Vũ Khí Bóng Đêm 1: Thành Phố Xương

Chương 17: Ký ức trắng trơn

“Mẹ làm vậy với tôi ư? Clary gặng hỏi, nhưng cơn giận dữ vì ngạc nhiên nghe không hề thuyết phục, kể cả với chính tai cô. Nhìn quanh, cô thấy sự thương cảm trong mắt Jace, mắt Alec – kể cả Alec cũng đoán ra và thấy thương hại cho cô. “Vì sao?”

“Tôi không biết.” Magnus xòe bàn tay dài trắng ra. “Tôi không việc gì phải hỏi. Tôi làm những việc người ta trả thù lao thôi.”

“Trong khuôn khổ của Hiệp Định,” Jace nhắc, giọng mềm mại như lông mèo.

Magnus nghiêng đầu. “Tất nhiên, trong khuôn khổ Hiệp Định.”

“Vậy thì Hiệp Định đồng ý với chuyện... cưỡng đoạt trí nhớ này ư?” Clary cay đắng hỏi. Khi không ai trả lời, cô ngồi phịch xuống mép giường của Magnus. “Chỉ duy nhất một lần sao? Mẹ đặc biệt muốn tôi quên những gì? Ông có biết là những chuyện gì không?”

Magnus bồn chồn đi lại bên ô cửa sổ. “Tôi không nghĩ là cô hiểu. Lần đầu tiên tôi thấy cô, hẳn cô chỉ tầm hai tuổi. Tôi đã nhìn ra ô cửa sổ này” – ông ta gõ lên cửa kính, làm rơi lớp bụi và vụn sơn xuống – “và tôi thấy mẹ cô vội vã chạy trên đường, ôm theo cái gì đó quấn trong chăn. Tôi ngạc nhiên khi mẹ cô dừng trước cửa nhà tôi. Bà ấy trông rất bình thường, rất trẻ.”

Ánh trăng chạm đến khuôn mặt nhìn nghiêng hiếu chiến của ông ta bằng thứ ánh sáng bàng bạc. “Bà mở chăn khi bước vào nhà tôi. Cô nằm trong đó. Mẹ cô đặt cô xuống sàn nhà và cô bắt đầu bò lê la, nhặt mọi thứ lên, kéo đuôi con mèo của tôi – cô hét lên như nữ thần báo tử khi con mèo cào cô, vì thế tôi đã hỏi mẹ cô rằng cô có mang dòng máu thần báo tử không. Mẹ cô không cười.” Ông ta ngừng lại. Giờ tất cả đều chăm chú quan sát ông ta, kể cả Alec. “Mẹ cô nói với tôi rằng bà là Thợ Săn Bóng Tối. Mẹ cô chẳng việc gì phải nói dối cả; những Ấn Ký Giao Ước phơi ra đó, thậm chí khi chúng phai đi cùng năm tháng, nhưng những vết sẹo trắng bạc mờ trên da. Chúng sáng lên theo từng bước mẹ cô chuyển động.” Ông ta dụi lớp kim tuyến bôi quanh mắt. “Mẹ cô nói bà đã hy vọng cô sinh ra bị mù Tâm Nhãn – một vài Thợ Săn Bóng Tối phải được dạy dỗ mới nhìn thấy Thế Giới Bóng Tối. Nhưng bà đã bắt gặp cô trong chiều hôm đó, đang trêu chọc một yêu tinh bị kẹt trên bờ rào. Mẹ cô biết rằng cô thấy được. Vì thế mẹ cô hỏi tôi liệu tôi có thể làm mù Tâm Nhãn của cô không.”

Clary kêu lên khe khẽ, một tiếng thở ra đau đớn, nhưng Magnus vẫn tàn nhẫn tiếp tục.

“Tôi đã nói với mẹ cô rằng làm tổn hại tới phần đầu óc ấy của cô có thể khiến cô bị tổn thương, thậm chí là bị điên. Mẹ cô không khóc. Bà ấy không phải loại phụ nữ ỉ ôi yếu đuối. Bà hỏi tôi liệu có cách nào khác không, và tôi đã nói tôi có thể khiến cô quên đi những phần của Thế Giới Bóng Tối mà cô vừa nhìn được, kể cả ngay khi cô đang nhìn thấy. Nhưng có điều cứ hai năm mẹ cô lại phải tới gặp tôi vì tới lúc đó hiệu lực bùa chú bắt đầu yếu dần.”

“Và mẹ tôi có tới không?” Clary hỏi.

Magnus gật đầu. “Kể từ hồi đó cứ hai năm tôi lại gặp cô một lần – tôi quan sát cô trưởng thành. Cô là đứa nhỏ duy nhất tôi từng quan sát trưởng thành theo cách đó. Trong công việc của tôi thường thì pháp sư không được chào đón ở quanh những đứa trẻ loài người.”

“Vậy là ông đã nhận ra Clary ngay khi chúng tôi bước vào,” Jace hỏi. “Ông phải nhận ra.”

“Tất nhiên rồi.” Magnus có vẻ bực bội. “Và tôi bị sốc. Nhưng cậu định làm gì nào? Clary không biết tôi. Đáng ra cô ấy không nên biết đến tôi. Nhưng việc cô ấy có mặt ở đây có nghĩa câu thần chú đã dần mất hiệu lực – và đáng ra chúng tôi phải gặp lại nhau từ một tháng trước. Thậm chí tôi còn tới nhà cô ngay khi trở về từ Tanzania, nhưng Jocelyn nói hai mẹ con đã cãi nhau và cô đã bỏ đi. Bà bảo sẽ ghé qua chỗ tôi khi cô trở về, nhưng” – một cái nhún vai duyên dáng – “mẹ cô chưa hề gọi lại.”

Một luồng ký ức lạnh ngắt ùa về làm da Clary sởn cả lên. Cô nhớ đã đứng ở sảnh ngoài cạnh Simon, căng thẳng cố nhớ vừa thoáng thấy thứ gì nhảy qua... Mình nghĩ mình vừa thấy con mèo của bà Dorothea, nhưng chắc do ánh sáng thôi.

Nhưng Dorothea làm gì có mèo. “Ông đã ở đó vào ngày hôm đó,” Clary nói. “Tôi thấy ông rời khỏi phòng Dorothea. Tôi nhớ đôi mắt ông.”

Magnus nhìn như sắp rên rừ rừ. “Đúng là tôi là người đáng nhớ lắm,” ông ta hả hê. Rồi lắc đầu. “Cô không nên nhớ tôi,” ông ta nói. “Tôi đã dựng ngay phép ảo ảnh sừng sững như tường thành ngay khi vừa thấy cô. Cô đã có thể đâm sầm mặt vào đấy ấy chứ - nói theo phương diện tâm lý đấy.”

Nếu anh đâm vào bức tường tâm lý, anh có bị bầm mặt không? Clary nói, “Nếu ông tháo bỏ bùa chú khỏi người tôi, liệu tôi có thể nhớ lại những gì đã quên không? Tất cả những ký ức ông đã đánh cắp ấy?”

“Tôi không thể tháo bỏ bùa chú cho cô,” Magnus có vẻ khó ở.

“Cái gì?” Jace nghe chiều tức giận. “Vì sao không? Hội Clave yêu cầu anh...”

Magnus lạnh lùng nhìn lại. “Tôi không thích bị bảo phải làm gì, Thợ Săn Bóng Tối nhỏ bé ạ.”

Clary có thể thấy Jace ghét bị gọi là “nhỏ bé” thế nào, nhưng trước khi anh gay gắt trả lời, Alec đã lên tiếng. Giọng anh ta vang lên nhẹ nhàng, trầm tư. “Ông không biết cách đảo ngược à?” Alec hỏi. “Ý tôi là câu thần chú ấy.”

Magnus thở dài. “Đảo ngược thần chú khó hơn tạo ra thần chú gấp nhiều lần. Sự rắc rối trong câu thần chú này, sự quan tâm tôi đặt vào đó để dệt nên nó – nếu tôi chỉ cần phạm phải một lỗi lầm nhỏ nhất khi tháo bỏ nó, đầu óc của cô ấy sẽ bị tổn thương vĩnh viễn. Hơn nữa,” ông ta bổ sung, “nó bắt đầu mất hiệu lực rồi. Hiệu lực sẽ dần tự biến mất theo thời gian thôi.”

Clary gay gắt nhìn ông ta. “Vậy lúc đó tôi có lại được ký ức không? Bất cứ thứ gì bị lôi khỏi đầu tôi ấy?”

“Tôi không biết. Có thể chúng sẽ đồng loạt quay lại, hoặc theo từng giai đoạn. Cũng có thể cô sẽ không bao giờ nhớ được những điều mình đã quên trong bao nhiêu năm qua. Trong bao nhiêu năm hành nghề của tôi, điều mẹ cô yêu cầu là độc nhất vô nhị. Tôi không biết điều gì sẽ xảy ra nữa.”

“Nhưng tôi không muốn đợi.” Clary đan chặt tay đặt trong lòng, những ngón tay bấu vào nhau chặt tới mức những đầu ngón tay trắng bệch. “Cả đời tôi tôi luôn có cảm giác có gì đó không ổn. Có gì đó thiêu thiếu hoặc bị tổn hại. Giờ thì tôi biết...”

“Tôi không làm tổn hại cô.” Lần này đến lượt Magnus ngắt lời, đôi môi giận dữ cong lên để lộ hàm răng trắng sắc nhọn. “Tất cả những thiếu niên trên thế giới này đều cảm thấy như vậy, cảm thấy tan nát hay lạc loài, khác biệt mà không hiểu vì sao, là hoàng tử mà bị sinh nhầm vào nhà nông dân. Cái khác trong trường hợp của cô là rằng cảm giác đó là thật. Cô thực sự khác biệt. Có lẽ không tốt hơn – nhưng khác biệt. Mà khác biệt không phải là điều dễ chịu gì. Cô có muốn biết cảm giác là như thế nào khi bố mẹ cô là dân con chiên ngoan đạo còn cô tự nhiên bị sinh ra với dấu ấn của quỷ không?” Ngón tay Magnus run rẩy chỉ lên mắt mình. “Khi bố cô chùn bước lúc nhìn thấy cô còn mẹ cô lại treo cổ trong kho thóc, đã hóa điên vì những gì mình làm ấy? Khi tôi lên mười, bố tôi đã cố dìm tôi xuống lạch. Ông ta biết, tôi không phải con đẻ của ông ta; rằng bố đẻ của tôi là một con quỷ. Tôi đã vùng vẫy, đã chống trả ông ta bằng mọi thứ có thể - và thiêu sống ông ta tại chỗ. Tôi đã tới gặp các Tu Huynh Câm để xin họ một chỗ nương thân. Họ nói bị thương hại là một điều thật cay đắng, nhưng còn tốt hơn là bị ghét bỏ. Khi tôi biết thực sự mình là gì, rằng bản thân tôi chỉ là một bán nhân, tôi đã ghét bỏ chính mình. Đấy là điều tồi tệ nhất.”

Sau khi Magnus nói xong, tất cả chìm trong im lặng. Clary ngạc nhiên khi chính Alec là người phá vỡ sự im lặng ấy. “Đó không phải lỗi của ông,” anh ta nói. “Ông sinh ra thế nào là ý trời.”

Vẻ mặt Magnus được đóng kín. “Tôi vượt qua chuyện đó rồi,” ông ta nói. “Tôi nghĩ cô đã hiểu tôi muốn nói gì. Khác biệt không đồng nghĩa với tốt hơn đâu, Clarissa ạ. Mẹ cô chỉ cố bảo vệ cô thôi. Đừng nổi khùng với mẹ.”

Đôi tay Clary lỏng ra đôi chút. “Tôi không quan tâm là mình có khác biệt hay không,” cô nói. “Tôi chỉ muốn thực sự là chính mình.”

Magnus chửi thề, bằng thứ ngôn ngữ cô không biết. Nghe như tiếng lửa cháy lách tách. “Được rồi. Nghe này. Tôi không thể tháo bỏ điều tôi đã làm, nhưng tôi có thể cho cô thứ khác. Một phần của thứ đáng lẽ là cô nếu cô được nuôi dạy như một Nephilim đúng nghĩa.” Ông ta đi qua phòng tới kệ sách và lôi xuống một cuốn sách nặng bìa nhung xanh lá cây đã mủn. Ông ta mở từng trang, khiến bụi và những mẩu vải đen bay lên. Những trang giấy mỏng dính, gần như trong veo như lớp màng trong vỏ trứng, mỗi trang được đánh dấu bằng một chữ rune đen lấp lánh.

Lông mày Jace nhướn lên. “Đây là bản sao cuốn Sách Xám sao?”

Magnus, đang lật sách liên hồi, không nói gì.

“Bác Hodge có một cuốn,” Alec nhận xét. “Bác ấy từng cho tớ xem một lần.”

“Nó đâu có xám,” Clary thấy buộc phải nói ra. “Nó màu xanh lá cây mà.”

“Nếu có một thứ mà chiết tự rõ ràng như vậy, thì hẳn em đã chết từ hồi nhỏ rồi,” Jace nói, phủi bụi dính trên khung cửa sổ rồi nhìn nhìn như đánh giá xem đã đủ sạch để ngồi lên hay chưa. “Xám là từ viết tắt của Gramarye. Nghĩa là ‘những kiến thức kỳ diệu được cất giấu’. Trong đấy ghi lại toàn bộ những chữ rune mà thiên thần Raziel đã viết lên cuốn Sách Giao Ước đầu tiên. Không có nhiều bản sao của cuốn sách này vì mỗi cuốn phải được chế bản một cách đặc biệt. Một số chữ rune chứa đựng quyền năng quá lớn có thể đốt cháy những trang sách bình thường.”

Alec có vẻ ấn tượng. “Thế mà tớ không biết.”

Jace nhảy lên bệ cửa sổ và đung đưa chân. “Không phải tất cả chúng ta đều ngủ gật trong tiết lịch sử đâu.”

“Tớ đâu có…”

“Ồ, có đấy, và chảy nước dãi sang bàn bên cạnh nữa cơ.”

“Im lặng nào,” Magnus nói, nhưng nói khá nhẹ nhàng. Ông ta dùng hai ngón tay giữ lấy hai trang sách và tới bên Clary, cẩn thận đặt sách lên đùi cô. “Giờ, khi tôi mở cuốn sách này ra, tôi muốn cô nhìn thật chăm chú. Nhìn tới khi cô cảm nhận có gì đó thay đổi bên trong đầu óc mình.”

“Có đau không?” Clary bồn chồn hỏi.

“Tất cả kiến thức đều mang lại đau đớn,” ông ta trả lời, rồi đứng thẳng dậy, để cho cuốn sách mở rộng trong lòng cô. Clary nhìn xuống trang giấy trắng trơn chỉ có duy nhất một Ấn Ký chữ rune đen tuyền dàn cả trang giấy. Trông giống như một hình xoáy ốc có cánh, tới khi cô nghiêng đầu, thì Ấn Ký trông giống một thanh trượng bị những dây leo bám quanh. Cạnh ngoài của hoa văn đó biến đổi khiến đầu óc cô ngứa ngáy như những sợi lông vũ chạm trên làn da nhạy cảm. Cô cảm nhận thoáng phản ứng rùng mình, khiến cô chỉ muốn nhắm mắt, nhưng vẫn cố mở cho tới khi mắt cay xè và mờ đi. Cô đang định chớp mắt thì cảm nhận thấy nó: một tiếng cách trong đầu, giống như chìa khóa xoay trong ổ khóa.

Chữ rune trên trang giấy có vẻ bắt đầu tụ lại, và cô nghĩ một cách thụ động, Nhớ. Nếu chữ rune là một từ, nó sẽ là từ đó, nhưng nó có nhiều ý nghĩa hơn bất cứ từ ngữ nào cô có thể tưởng tượng ra. Nó là ký ức đầu tiên của đứa trẻ về ánh sáng chiếu qua những chấn song trên thành nôi, ký ức về mùi hương của mưa và phố phường trong thành phố, là nỗi đau đớn vì những mất mát không thể nào quên, là cơn nhói đau khi nhớ lại những lần bị xỉ nhục, và là sự lãng quên độc ác của tuổi già, khi những ký ức lâu cũ nhất sống động với sự chính xác đến bực mình trong khi những sự kiện mới đây nhất lại biến mất không thể nhớ nổi.

Với một tiếng thở dài khe khẽ cô lật sang trang tiếp, trang tiếp nữa, để cho những hình ảnh và cảm giác chảy tràn trong cô. Buồn đau. Suy nghĩ. Sức mạnh. Bảo vệ. Ân huệ - và rồi hét lên trong sự ngạc nhiên quở trách khi Magnus giật cuốn sách khỏi lòng cô.

“Đủ rồi,” ông ta nói và nhét sách trở lại lên kệ. Ông chùi tay vào chiếc quần sặc sỡ, để lại những vệt màu xam xám. “Nếu cô đọc tất cả những chữ rune một lúc, cô sẽ bị đau đầu đấy.”

“Nhưng mà...”

“Hầu hết những đứa con của Thợ Săn Bóng Tối lớn lên chỉ học duy nhất một chữ rune một lần trong nhiều năm liền,” Jace nói. “Sách Xám chứa những chữ rune mà cả anh cũng chẳng biết.”

“Tinh tướng nhỉ,” Magnus nói.

Jace lờ đi. “Magnus đã cho em xem chữ rune mang nghĩa Hiểu biết và Hồi tưởng. Nó sẽ khơi mở tâm trí em giúp em đọc và nhớ những Ấn Ký còn lại.”

“Nó cũng giúp kích hoạt những ký ức ngủ vùi,” Magnus nói. “Những ký ức ấy sẽ trở lại với cô nhanh hơn khi cô chưa được xem qua hai chữ rune ấy. Tôi chỉ làm được đến đó thôi.”

Clary nhìn xuống lòng mình. “Tôi vẫn không nhớ chút gì về Cốc Thánh cả.”

“Cô muốn nhớ lại chỉ vì thế à?” Magnus rõ ràng là kinh ngạc. “Cô đang truy tìm chiếc Cốc của Thiên Thần ư? Nghe này, tôi đã quan sát những ký ức của cô. Không có gì liên quan tới Bảo Bối Thiên Thần hết.”

“Bảo Bối Thiên Thần ư?” Clary bối rối nhắc lại. “Tôi tưởng...”

“Thiên Thần đã ban ba báu vật cho những Thợ Săn Bóng Tối đầu tiên. Chiếc cốc, thanh kiếm và tấm gương. Các Tu Huynh Câm giữ thanh kiếm; chiếc cốc và tấm gương ở Idris, ít nhất là tới khi Valentine xuất hiện.”

“Không ai biết tấm gương ở đâu,” Alec nói. “Đã nhiều năm nay rồi.”

“Nhưng bọn tôi chỉ quan tâm tới chiếc Cốc thôi,” Jace nói. “Valentine đang tìm nó.”

“Và các cậu muốn có có trước khi Valentine tìm ra à?” Magnus hỏi, lông mày nhướn lên.

“Tôi tưởng ông bảo không biết Valentine là ai mà?” Clary thắc mắc.

“Tôi nói dối đấy,” Magnus thẳng thắn thừa nhận. “Các cậu cũng biết tôi không phải thần tiên mà. Tôi đâu cần phải thật thà. Và chỉ có kẻ ngốc mới ngáng đường trả thù của Valentine.”

“Vậy đó là điều ông nghĩ hắn đang theo đuổi ư? Trả thù?” Jace nói.

“Tôi đoán vậy. Hắn đã thua trong đau đớn, và hắn từng có vẻ như không thể nào là – vẫn đang có vẻ chứ nhỉ - dạng người chịu thua một cách quân tử.”

Alec nhìn Magnus kỹ hơn. “Ông đã có mặt trong vụ Nổi Dậy à?”

Đôi mắt Magnus xoáy thẳng vào Alec. “Đúng. Tôi đã giết một số người trong cộng đồng các cậu đấy.”

“Thành viên của hội Circle,” Jace nhanh nhảu. “Không phải hội chúng tôi...”

“Nếu các cậu cứ khăng khăng phủ nhận về điều xấu xa các cậu đã làm,” Magnus nói, vẫn nhìn Alec, “thì các cậu sẽ không bao giờ rút ra được bài học từ sai lầm cũ.”

Alec, đang nắm lấy khăn phủ bàn ở một bên tay, mặt đỏ lừ lộ vẻ không vui. “Ông có vẻ không ngạc nhiên khi nghe tin Valentine còn sống,” Alec nói, lảng tránh ánh nhìn của Magnus.

Magnus xòe rộng tay. “Các cậu thì sao?”

Jace mở miệng rồi lại ngậm miệng lại. Có vẻ anh thực sự lúng túng. Rốt cuộc anh cũng nói, “Vậy ông sẽ không giúp chúng tôi tìm chiếc Cốc Thánh phải không?”

“Nếu giúp được tôi cũng không giúp,” Magnus nói, “nhưng mà này, tôi không có khả năng giúp đâu. Tôi không biết nó ở đâu, và tôi cũng không muốn biết. Như tôi đã nói, chỉ có kẻ ngốc mới làm thế.”

Alec đứng thẳng hơn. “Nhưng không có chiếc Cốc, chúng tôi không thể...”

“Tạo thêm nhiều đồng loại các cậu. Tôi biết chứ,” Magnus nói. “Có lẽ không phải ai cũng nghĩ đó là thảm họa như các cậu tưởng đâu. Cậu nhớ cho này,” ông ta nói thêm, “nếu tôi phải chọn giữa hội Clave và Valentine, tôi sẽ chọn hội Clave. Ít nhất họ không thể xóa sổ giống nòi chúng tôi. Nhưng những gì hội Clave đã làm cũng chẳng thu phục được lòng trung thành cúc cung tận tụy của tôi cả. Vì thế, không đâu, tôi sẽ không can dự. Giờ chúng ta đã xong việc ở đây, tôi muốn trở lại bữa tiệc của tôi trước khi có vị khách nào ăn thịt nhau.”

Jace nãy giờ hết nắm tay lại rồi mở tay ra, trông có vẻ như định nói lên điều gì đó phẫn nộ lắm vậy, nhưng Alec đã đứng lên và đặt tay lên vai anh. Clary không thể nhìn được rõ trong cảnh tranh tối tranh sáng, nhưng có vẻ Alec bóp vai Jace rất mạnh. “Có thể không?” anh ta hỏi.

Magnus vui vẻ nhìn anh. “Chuyện đó từng xảy ra rồi.”

Jace lầm bầm gì đó với Alec, giờ đã thả anh ra. Lách mình đi, anh tới bên Clary. “Em ổn không?” anh thấp giọng hỏi.

“Chắc ổn. Tôi chẳng cảm thấy khác biệt gì hết...”

Magnus đứng bên cửa, nóng nảy búng ngón tay. “Đi nào, mấy cô mấy cậu. Người duy nhất được ân ân ái ái phòng ngủ của tôi là chính con người cao quý này mà thôi.”

“Ân ân ái ái hả?” Clary nhắc lại, như chưa từng nghe thấy từ đó bao giờ.

“Cao quý ư?” Jace nhắc lại, mặt như thể buồn nôn. Magnus càu nhàu. Tiếng càu nhàu nghe giống “Cút ra.”

Họ đi ra, Magnus đi sau, sau khi dừng lại khóa cửa phòng. Với Clary, tinh thần bữa tiệc dường như đã có chút khác biệt. Có lẽ vì nhãn quang của cô đã hơi thay đổi: Mọi thứ dường như rõ ràng hơn, những góc cạnh pha lê trở nên cực kỳ rõ nét. Cô quan sát nhóm nghệ sĩ đang biểu diễn trên một sân khấu nhỏ ở giữa phòng. Họ mặt quần áo bồng bềnh màu vàng, màu tím và xanh lá cây sậm, hát bằng tông giọng cao chót vót siêu trần.

“Tôi ghét mấy ban nhạc tiên,” Magnus lầm bầm khi các nghệ sĩ chơi liên khúc sang một bài hát gây ám ảnh khác, giai điệu tinh tế và trong suốt như đá pha lê. “họ toàn chơi mấy bản nhạc não tình.”

Jace, liếc nhìn quanh phòng, cười lớn. “Isabelle đâu rồi?”

Cảm giác tội lỗi chợt ùa đến với Clary. Cô đã quên mất Simon. Cô nhìn quanh, tìm kiếm đôi vai gầy và mái tóc đen bù xù quen thuộc. “Tôi không thấy cậu ấy. Ý em là họ.”

“Con nhỏ kia kìa,” Alec đã thấy cô em gái và vẫy cô nàng tới, trông có vẻ an tâm hơn phần nào. “Đằng này này. Và coi chừng thứ tiên biến hình phouka kia nhé.”

“Coi chừng con phouka à?” Jace nhắc lại, liếc nhìn người đàn ông gầy nhẳng da nâu mặc bộ vét hoa lá cành màu xanh lá cây đang trầm tư nhìn Isabelle khi cô nàng bước ngang qua.

“Hắn nhéo tớ khi lúc nãy tớ đi qua hắn,” Alec ngại ngùng nói. “Ở khu vực vô cùng riêng tư.”

“Tớ ghét phải nói thẳng với cậu, nhưng nếu hắn thích cái khu vực cực kỳ riêng tư của cậu, thì chắc chắn hắn sẽ không thích em gái cậu đâu.”

“Không hẳn,” Magnus nói. “Tiên không phân biệt nam nữ.”

Jace cong môi khinh bỉ về phía vị pháp sư. “Ông vẫn còn ở đây à?”

Trước khi Magnus kịp trả lời, Isabelle đã đứng trước mặt họ, mặt hồng rực, người bẩn thỉu và nồng nặc mùi cồn. “Jace! Alec! Các anh vừa ở đâu về thế? Em tìm các anh suốt...”

“Simon đâu rồi?” Clary xen ngang.

Isabelle lảo đảo. “Cậu ấy là chuột,” cô nàng buồn bã nói.

“Cậu ta làm gì em hả?” Alec ra giọng quan tâm như một người anh. “Cậu ta chạm vào em à? Nếu cậu ta dám làm gì...”

“Không, Alec,” Isabelle bực bội nói. “Không phải thế. Cậu ấy hóa chuột ấy.”

“Nhỏ này xỉn rồi,” Jace nói, bắt đầu khó chịu quay người đi.

“Không có đâu,” Isabelle căm phẫn. “Ừm, có thể một chút, nhưng đấy không phải vấn đề. Vấn đề là, Simon đã uống thứ nước màu xanh da trời – em đã bảo cậu ấy không được uống, nhưng cậu ấy không nghe – và cậu ấy hóa thành chuột.”

“Chuột á?” Clary ngờ vực nhắc lại. “Cậu không định nói là...”

“Ý mình là chuột,” Isabelle nói. “Nhỏ thó. Màu nâu. Đôi xếp vảy.”

“Hội Clave sẽ không thích vụ này đâu,” Alec hồ nghi. “Anh tin chắc việc hóa người thường thành chuột là đi ngược với Luật.”

“Về cơ bản thì nhỏ này đâu có biến Simon thành chuột,” Jace chỉ ra. “Tệ nhất thì cô nàng chỉ bị buộc tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng mà thôi.”

“Ai thèm quan tâm về cái Luật ngớ ngẩn ấy chứ?” Clary hét lên, nắm lấy cổ tay Isabelle. “Bạn thân của tôi bị hóa thành chuột rồi!”

“Ối!” Isabelle cố rút tay lại. “Thả tớ ra!”

“Tới khi cậu nói cho mình biết cậy ấy ở đâu đã.” Cô chưa từng muốn tát ai như muốn tát Isabelle trong lúc này. “Mình không thể tưởng tượng nổi cậu đã bỏ rơi cậu ấy – chắc cậu ấy sợ lắm...”

“Nếu cậu ta chưa bị dẫm bẹp ấy,” Jace chỉ ra điều vô bổ kia.

“Mình không bỏ cậu ấy. Cậu ấy chạy xuống dưới quầy bar ấy,” Isabelle cự nự. “Thả ra! Cậu làm móp vòng tay của mình rồi.”

“Quỷ cái,” Clary giận dữ, quật bàn tay của cô nàng Isabelle đang king ngạc về phía cô ta, rất mạnh. cô không thèm dừng lại xem cô gái kia phản ứng ra sao; cô đang chạy tới quầy bar. Cô quỳ thụp xuống, nhìn vào khoảng tối tăm bên dưới. Trong bóng tối mờ mờ nồng nặc mùi ẩm mốc, cô nghĩ mình chỉ có thể thấy ra một cặp mắt hình hạt đậu sáng lấp lánh.

“Simon ơi?” cô nói, giọng nghẹn lại. “Cậu phải không?”

Simon-chuột-cống bò ra một chút, hàng ria rung động. Cô đã thấy hình dáng đôi tai tròn nhỏ, ép sát vào đầu, cùng chóp mũi nhòn nhọn. Cô cố kìm nén cảm giác khiếp sợ - cô chưa bao giờ thích chuột cống cả, những sinh vật sở hữu hàm răng vàng ệch nhe ra chực cắn. Cô ước giá mà bạn mình hóa thành chuột đồng thì hơn.

“Mình, Clary đây,” cô chầm chậm nói. “Cậu ổn không?”

Jace và những người khác chạy tới sau lưng cô, Isabelle giờ trông có vẻ khó chịu hơn là chớm khóc. “Cậu ta có dưới đó không?” Jace tò mò hỏi.

Clary, vẫn bò chống tay, gật đầu. “Suỵt. Anh làm cậu ấy sợ đấy.” Cô dè dặt thò tay dưới gầm quầy và vẫy vẫy. “Đi ra nào, Simon. Chúng mình sẽ nhờ Magnus đảo ngược bùa chú. Ổn thôi mà.”

Cô nghe có tiếng rúc rích, rồi cái mũi hồng hồng của con chuột thò ra dưới quầy bar. Reo lên vì nhẹ nhõm, Clary ôm con chuột trong tay. “Simon! Cậu hiểu mình!”

Con chuột, nằm lọt thỏm trong hai bàn tay của Clary, lít chít rầu rĩ. Clary mừng rơn, ôm cậu bạn sát vào ngực. “Ôi, cậu bé đáng thương,” cô nựng, như thể cậu bạn thực sự là một con vật nuôi. “Simon đáng thương, mọi chuyện sẽ ổn thôi, mình hứa...”

“Anh thì anh sẽ không cảm thấy quá buồn cho cậu ta đâu,” Jace nói. “Đó có lẽ là khoảng cách gần nhất mà cậu ta từng được tiếp cận đến vòng hai.”

“Im đi!” Clary giận dữ lườm xéo Jace, nhưng cô đã buông lỏng con chuột hơn. Hàng ria của cậu bạn hơi rung động, không hiểu vì tức giận, lo lắng hay sợ hãi. “Đi tìm Magnus đi,” cô quát. “Chúng ta phải biến cậu ấy trở lại làm người.”

“Đừng vội.” Jace quả thật là đang cười toe toét, thằng cha đểu giả. Anh vươn tay về phía Simon như định nựng. “Trông cậu ta thế này lại dễ thương đấy chứ. Nhìn cái mũi hồng hồng be bé kia mà xem.”

Simon nhe những chiếc răng vàng khè dài ngoẵng với Jace và hầm hè chực cắn. Jace rụt tay lại ngay tức khắc. “Izzy, đi gọi vị chủ nhà cao quý tới đây xem nào.”

“Sao lại là em?” Isabelle nghe có vẻ dỗi.

“Bởi vì do lỗi của em nên gã người thường này mới hóa chuột, ngốc tử ạ,” anh nói, Clary chợt nhận ra đám người này thật hiếm khi nói ra tên thật của Simon, ngoài Isabelle. “Mà chúng ta không thể bỏ cậu ta tại đây.”

“Anh hẳn sẵn sàng bỏ cậu ta lại ngay nếu không vì con nhỏ kia,” Isabelle nói, cũng ráng tiêm được vào ba tiếng kia một liều thuốc độc đủ hạ gục một con voi. Cô nàng quày quả bỏ đi, chiếc váy nảy quanh hông.

“Mình không tin nổi là cô ta lại để cậu uống cái thức nước xanh xanh đó,” Clary nói với chuột-Simon. “Giờ cậu đã thấy cậu nhận lấy gì khi nông cạn đến thế rồi đấy.”

Simon giận dữ rít lên. Clary nghe có ai đang chậc lưỡi nên ngước lên trông thấy Magnus tì người nhìn xuống mình. Isabelle đứng sau ông ta, vẻ mặt phừng phừng phẫn nộ. “Rattus norvegicus,” Magnus nheo mắt nhìn Simon và nói. “Một con chuột cống lông nâu thông thường, không có gì độc hại.”

“Tôi không quan tâm cậu ấy thuộc loại chuột gì,” Clary bực dọc. “Tôi muốn cậu ấy trở lại thành người.”

Magnus gãi đầu nghĩ ngợi, làm rơi ít kim tuyến xuống. “Không đáng,” ông ta nói.

“Tôi đã nói thế mà.” Jace có vẻ hài lòng.

“KHÔNG ĐÁNG LÀ SAO?” Clary hét lên, lớn tiếng đến nỗi khiến Simon giấu đầu dưới ngón tay cái của cô. “SAO ÔNG CÓ THỂ NÓI LÀ KHÔNG ĐÁNG CHỨ?”

“Vì cậu ta sẽ trở lại nguyên trạng sau vài giờ nữa,” Magnus đáp. “Hiệu lực của ly cocktail chỉ tạm thời mà thôi. Không đáng để thực hiện thần chú biến hình; sẽ làm cậu ấy chấn thương đấy. Quá nhiều phép thuật sẽ gây hậu quả nghiêm trọng lên người thường, vì cơ chế của họ không quen với điều đó.”

“Tôi không nghĩ cơ chế của cậu ấy cũng quen với việc làm chuột đâu,” Clary nhận xét. “Ông là một pháp sư, ông không thể đảo ngược bùa chú sao?”

Magnus ngẫm nghĩ. “Không.”

“Ý ông là sẽ không làm.”

“Không làm miễn phí, cưng à, mà cô cũng chẳng trả nổi tiền cho tôi đâu.”

“Tôi không thể mang chuột lên tàu điện ngầm được,” Clary than vãn. “Tôi sẽ làm rơi cậu ấy, hoặc một trong những cảnh sát MTA sẽ bắt tôi vì tôiang loài gây hại lên các phương tiện giao thông công cộng mất.” Simon kêu chin chít giận dữ. “Tất nhiên cậu không phải động vật gây hại rồi.”

Một cô gái nãy giờ đang la hét cạnh cánh cửa giờ lại có thêm sáu hay bảy người khác hòa thanh. Âm thanh những giọng nói giận dữ át tiếng động của bữa tiệc và làn điệu bản nhạc. Magnus đảo mắt chán nản. “Xin phép nhé,” ông ta vừa nói vừa thụt lùi vào trong đám đông, đám đông ngay lập tức quây kín ông ta.

Isabelle, lảo đảo đứng trên đôi săng đan, thở dài thườn thượt. “Thôi rồi cái sự giúp đỡ của ông này.”

“Cô biết đấy,” Alec nói, “cô có thể nhét con chuột vào ba lô mà.”

Clary trừng trừng nhìn anh ta, nhưng không thấy ý kiến đó có gì sai. Không phải là cô có túi áo túi quần nào để nhét bạn vào. Quần áo của Isabelle không có chỗ cho túi; chúng quá bó. Clary ngạc nhiên khi chúng lại có chỗ cho Isabelle.

Nhún vai thả ba lô xuống, cô tìm được một chỗ giấu con chuột nâu nhỏ từng là Simon, nép giữa chiếc áo len tròng đầu và cuốn tập phác thảo. Cậu ta cuộn tròn người ngồi trên ví của cô, trông như muốn quở trách. “Mình xin lỗi,” cô khổ sở nói.

“Đừng chứ,” Jace nói. “Vì sao người thường cứ đòi nhận trách nhiệm về những việc không phải lỗi của họ vẫn là một điều bí ẩn với anh. Em đâu có đổ thứ cocktail đó xuống cái cổ họng ngu ngốc của cậu ấy.”

“Nếu không phải vì tôi, cậu ấy sẽ không tới đây làm gì,” Clary lí nhí nói.

“Đừng tự nịnh mình. cậu ta đi là vì Isabelle.”

Clary giận dữ kéo khóa cặp lại và đứng dậy. “Đi khỏi đây thôi. Tôi phát ốm với nơi này rồi.”

Đám đông người lố nhố la hét ngoài cửa hóa ra là những ma cà rồng, dễ nhận ra nhờ nước da trắng xanh và mái tóc đen tuyền. Họ chắc chắn có nhuộm, Clary nghĩ, không thể tất cả đều mang mái tóc đen tự nhiên được, và hơn nữa, một vài trong số họ có lông mày vàng. Họ đang lớn tiếng phàn nàn về những chiếc xe máy bị phá hoại và một vài người bạn của họ bị mất tích không rõ lý do. “Chắc họ uống say rồi ngất ở đâu đó thôi,” Magnus nói, vẫy những ngón tay dài ra chừng chán nản. “Các anh cũng thừa biết đám bọn anh có khuynh hướng biến thành dơi hay những đụn tro sau khi nốc quá nhiều ly Bloody Mary mà.”

“Họ trộn vodka với máu,” Jace nói vào tai Clary.

Hơi thở anh làm cô run rẩy. “Vâng, tôi hiểu rồi, cám ơn.”

“Chúng tôi không thể đi vòng vòng và hốt từng đống tro tại chỗ này chỉ để đề phòng sáng mai nó sẽ hóa thành Gregor được,” cô gái miệng sưng sỉa, lông mày vẽ nói.

“Gregor sẽ ổn thôi. Tôi ít khi quét nhà tắm lắm,” Magnus trấn an. “Tôi sẵn lòng đưa bất cứ ai nán lại đây về khách sạn vào sáng hôm sau – tất nhiên là trong những cỗ xe bịt kính đen.”

“Nhưng còn xe máy của chúng tôi?” cậu thiếu niên gầy nhẳng, chân tóc vàng lộ ra vì nhuộm qua loa nói. Chiếc khuyên vàng hình cọc nhọn lủng lẳng bên dái tai trái cậu ta. “Mất hàng giờ mới sửa xong chúng mất.”

“Cậu còn được chừng đó thời gian đến bình minh đấy,” Magnus nói, rõ ràng là tâm tính đang khó chịu vì nghe cãi vã. “Tôi đề nghị cậu nên bắt tay làm ngay đi.” Ông ta nói lớn hơn. Được rồi, XONG! Bữa tiệc đã kết thúc! Tất cả ra hết!” Ông ta vẫy tay, làm rơi chút bột kim tuyến.

Với một tiếng xoảng thật lớn, ban nhạc ngừng chơi. Những tiếng phàn nàn ầm ĩ dấy lên từ những người dự tiệc, nhưng họ ngoan ngoãn tiến ra cửa. Không ai dừng lại cảm ơn Magnus vì bữa tiệc.

“Đi nào.” Jace đẩy Clary về phía lối ra. Đám đông chen chúc nhau. Cô giữ ba lô trước ngực, vòng tay ôm bảo vệ nó. Có ai đó va vào vai cô, mạnh, và cô gắt lên rồi tránh sang bên, rời xa Jace. Một bày tay sượt qua ba lô. Cô ngước lên thấy cậu ma cà rồng tai đeo khuyên hình cọc nhọn cười với cô. “Ê, cô gái dễ thương ơi,” hắn nói. “Có gì trong ba lô thế?”

“Nước thánh,” Jace nói, tái xuất hiện bên cạnh cô hệt như một thần đèn bị triệu tới. Một thần đèn tóc vàng hoe thích châm biếm với thái độ không hay.

“Ối, Thợ Săn Bóng Tối,” ma cà rồng nói. “Đáng sợ nhỉ.” Nháy mắt một cái, hắn biến mất trong đám đông.

“Ma cà rồng đúng là lũ đỏng đa đỏng đảnh,” Magnus đứng bên lối cửa mà thở dài. “Thành thật mà nói, tôi chẳng hiểu sao lại đi tổ chức bữa tiệc nữa.”

“Vì mèo của ông,” Clary nhắc nhở.

Magnus hoạt bát lên. “Đúng. Chủ tịch Meow xứng đáng cho tôi nỗ lực hết mình.” Ông ta nhìn cô và nhúm những Thợ Săn Bóng Tối đi sát sau. “Cô cậu đi về đấy à?”

Jace gật đầu. “Không muốn ở quá lâu khiến ông không muốn tiếp.”

“Tiếp gì chứ?” Magnus hỏi. “Tôi nên nói rất vui được gặp các cô cậu đây, nhưng thực ra thì không đâu. Không phải vì các cô các cậu không duyên dáng bặt thiệp, còn riêng với cậu thì...” Ông ta nháy mắt lấp lánh với Alec, anh chàng trông sững sờ. “Gọi cho tôi nhé?”

Alec đỏ mặt, lắp bắp và có lẽ sẽ đứng im cả tối nếu như Jace không nắm lấy khuỷu tay anh ta mà lôi ra ngoài cửa, Isabelle bám theo sát gót. Clary định đi theo thì thấy có ai đó vỗ nhẹ vào tay; là Magnus. “Tôi có thông điệp dành cho cô,” ông ta bảo. “Từ mẹ cô.”

Clary quá ngạc nhiên suýt đánh rơi ba lô. “Từ mẹ tôi à? Ý ông là mẹ tôi nhờ ông nói gì với tôi ư?”

“Không hẳn,” Magnus nói. Đôi mắt mèo của ông ta, bị chẻ giữa bằng hai đồng tử thẳng đứng như hai khe nứt trên bức tường màu vàng kim-xanh lục, lần đầu tiên trở nên nghiêm túc. “Nhưng tôi biết mẹ cô theo cách cô không hề biết. Bà ấy đã làm mọi điều để giúp cô tránh xa cái thế giới mà bà ta căm ghét. Toàn bộ sự tồn tại, rồi bỏ chạy, rồi trốn tránh của mẹ cô – những điều mà cô gọi là dối trá ấy – là để cho cô được an toàn. Đừng liều mạng để rồi lãng phí sự hy sinh của mẹ cô. Bà ấy sẽ không muốn thế.”

“Mẹ tôi không muốn tôi cứu bà ư?”

“Sẽ là không nếu điều đó có nghĩa phải đặt cô vào vòng nguy hiểm.”

“Nhưng tôi là người duy nhất quan tâm tới chuyện xảy tới với mẹ...”

“Không,” Magnus nói. “Không phải đâu.”

Clary chớp mắt. “Tôi không hiểu. Nếu có – Magnus, nếu ông biết gì đó...”

Ông ta cộc lốc cắt lời. “Và điều cuối cùng.” Ánh mắt ông ta loáng nhìn ra cửa, ngay khi Jace, Alec và Isabelle biến mất. “Hãy nhớ là khi mẹ cô chạy trốn khỏi Thế Giới Bóng Tối, không phải vì bà ấy trốn tránh những con quái vật gì đâu. Không phải pháp sư, người sói, thần tiên, kể cả lũ quỷ dữ. Mà là vì họ. Những Thợ Săn Bóng Tối.”

Cả bọn đang đợi cô ở ngoài nhà kho. Jace, tay nhét trong túi quần, dựa người lên lan can cầu thang mà quan sát đám ma cà rồng đi vòng quanh những cỗ xe máy giờ đã hỏng, rủa xả và chửi thề ầm ĩ. Anh cười nhạt. Alec và Isabelle đứng xa hơn một chút. Isabelle đang chùi mắt, và Clary đột nhiên cảm thấy tức tối bực bội – Isabelle hầu như chẳng biết gì về Simon. Cô ta không buồn vì cậu. Clary là người phải khóc, chứ không phải cô nàng Thợ Săn Bóng Tối kia.

Jace đứng thẳng dậy khi Clary xuất hiện. Anh đi bên cạnh cô, không nói năng gì. Anh dường như đang chìm trong suy nghĩ. Isabelle và Alec, rảo bước đi trước, nghe có vẻ như đang tranh cãi. Clary đi nhanh hơn một chút, nghển cổ để nghe cho rõ hơn.

“Đó không phải lỗi của em,” Alec đang nói. Anh ta có vẻ mệt mỏi, như thể đã từng trải qua loại sự kiện như thế này với cô em mình rồi. Clary tự hỏi cô nàng đã vô tình biến bao nhiêu cậu bạn trai thành chuột. “Nhưng việc này phải dạy cho em rằng không nên đi tới quá nhiều các bữa tiệc của Thế Giới Ngầm,” anh nói thêm. “Toàn những thứ lợi bất cập hại không à.”

Isabelle sụt sịt ầm ĩ. “Nếu có chuyện gì xảy ra với cậu ấy, em... em không biết em sẽ làm gì nữa.”

“Có lẽ làm bất cứ điều gì em từng làm ấy,” Alec đáp bằng giọng chán nản. “Cũng có phải là em thân thiết gì lắm với cậu ta đâu.”

“Nhưng không có nghĩa là em không...”

“Sao? Yêu cậu ta ư?” Alec giễu cợt, giọng cao hơn. “Em cần phải hiểu ai đó thì mới yêu người ta được.”

“Nhưng không phải chỉ có vậy.” Giọng Isabelle khá buồn. “Anh không vui chút nào ở bữa tiệc ư, Alec?”

“Không.”

“Em nghĩ anh sẽ thích Magnus. Ông ta cũng dễ thương đấy chứ, đúng không?”

“Dễ thương ư?” Alec nhìn cô em như thể cô bị điên. “Lũ mèo mới dễ thương. Còn pháp sư...” anh chần chừ. “Thì không,” anh ta ngại ngùng nói hết câu.

“Em tưởng anh sẽ lao vào làm quen chứ.” Đôi mắt đánh kim tuyến của Isabelle sáng như nước mắt khi cô liếc nhìn ông anh. “Kết bạn đi.”

“Anh có bạn mà,” Alec nói và ngoái nhìn ra sau, gần như không thể đừng được, về phía Jace.

Nhưng Jace, đầu tóc vàng đang cúi xuống, chìm trong suy nghĩ, không buồn để ý.

Clary đột nhiên mở cái túi và nhìn vào trong – rồi nhăn mặt. Cái túi bị mở toang. Cô nhớ lại bữa tiệc – cô đã nhấc túi lên, đã kéo khóa đóng lại. Chắc chắn mà. Cô giằng mở toang túi ra, trống ngực đập dồn dập.

Cô nhớ lần bị móc mất ví ỏ trên tàu điện ngầm. Cô nhớ đã mở túi, không thấy ví trong đó, miệng mồm khô khốc vì ngạc nhiên – Mình làm rơi ví ư? Mình đã làm mất nó? Và nhận ra: Nó biến mất rồi. Lần này cũng vậy, nhưng tệ hơn gấp ngàn lần. Miệng khô khốc khô ráo, Clary quơ cào trong ba lô, đẩy hết quần áo và cuốn tập sang bên, móng tay dính đầy sạn. Chẳng có gì.

Cô dừng bước. Jace đang đi trước cô, có vẻ mất kiên nhẫn, Alec và Isabelle đã cách cả tòa nhà. “Chuyện gì thế?” Jace hỏi, và cô biết anh định mỉa mai gì đó. Nhưng chắc hẳn anh phải nhìn thấy vẻ mặt cô, vì anh đã không nói. “Clary?”

“Cậu ấy biến mất rồi,” cô thì thào. “Simon. Cậu ấy ở trong ba lô...”

“Cậu ta trèo ra ngoài à?”

Đó không phải một câu hỏi không có lý, nhưng Clary, kiệt sức và hoảng loạn, đã phản ứng lại một cách vô lý. “Tất nhiên là không!” cô hét lên. “Cái gì, anh nghĩ cậu ấy muốn bị xe chèn phải, hay bị mèo ăn thịt à...”

“Clary...”

“Im đi!” cô hét lên, quật cái túi về phía anh. “Anh là người đã bảo không đáng phải biến cậu ấy lại thành người...”

Anh khéo léo bắt lấy cái túi khi cô vung tới. Lấy túi ra khỏi tay cô, anh kiểm tra lục lọi. “Cái khóa bị xé,” anh nói. “Từ bên ngoài. Có người đã xé toạc cái túi.”

Tê dại lắc lắc đầu, Clary chỉ có thể thì thào. “Tôi không...”

“Anh biết.” Giọng anh rất nhẹ nhàng. Anh chụm tay thành loa. “Alec! Isabelle! Cứ đi trước nhé! Bọn này sẽ đuổi theo sau.”

Hai dáng người kia, đã đi khá xa, liền dừng lại; Alec xem chừng lưỡng lự, nhưng cô em đã nắm tay và dứt khoát kéo anh ta về phía lối vào ga tàu. Có gì đó ấn lên lưng Clary: Là tay Jace, nhẹ nhàng xoay cô lại. Cô để cho anh đẩy cô đi tới trước, vấp chân lên những khe nứt trên vỉa hè, cho đến khi họ trở lại lối vào tòa nhà của Magnus. Mùi tanh tưởi của rượu ôi cùng hương ngòn ngọt kỳ lạ của Thế Giới Ngầm tràn ngập trong khoảng không nhỏ xíu. Bỏ tay khỏi lưng cô, Jace ấn chuông mang tên Magnus.

“Jace,” cô nói.

Anh nhìn xuống cô. “Hử?”

Cô cố tìm từ đúng. “Anh nghĩ cậu ấy ổn không?”

“Simon hả?” Lúc này anh hơi lưỡng lự, và cô nghĩ tới lời nói của Isabelle: Đừng hỏi anh ấy câu nào trừ khi cậu biết cậu chịu được câu trả lời. Thay vì nói gì đó, anh lại ấn chuông cửa, lần này mạnh hơn.

Lần này Magnus trả lời, giọng oang oang vang qua lối vào nhỏ xíu. “AI DÁM LÀM PHIỀN GIẤC NGỦ CỦA TA?”

Jace có vẻ khá lo lắng. “Jace Wayland. Nhớ chứ? Từ hội Clave.”

“À đúng rồi.” Magnus dường như có phần vui vẻ hơn. “Cậu là anh chàng có đôi mắt xanh ấy phỏng?”

“Ông ta đang hỏi Alec đấy,” Clary giúp.

“Không. Mọi người thường nói mắt tôi màu vàng,” Jace nói với cái điệu đàm nội bộ. “Và long lánh.”

“À, cậu là cái người đó.” Magnus nghe có vẻ thất vọng. Nếu không phải Clary đang trong tâm trạng không vui, chắc cô đã cười phá lên rồi. “Tôi nghĩ cậu nên đi lên đây.”

Pháp sư ra mở cửa, mặc bộ kimono họa tiết hình rồng, đội khăn xếp vàng, vẻ mặt mang vẻ khó chịu được kiềm chế nhưng vẫn chực bùng lên.

“Tôi đang ngủ đấy,” ông ta nói bằng cái giọng trịnh thượng.

Jace có vẻ như định nói gì hỗn hào, chắc là về cái khăn xếp, vì thế Clary ngắt lời ngay. “Xin lỗi vì làm phiền ông...”

Có gì đó nhỏ và màu trắng lượn quanh chân vị pháp sư. Nó có những cái sọc xám hình zigzag và đôi tai lông hồng khiến nó giống một con chuột lớn hơn là một con mèo nhỏ.

“Chủ tịch Meow đây ư?” Clary đoán.

Magnus gật đầu. “Nó vừa về.”

Jace khinh miệt nhìn con mèo mướp nhỏ. “Đây không phải mèo,” anh nhận xét. “Nó chỉ bằng cỡ con chuột cảnh.”

“Tôi sẽ vui lòng quên đi câu nói đó của cậu,” Magnus nói, lấy chân ẩy Chủ Tịch Meow ra sau lưng. “Nào, chính xác hai cô cậu đến đây vì việc gì nào.”

Clary giơ cái túi rách ra. “Vì Simon. Cậy ấy mất rồi.”

“À,” Magnus nói, nhẹ nhàng, “chính xác là mất gì nào?”

“Mất tích ấy,” Jace nhắc lại, “theo nghĩa biến mất, vắng mặt, không hiện diện, đi mất.”

Có lẽ cậu ta bỏ đi và trốn dưới đâu đó,” Magnus gợi ý. “Không dễ để quen với thân phận chuột, đặc biệt với một người vốn đã quá đần độn.”

“Simon không đần độn,” Clary tức giận phản đối.

“Đúng thế,” Jace đồng tình. “Cậu ta chỉ có vẻ đần độn thôi. Thật chứ sự thông minh của cậu ta rất trung bình.” Giọng anh rất nhẹ nhàng nhưng hai vai căng cứng khi quay sang Magnus. “Khi chúng tôi về, một trong những vị khác của ông đã chạm vào Clary. Tôi nghĩ hắn ta đã rạch ba lô cô ấy lấy đi con chuột. Ý tôi là Simon ấy.”

Magnus nhìn anh. “Và sao?”

“Và tôi cần biết ai làm chuyện đó,” Jace kiên định nói. “Tôi đoán là ông biết. ông là Đại Pháp Sư khu Brooklyn cơ mà. Tôi nghĩ không có nhiều chuyện xảy ra tại căn hộ của ông mà ông không biết đâu.”

Magnus ngắm nghía cái móng tay sơn nhũ. “Cậu nói không sai.”

“Làm ơn nói cho chúng tôi nghe đi,” Clary nói. Jace nắm chặt lấy cổ tay cô. Cô biết anh muốn cô im lặng, nhưng cô không thể. “Làm ơn.”

Magnus hạ tay xuống và thở dài. “Được rồi. Tôi thấy một trong những thằng nhóc ma cà rồng đi xe máy từ hang ổ trong khu thương mại ra về cùng con chuột nâu trên tay. Thành thực mà nói, tôi cũng tưởng đó là con chuột của chúng. Thi thoảng những Đứa Trẻ của Màn Đêm cũng biến thành chuột hay dơi khi say.”

Hai tay Clary run rẩy. “Nhưng giờ ông nghĩ đó là Simon à?”

“Chỉ là đoán thôi, nhưng chắc vậy rồi.”

“Còn một điều nữa,” Jace nói chuyện khá bình tĩnh, nhưng giờ anh đang cảnh giác cao độ, theo kiểu lúc ở nhà cô trước khi đụng phải Kẻ Lầm Đường. “Hang ổ của chúng ở đâu?”

“Cái gì của chúng cơ?”

“Hang ổ của ma cà rồng. Đó là nơi chúng tới, đúng không?”

“Tôi hình dung ra thế.” Magnus trông như thể thà là mình đang ở nơi nào khác.

“Tôi cần ông nói cho tôi biết nó ở đâu.”

Magnus lắc cái đầu đang cuốn khăn. “Tôi không có ý định trở thành kẻ thù của những Đứa Trẻ của Màn Đêm chỉ vì một người trưởng thành mà tôi không hề quen biết.”

“Đợi đã,” Clary ngắt ngang. “Chúng muốn gì ở Simon thế? Tôi nghĩ chúng không được phép làm hại con người...”

“Theo như tôi đoán ư?” Magnus nói, không vui vẻ gì lắm cho cam. “Chúng cho rằng cậu ta là một con chuột đã thuần hóa và nghĩ sẽ rất vui khi giết thú cưng của Thợ Săn Bóng Tối. Họ không thích các người là mấy, dù cho Hòa Ước nói gì chăng nữa – còn trong Giao ước cũng chẳng nói gì tới việc giết động vật.”

“Vậy chúng sẽ giết cậu ấy à?” Clary nói, nhìn trân trân.

“Không hẳn đâu,” Magnus nói liến thoắng. “Có thể chúng đã tưởng cậu ta là một trong số chúng thôi.”

“Trong trường hợp đó, chuyện gì sẽ xảy ra với cậu ấy?” Clary nói.

“À thì, khi cậu ấy trở lại thành người, họ vẫn giết cậu ta. Nhưng cô cậu sẽ có thêm vài tiếng nữa.”

“Vậy ông phải giúp chúng tôi,” Clary nói với pháp sư. “Nếu không Simon chết mất.”

Magnus nhìn cô từ trên xuống dưới như kiểucảm thông sâu sắc. “Bé cưng à, rồi họ sẽ chết cả thôi,” ông ta nói. “Cô nên làm quen với điều đó cho rồi.”

Ông ta bắt đầu đóng cửa. Jace nhét chân vào, chặn cửa lại. Magnus thở dài. “Gì nữa đây?”

“Ông vẫn chưa nói cho chúng tôi biết cái ổ đó ở đâu,” Jace nói.

“Và tôi sẽ không nói. Tôi đã nói với cậu...”

Là Clary ngắt lời ông ta, chen lên trước Jace. “Ông đã gây rối loạn trí nhớ của tôi,” cô nói. “Cướp đi ký ức của tôi. Ông không thể làm dù chỉ một điều cho tôi ư?”

Magnus nhíu đôi mắt mèo sáng rực lại. Ở đâu đó xa xa, Chủ tịch Meow đang gào thét. Thật chậm rãi vị pháp sư hạ đầu xuống và đập một lần, không hề nhẹ, vào tường. “Khách sạn Dumont cũ. Trong khu thương mại.”

“Tôi biết chỗ đó,” Jace có vẻ hài lòng.

“Chúng tôi cần tới đó ngay lập tức. Ông có Cổng Dịch Chuyển không?” Clary gặng hỏi, ý là với Magnus.

“Không.” Ông ta có vẻ bực mình. “Cổng Dịch Chuyển quá khó xây dựng và mang lại không ít nguy hiểm cho người sở hữu. Những thứ ghê tởm có thể chui qua nếu cánh cổng không được trông giữ cẩn thận. Tôi chỉ biết hai cánh cổng duy nhất ở New York là tại nhà Dorothea và Renwick, nhưng cả hai đều quá xa chẳng đáng để cô cậu cố tới đó làm gì, thậm chí là nếu cô cậu biết chắc họ cho phép cô cậu sử dụng ấy, mà rất có khả năng là không. Hiểu chưa? Giờ đi đi.” Magnus nhìn chằm chằm vào chân Jace, vẫn chẹn ở cửa. Jace không nhúc nhích.

“Một điều nữa,” Jace nói. “Có nhà thờ nào gần đây không?”

“Ý kiến hay. Nếu cậu định tự mình tấn công hang ổ của ma cà rồng, cậu nên cầu nguyện trước.”

“Chúng tôi cần vũ khí,” Jace đáp gọn lỏn. “Nhiều hơn những thứ chúng tôi hiện đang có trên người.”

Magnus chỉ. “Có một nhà thờ Công giáo ở dưới đường Diamond. Cái đó được không?”

Jace gật đầu, lùi lại. “Thật...”

Cánh cửa đóng sầm trước mặt họ, Clary, thở hổn hển như đang chạy nãy giờ, nhìn cánh cửa trân trối cho tới khi Jace nắm lấy tay cô mà kéo xuống cầu thang và bước vào màn đêm.