi người thám tử trẻ tuổi vừa giữ cô nằm bẹp xuống sàn nhà.

Bà Joan Carney, mẹ của Ed, nằm cách đó vài feet, khuôn mặt như chết đờ vì choáng váng và bàng hoàng.

Brit Hale đứng dựa sát vào tường, vây kín quanh anh là hai cảnh sát là hai cảnh sát lực lưỡng. Trông chẳng khác gì họ đang bắt giữ anh vậy.

“Tôi xin lỗi, thưa bà Clay”, một viên cảnh sát nói. “Chúng tôi…”

“Chuyện gì đang xảy ra vậy?” Hale không giấu nổi vẻ hoang mang. Khác với Ed và Ron Talbot, và ngay cả với chính Percey, Hale chưa từng phục vụ trong quân đội, chưa bao giờ phải đối mặt với những tình huống giao tranh. Anh thuộc mẫu người không biết sợ là gì – lúc nào anh cũng mặc áo dài tay thay cho chiếc sơ mi trắng ngắn tay truyền thống của phi công để che đi những vết sẹo bỏng nhằng nhịt trên hai cánh tay có từ sau lần anh trèo vào một chiếc Cessna 150 đang bốc cháy rừng rực để cứu một phi công và một hành khách mắc kẹt. Nhưng khái niệm tội ác – hành động cố tình gây tổn thương cho người khác – đối với anh lại hoàn toàn xa lạ.

“Chúng tôi vừa nhận được cuộc gọi từ nhóm điều tra hỗn hợp”, viên thám tử giải thích. “Họ cho rằng kẻ giết ông Carney đã quay lại. Có lẽ là hắn bám theo cả hai người. Ông Rhyme nghĩ tên sát thủ chính là kẻ đã lái chiếc xe thùng màu đen mà bà nhìn thấy hôm nay.”

“Hừ, đã có những người kia bảo vệ chúng tôi rồi còn gì?”, Percey cáu kỉnh hất đầu về phía những cảnh sát đã tới từ trước.

“Lạy Chúa”, Hale thốt lên khi nhìn ra bên ngoài. “Ngoài kia chắc phải có đến hai mươi cảnh sát.”

“Xin ông tránh xa cửa sổ ngay lập tức”, viên thám tử ra lệnh một cách dứt khoát. “Hắn có thể đang phục trên một mái nhà nào đó. Khu vực này chưa được bảo đảm an toàn.”

Percey nghe thấy tiếng những bước chân chạy lên cầu thang. “Mái nhà ư?” Cô hỏi với một giọng cay độc. “Có khi hắn đang đào đường hầm dưới móng nhà cũng nên.” Cô quàng tay quanh bà Carney. “Mẹ không sao chứ?”

“Chuyện đang xảy ra là vậy, tất cả chuyện này là thế nào?”

“Họ nghĩ rằng có thể mọi người ở đây đang gặp nguy hiểm”, viên cảnh sát nói. “Không phải bà, thưa bà”, anh ta giải thích thêm với mẹ của Ed. “Mà là bà Clay và ông Hale đây. Bởi vì họ là nhân chứng trong vụ án kia. Chúng tôi được lệnh phong tỏa khu vực quanh đây và đưa hai người tới sở chỉ huy.”

“Họ đã nói chuyện với hắn chưa?”, Hale hỏi.

“Không biết ông định nói đến ai, thưa ông?”

Chú thích:

[30]ESU (viết tắt của Emergency Services Unit) : Đơn vị phản ứng nhanh.

[31]Starbucks là một hệ thống quán cà phê và đồ giải khát nổi tiếng thế giới, có trụ sở tại thành phố Seattle, bang Washington (Mỹ). Thành phố này cũng là nơi thành lập cộng đồng của lesbian – những người đồng tính nữ đầu tiên của nước Mỹ cũng như trên thế giới vào năm 1971.

[32]Một tạp chí nổi tiếng về thời trang.

Người phi công cao gầy trả lời, “Thì kẻ mà chúng tôi đang làm chứngchống lạichứ còn ai nữa, tay Hansen ấy” Thế giới của Hale là thế giới của khoa học logic. Của những con người suy nghĩ theo lẽ thông thường. Của máy móc, những con số và thủy lực học. Cả ba cuộc hôn nhân của anh đều thất bại bởi vì nơi duy nhất anh dồn cả con tim của mình vào là khoa học hàng không và lý lẽ không thể bác bỏ được của buồng lái. Còn lúc này anh hất những lọn tóc lòa xòa trước trán và nói, “Cứ thẩm vấn hắn đi. Hắn sẽ cho các anh biết tên sát thủ là ai. Chính hắn đã thuê tên kia mà”.

“À, ừm, tôi không nghĩ là mọi chuyện có thể dễ dàng như vậy được.”

Một sĩ quan cảnh sát khác xuất hiện ở ngưỡng cửa. “Đường phố đã an toàn, thưa ngài.

“Xin vui lòng đi cùng chúng tôi. Cả hai người.”

“Thế còn mẹ của Ed thì sao?”

“Bà có sống trong khu vực này không ạ?”, viên cảnh sát hỏi.

“Không, tôi đang sống cùng em gái tôi”, bà Carney trả lời “Trong khu Saddle River.”

“Chúng tôi sẽ cho xe đưa bà về đó, rồi bố trí một cảnh sát vũ trang của bang New Jersey bảo vệ bên ngoài ngôi nhà. Bà không dính dáng đến vụ này nên tôi dám chắc là không có chuyện gì phải lo lắng cả.”

“Ôi, Percey.”

Hai người phụ nữ ôm chặt lấy nhau. “Mọi chuyện sẽ ổn thôi, mẹ ạ.” Percey cố gắng lắm mới ngăn được những giọt nước mắt chỉ chực trào ra.

“Không, không đâu”, bà cụ thút thít. “Sẽ không bao giờ yên ổn nữa…”

Một viên cảnh sát dẫn bà mẹ ra chiếc xe tuần tra của mình.

Percey đứng nhìn cho đến khi chiếc xe khuất hẳn, rồi quay sang hỏi viên cảnh sát đứng bên cạnh, “Bây giờ chúng ta sẽ đi đâu?”

“Đến gặp Lincoln Rhyme.”

Một viên cảnh sát khác nói, “Chúng ta sẽ bước ra cùng một lúc, mỗi bên sẽ có một cảnh sát bảo vệ các vị. Nhớ cúi thấp đầu xuống và không được ngẩng mặt lên trong bất kỳ tình huống nào. Chúng ta sẽ bước thật nhanh tới chiếc xe thùng thứ hai kia. Các vị thấy rồi chứ? Sau đó hai người nhảy ngay vào trong. Đừng nhìn ra ngoài cửa sổ và nhớ thắt dây an toàn. Chúng ta sẽ lái thật nhanh. Có câu hỏi gì nữa không?”.

Percey vặn mở chiếc chai bẹt và hớp một ngụm whiskey. “Có đấy, Lincoln Rhyme là thằng cha quái nào vậy?”

“Cô may cái đó? Tự tay cô làm thật sao?”

“Tôi làm đấy”, người phụ nữ nói, tay vuốt ve lại chiếc áo gi lê thêu may bằng vải jean, cũng giống như chiếc váy xếp nếp mà cô ta đang mặc, hơi rộng một chút, được tính toán rất cẩn thận nhằm che bớt đi thân hình bồ tượng của mình. Những vết khâu làm hắn nhớ đến những vòng ngấn xung quanh thân một con giòi. Hắn rùng mình, chợt thấy buồn nôn.

Nhưng hắn chỉ mỉm cười và nói, “Ấn tượng thật”. Hắn đã thấm sạch chỗ trà đổ và xin lỗi một cách ngọt ngào như một quý ông lịch lãm mà thỉnh thoảng cha dượng hắn đã thể hiện.

Hắn hỏi cô ta có thấy phiền không nếu hắn ngồi cùng bàn với cô ta.

“À, vâng… không có gì”, cô ta nói và giấu vội tờ Vogue vào chiếc túi vải của mình như thể đó là một tạp chí khiêu dâm.

“Ồ, mà nhân tiên cũng xin tự giới thiệu”, Stephen nói “tôi là Sam Levine”. Mắt cô ả thoáng long lanh khi nghe đến cái họ mà Stephen bịa ra và tin ngay vào cái vẻ bề ngoài đậm chất Aryan của hắn. “Chậc, mọi người vẫn gọi tôi là Sammie”, hắn nói thêm. “Đối với mẹ tôi thì tôi là Samuel nhưng chỉ sau khi tôi đã gây ra chuyện không hay gì đó.” Một tiếng cười khúc khích.

“Tôi sẽ gọi là bạn”, cô ả nói dứt khoát. “Tôi là Sheila Horowitz.”

Hắn liếc nhìn ra phía cửa sổ để tránh phải bắt bàn tay ẩm ướt của cô ta, với năm con giòi béo trắng nhởn.

“Rất vui được gặp cô”, hắn quay mặt lại và nói, bắt đầu nhấm nháp cốc trà mới mà hắn thấy thật tởm lợm. Sheila chợt nhận ra hai móng tay múp míp của cô ta đầy cáu bẩn. Cô ả vội vàng kín đáo cạy lớp ghét bên trong chúng ra.

“Thư thái lắm”, cô ta giải thích. “Tôi nói việc may vá ấy. Tôi có một chiếc máy khâu Singer cũ. Một cái màu đen kiểu cổ ấy. Từ đời bà ngoại tôi để lại.” Cô ả cố vuốt thẳng mớ tóc ngắn ngủn và bóng nhẫy của mình, chắc chắn đang ước ao giá như hôm nay là cái ngày cô ta kịp gội đầu.

“Tôi không biết có cô gái nào còn muốn may vá nữa”, Stephen nói. “Cô bạn gái mà tôi hẹn hò ở trường đại học cũng làm thế. Tự may lấy hầu hết quần áo của cô ấy. Hồi đó tôi thấy thật ấn tượng.”

“À vâng, ở New York này hình như không còn ai, ý tôi là không một ai, may vá gì nữa.” Cô ta cười khẩy một cách khinh thị.

“Hồi xưa mẹ tôi cũng suốt ngày may vá, hết giờ này đến giờ khác”, Stephen nói. “Tất cả các đường kim mũi chỉ đều phải hoàn hảo. Ý tôi là hoàn hảo thực sự. Cứ ba mươi giây mới khâu được một inch.” Điều này là thật. “Tôi vẫn còn giữ một ít quần áo mà bà may. Nghe thật ngớ ngẩn, nhưng tôi giữ chúng lại vì mẹ tôi đã may chúng.” Điều này thì không.

Stephen vẫn còn nghe tiếng chiếc máy khâu Singer chạy xành xạch rồi dừng lại vẳng ra từ căn phòng chật chội và nóng nực của mẹ hắn. Suốt ngày suốt đêm. Chăm lo từng đường kim mũi chỉ. Ba mươi giây một inch. Tại sao chứ? Bởi vì điều đó rất quan trọng!Này thì cái thước này, này thì cái thắt lưng da này, này thì con c…

“Hầu hết cánh đàn ông” – cái cách cô ta nhấn mạnh từ “đàn ông” nói lên rất nhiều điều về cuộc sống của Sheila Horowitz – “chẳng thèm quan tâm tới việc may vá. Họ chỉ thích những cô gái biết chơi thể thao hoặc rành về phim ảnh”. Cô ta vội nói thêm. “Ý tôi là tôi cũng biết những thứ đó chứ. Tôi vẫn trượt tuyết mà. Nhưng có lẽ tôi không giỏi bằng anh được. Và tôi cũng thích đi xem phim. Một số bộ phim.”

Stephen nói, “Ồ thật ra tôi không biết trượt tuyết. Tôi cũng không thích thể thao lắm”. Hắn nhìn ra bên ngoài và thấy cớm có mặt ở khắp mọi nơi. Sục sạo trong từng chiếc xe. Một đám giòi xanh lè.

Thưa ngài, tôi không hiểu tại sao chúng lại tiến hành đợt càn quét này, thưa ngài.

Quân nhân, nhiệm vụ của anh không phải là hiểu. Nhiệm vụ của anh là xâm nhập, đánh giá, đánh lạc hướng, cô lập và tiêu diệt. Đó là nhiệm vụ duy nhất của anh.

“Xin lỗi”, hắn hỏi lại, không để ý đến điều cô vừa nói.

“Tôi đang nói là, ồ, đừng an ủi tôi thế. Ý tôi là chắc tôi phải tập luyện, có lẽ là nhiều tháng mới có được thân hình như anh. Tôi đang định tham gia Câu lạc bộ Quần vợt và Sức khỏe. Thực ra tôi đã có kế hoạch tham gia từ lâu. Chỉ có điều tôi gặp trục trặc với cái lưng của mình. Nhưng thực sự, thực sự là kiểu gì tôi cũng sẽ tham gia.”

Stephen bật cười vui vẻ. “Ôi trời, tôi ngán đến tận cổ – chậc, chậc, tất cả những cô nàng ẽo uột ngày nay. Cô biết đấy! Tất cả đều gầy gò, nhợt nhạt. Cứ thử lấy một cô nàng gầy giơ xương mà cô thấy trên ti vi rồi đưa cô ta quay lại thời của Vua Arthur[33] mà xem, thế nào họ cũng cho triệu quan thái y đến để rồi ông ta sẽ cuống quýt tâu, “Cô ta sắp chết rồi, thưa bệ hạ”.”

Ánh mắt Sheila sáng bừng lên, rồi cô ả phá lên cười ngặt nghẽo, để lộ hàm răng thật thảm hại. Câu chuyện đùa cho cô ả một cái cớ để đặt tay lên tay hắn. Stephen cảm thấy năn con giòi đang ngoe ngẩy trên da hắn và cố chống chọi với cảm giác buồn nôn. “Bố tôi”, cô ta nói, “ông ấy từng là một sĩ quan quân đội chuyên nghiệp, đi rất nhiều nơi. Ông kể cho tôi nghe là ở những nước khác người ta cho rằng con gái Mỹ quá gầy gò”.

“Ông ấy là một quân nhân sao?”, Sam Sammie Samuel Levine hỏi với một nụ cười.

“Lúc về hưu ông ấy là đại tá.”

“Chà…”

Quá sức chịu đựng sao? Hắn tự hỏi. Không. Hắn nói, “Tôi cũng đang ở trong quân ngũ. Trung sĩ. Lục quân”.

“Không phải đấy chứ! Anh đóng quân ở đâu?”

“Tác chiến Đặc biệt. Ở New Jersey.” Cô ả sẽ có đủ hiểu biết để không hỏi thêm bất kỳ điều gì liên quan đến hoạt động Tác chiến Đặc biệt. “Tôi rất mừng khi biết trong gia đình cô cũng có một quân nhân. Nhiều khi tôi không muốn nói cho mọi người biết tôi làm gì. Chẳng có gì hay ho cả. Đặc biệt là ở nơi này. Ý tôi là New York ấy.”

“Ôi, anh bận tâm tới chuyện đó làm gì. Tôi nghĩ đó là một nghề rấthayđấy chứ, anh bạn.” Cô ả hất đầu về phía chiếc hộp đàn Fender. “Anh còn là một nhạc công nữa sao?”

“Cũng không hẳn. Tôi làm việc tình nguyện tại một trung tâm chăm sóc cộng đồng. Dạy nhạc cho bọn trẻ. Nằm trong hoạt động chung của đơn vị.”

Ngoảnh nhìn ra ngoài. Những ánh đèn hiệu loang loáng. Xanh trắng. Một chiếc xe tuần tra của cảnh sát vừa vụt qua.

Cô ả nhích chiếc ghế của mình lại gần hơn và hắn nhận thấy một mùi thật tởm lợm. Hắn lại cảm thấy sởn gai ốc và trong đầu bất giác tưởng tượng ra hình ảnh những con giòi bò lổm ngổm trong mớ tóc nhởn nhơ của cô ta. Suýt nữa thì hắn nôn thốc nôn tháo. Hắn xin lỗi đứng dậy và vào nhà vệ sinh kỳ cọ hai bàn tay mấy phút liền. Khi quay lại hắn nhận ra hai chi tiết: chiếc cúc áo trên cùng của cô ta đã được mở ra và vạt sau chiếc áo len của cô ta dính khoảng một nghìn sợi lông mèo. Lũ mèo, đối với Stephen, cũng chỉ là những con giòi bốn chân.

Hắn nhìn ra ngoài và trông thấy những hàng cảnh sát đang tiến lại gần hơn. Stephen liếc nhìn đồng hồ và nói, “Có lẽ tôi phải qua lấy lại con mèo. Nó đang ở chỗ bác sĩ thú y…”

“Ôi, anh cũng nuôi một con mèo sao? Tên nó là gì?” Cô ả tì hẳn người về phía trước.

“Buddy.”

Mắt cô ta sáng bừng lên. “Ôi, cái tên nghe mới dễ thương làm sao. Anh có ảnh không?”

Của một con mèo chết tiệt ư?

“Tôi không mang theo”, Stephen nói, và tặc lưỡi ra vẻ tiếc nuối.

“Anh bạn Buddy tội nghiệp bị ốm à?”

“Chỉ là kiểm tra bình thường thôi.”

“Ôi, thế thì tốt quá. Phải cẩn thận với lũ sán[34].”

“Sao lại thế?”, hắn hỏi, chợt thấy chột dạ.

“Anh biết đấy, ví dụ như sán tim ở mèo chẳng hạn.”

“Ồ, vâng”.

“À, ừm, nếu anh quả là người tốt, anh bạn ạ”, Sheila nói, lại là cái giọng ưỡn ẹo điệu đàng đó, “có lẽ tôi sẽ giới thiệu anh với Garfield, Andrea và Essie. Vâng, đúng ra tên thật phải là Esmeralda nhưng nó chưa bao giờ chấp nhận cái tên đó, tất nhiên rồi”.

“Nghe mới đáng yêu làm sao”, hắn nói, mắt chăm chú nhìn những bức ảnh mà Sheila vừa lấy trong ví ra. “Tôi rất muốn gặp chúng.”

“Anh biết đấy”, cô ả buột miệng. “Tôi sống cách đây có ba khối phố. Trên phố Tám mươi mốt.”

“À, tôi có ý này.” Hắn làm ra vẻ phấn chấn. “Có lẽ tôi sẽ gửi chỗ cô món đồ này rồi tiện thể thăm những cục cưng của cô luôn. Sau đó cô có thể giúp tôi cùng đi đón Buddy.”

“Được thôi”, Sheila nói.

“Chúng ta đi nào.”

Ra đến ngoài, cô ta thốt lên. “Ôi trời, nhìn xem bao nhiêu là cảnh sát kìa. Có chuyện gì thế nhỉ?”

“Chậc, không biết.” Stephen khoác chiếc ba lô lên vai. Có tiếng kim loại gì đó kêu loảng xoảng. Có lẽ một quả lựu đạn va phải khẩu Beretta của hắn.

“Cái gì trong đó vậy?”

“Toàn nhạc cụ ấy mà. Cho bọn trẻ.”

“Ồ, kiểu như phách ba góc ấy à?”

“Đúng rồi, kiểu như phách ba góc.”

“Anh muốn tôi cầm hộ chiếc guitar không?”

“Có phiền cô không?”

“Ồ không, tôi nghĩ sẽ ổn mà.”

Cô ả cầm chiếc hộp đàn Fender và ngoắc cánh tay mình vào tay hắn. Cả hai cùng rảo bước qua một đống cảnh sát, những kẻ mù không để ý gì đến cặp tình nhân, rồi đi thẳng đến cuối phố, cười đùa vui vẻ và nói chuyện về lũ mèo điên rồ.

Chú thích:

[33]Vị vua anh minh và dũng cảm trong những truyền thuyết của nước Anh thời Trung cổ.

[34]Trong tiếng Anh, “worm” là từ dùng chung để chỉ “giòi”, “sán” hay “sâu”. Stephan bị ám ảnh bởi lũ giòi nên khi nghe Sheila nói “worm” theo nghĩa “sán”, hắn mới thấy chột dạ.